Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực tiễn thi hành pháp luật về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc khi xác định thu nhập chịu thuế tại thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Đối với cơ quan thuế

2.1.1. Khó khăn, vướng mắc

Công tác quản lý thuế giữ vai trò then chốt trong việc thực hiện các quy định pháp luật, góp phần đánh giá tính hiệu quả, khả thi, đồng thời phát hiện những hạn chế trong các quy định hiện hành. Để tuân thủ Luật Thuế Thu nhập cá nhân, cá nhân và tổ chức liên quan cần thực hiện các thủ tục thuế như: đăng ký thuế, cấp mã số thuế, khấu trừ thuế, khai thuế, nộp thuế và quyết toán thuế. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề án, tác giả tập trung phân tích công tác quản lý thuế liên quan đến GTGC, cụ thể là các thủ tục và hồ sơ đăng ký thuế đối với người phụ thuộc, cũng như việc cơ quan thuế giám sát và kiểm soát các nội dung này.

  • Về thủ tục, hồ sơ chứng minh người phụ thuộc

Theo quy định tại Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Thông tư 79/2022/TT-BTC, hồ sơ chứng minh người phụ thuộc áp dụng đối với các trường hợp là con, vợ hoặc chồng, bố mẹ của người nộp thuế và những cá nhân được người nộp thuế trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với người nộp thuế làm việc tại doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hoặc cơ quan hành chính sự nghiệp, nếu có người phụ thuộc là bố mẹ, vợ/chồng, con, hoặc các đối tượng khác đáp ứng điều kiện là người phụ thuộc đã khai báo trong lý lịch, hồ sơ chứng minh có thể được lập theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Thông tư 79/2022/TT-BTC). Ngoài ra, có thể sử dụng Tờ khai đăng ký người phụ thuộc theo mẫu ban hành tại Thông tư 80/2021/TT-BTC, trong đó cần có xác nhận của thủ trưởng đơn vị ngay trên tờ khai. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Pháp luật cũng đã quy định cụ thể về địa điểm, thời gian nộp hồ sơ minh chứng người phụ thuộc để đảm bảo quyền lợi của NNT và đảm bảo công tác quản lý được chặt chẽ. Địa điểm nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc được xác định là nơi người nộp thuế thực hiện đăng ký người phụ thuộc. Cơ quan, tổ chức sử dụng lao động có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ chứng minh người phụ thuộc và cung cấp khi CQT tiến hành kiểm tra hoặc thanh tra. Thời hạn để nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc là trong vòng 03 tháng kể từ ngày nộp tờ khai đăng ký người phụ thuộc, bao gồm cả trường hợp đăng ký thay đổi thông tin. Nếu quá thời hạn quy định mà NNT không nộp hồ sơ, sẽ không được áp dụng GTGC cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp.

Đánh giá tổng quan, khi áp dụng quy định về thủ tục, hồ sơ chứng minh NPT cơ quan quản lý thuế cũng chưa gặp phải quá nhiều khó khăn do chỉ cần NNT đảm bảo thực hiện đúng và đủ hồ sơ minh chứng NPT nộp cho cơ quan thuế sẽ được tính GTGC. Tuy nhiên, nếu đánh giá theo khía cạnh về tính minh bạch của hồ sơ thì vấn đề này vẫn cần được quan tâm, chú trọng hơn nữa.

  • Về khai giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc

Theo quy định hướng dẫn cách thức kê khai NPT tại Khoản 10, Điều 7 Thông tư 105/2020/TT-BTC đối với NNT là cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công từ 11 triệu đồng/tháng trở lên muốn kê khai NPT như sau:

Thứ nhất, hồ sơ đăng ký người phụ thuộc (NPT) lần đầu có hai trường hợp:

  • Trường hợp cá nhân ủy quyền cho cơ quan chi trả thu nhập thực hiện đăng ký thuế cho NPT: Hồ sơ được nộp tại cơ quan chi trả thu nhập.
  • Thành phần hồ sơ bao gồm:
  • Văn bản ủy quyền.
  • Giấy tờ liên quan đến NPT: Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.
  • Bản sao Thẻ CCCD hoặc CMND còn hiệu lực đối với NPT là công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên.
  • Bản sao GKS hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với NPT là công dân Việt Nam dưới 14 tuổi.
  • Bản sao Hộ chiếu đối với NPT có quốc tịch nước ngoài hoặc công dân Việt Nam sinh sống tại nước ngoài.
  • Cơ quan chi trả thu nhập sẽ tổng hợp thông tin và gửi Tờ khai đăng ký thuế (mẫu số 20-ĐK-TH-TCT ban hành kèm theo Thông tư 105/2020/TT-BTC) đến CQT quản lý trực tiếp.
  • Trường hợp cá nhân không ủy quyền cho tổ chức hoặc cá nhân chi trả thu nhập thực hiện đăng ký thuế cho NPT: Cá nhân cần nộp hồ sơ đăng ký thuế trực tiếp tại CQT có thẩm quyền theo quy định.
  • Thành phần hồ sơ:
  • Tờ khai đăng ký thuế theo mẫu số 20-ĐK-TCT ban hành kèm Thông tư 105/2020/TT-BTC.
  • Bản sao Thẻ CCCD hoặc CMND còn hiệu lực đối với NPT là công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên.
  • Bản sao GKS hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với NPT là công dân Việt Nam dưới 14 tuổi.
  • Bản sao Hộ chiếu còn hiệu lực đối với NPT mang quốc tịch nước ngoài hoặc là công dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài.

Thứ hai, thủ tục khi có sự thay đổi về người phụ thuộc:

Khi có sự thay đổi về NPT (tăng hoặc giảm) do các tình huống như sinh con, con trên 18 tuổi đã có việc làm và thu nhập, hoặc bố mẹ qua đời,… người nộp thuế phải thực hiện khai bổ sung thông tin thay đổi của NPT. Việc khai bổ sung được thực hiện theo mẫu 20-ĐK-TCT ban hành kèm theo các văn bản hướng dẫn quản lý thuế. Hồ sơ khai bổ sung được nộp cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập hoặc CQT trong trường hợp NNT trực tiếp khai thuế tại CQT. Quy trình và thủ tục kê khai thay đổi về NPT tương tự như quy trình đăng ký NPT lần đầu.

Nhìn chung vào thực tế khi thực hiện việc kê khai NPT khá suôn sẻ, ít gặp hạn chế hay bất cập, thường chỉ phát hiện vấn đề trong quá trình kiểm tra, thanh tra tổ chức hoặc cá nhân chi trả thu nhập hoặc khi quyết toán thuế. Các sai phạm thường xuất phát từ sự thiếu trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập hoặc do không nắm vững các quy định về khai GTGC, dẫn đến mất quyền lợi của NNT hoặc gây thất thoát cho ngân sách nhà nước. Do đó, cần có các quy định cụ thể để xác định trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào quy trình này.

Về cơ bản, trong quá trình cơ quan quản lý thuế áp dụng các quy định về thủ tục, hồ sơ minh chứng NPT để làm căn cứ áp dụng GTGC phù hợp chưa gặp nhiều khó khăn, bất cập nhưng trong quá trình đảm bảo thi hành pháp luật GTGC cho người phụ thuộc cần chú ý: Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Thứ nhất, hiện nay chưa có cơ chế hiệu quả để xác minh tính chính xác của các giấy tờ và hồ sơ liên quan đến việc chứng minh NPT. Quy định pháp luật chưa phân định rõ ràng trách nhiệm xác minh thuộc về cơ quan, đơn vị cụ thể nào, cũng như thiếu các quy định liên quan đến sự phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận nhằm thiết lập hệ thống kết nối thông tin. Điều này dẫn đến việc CQT chỉ có thể xem xét tính hợp pháp của hồ sơ mà không thể kiểm tra tính chính xác, trung thực, và minh bạch, bởi chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các bên liên quan. Về lâu dài, tình trạng này có nguy cơ tạo nên tư tưởng ỷ lại ở NNT, đồng thời dẫn đến sự quan liêu và thiếu trách nhiệm trong một số bộ phận cán bộ, công chức ngành thuế. Thậm chí, những lỗ hổng này có thể bị lợi dụng bởi một số NNT để thực hiện các hành vi gian lận hoặc trốn thuế, gây thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước.

Thứ hai, pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định rõ ràng về loại giấy tờ cần thiết để chứng minh thu nhập đối với NPT là con. Trong các trường hợp người nộp thuế khai NPT là con đang theo học tại các cấp học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, hoặc dạy nghề, hoặc là con từ 18 tuổi trở lên vẫn theo học bậc phổ thông (bao gồm cả thời gian sau khi kết thúc lớp 12 đến khi có điểm thi đại học), pháp luật yêu cầu NNT phải cung cấp giấy tờ minh chứng rằng con không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân dưới 1 triệu đồng mỗi tháng từ mọi nguồn. Tuy nhiên, lại không có hướng dẫn cụ thể về loại giấy tờ nào đủ để chứng minh thu nhập này. Sự thiếu rõ ràng này vô tình làm giảm hiệu lực của quy định về mức thu nhập của NPT, gây khó khăn cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quản lý thuế. Điều này cũng mở ra những kẽ hở pháp lý, khiến việc thực hiện quy định trở nên thiếu minh bạch và dễ bị lợi dụng.

Bên cạnh các chú ý khi quản lý về thủ tục, hồ sơ minh chứng đối với NPT, thì khó khăn của cơ quan quản lý thuế trong quản lý việc kê khai GTGC cho NPT cũng cần phải chú ý vấn đề khó khăn trong việc xử lý mâu thuẫn giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế với trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập. Các vấn đề này thường phát sinh trong một số trường hợp cụ thể như sau:

Thứ nhất, việc không thực hiện kê khai kết thúc GTGC khi người phụ thuộc không còn đáp ứng các điều kiện được hưởng GTGC. Ví dụ, bố mẹ của NPT đã có thu nhập hoặc con đã hoàn thành chương trình học đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Thứ hai, vướng mắc trong việc chuyển đổi NPT từ một NNT sang một NNT khác. Một trường hợp điển hình là con chưa thành niên dưới 18 tuổi được chuyển từ phụ thuộc vào mẹ sang cha hoặc ngược lại. Theo quy định, tổ chức hoặc cá nhân chi trả thu nhập cho mẹ cần thực hiện việc kết thúc giảm trừ trước, sau đó tổ chức hoặc cá nhân bên cha mới được đăng ký giảm trừ. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp xảy ra tình trạng tổ chức hoặc cá nhân bên cha đã đăng ký giảm trừ nhưng tổ chức, cá nhân bên mẹ lại chưa thực hiện việc kết thúc giảm trừ. Điều này dẫn đến việc cơ quan thuế vẫn ghi nhận NPT thuộc bên mẹ và không chấp nhận giảm trừ cho bên cha. Trong một số năm tiếp theo, tổ chức bên cha có thể không biết rõ tình trạng này và vẫn cho rằng đã hoàn tất đăng ký, gây ra thiệt hại quyền lợi của NNT.

Thứ ba, tại các tổ chức và cá nhân chi trả thu nhập, việc kê khai người phụ thuộc thường do bộ phận kế toán đảm nhận, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quyết toán và hoàn thuế. Cụ thể, các tổ chức thường nộp tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân trước khi cung cấp chứng từ khấu trừ thuế và thư xác nhận cho người nộp thuế. Điều này dẫn đến tình trạng người nộp thuế thường nhận được chứng từ sau 90 ngày, khi thời hạn nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc tại cơ quan thuế đã hết. Việc nộp hồ sơ trễ hạn khiến người nộp thuế không được giảm trừ gia cảnh và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp.

Những tình huống nêu trên có thể dẫn đến các tranh chấp, khiếu nại hoặc tố cáo giữa NNT và tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập. Khi cơ quan thuế tiến hành kiểm tra, thanh tra và phát hiện sai sót, thường xảy ra xung đột trong việc xác định trách nhiệm, dẫn đến hiện tượng các bên liên quan đùn đẩy hoặc né tránh trách nhiệm. Mặc dù pháp luật đã quy định trách nhiệm kê khai người phụ thuộc, nhưng vẫn cần có các hướng dẫn cụ thể hơn để làm rõ nghĩa vụ của NNT đối với tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập, cũng như trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập đối với cơ quan thuế. Điều này nhằm đảm bảo quá trình thực thi pháp luật diễn ra minh bạch, làm rõ các sai phạm và trách nhiệm của từng bên liên quan, tránh tình trạng thiếu rõ ràng, né tránh trách nhiệm và thiếu minh bạch trong công tác quản lý thuế..

2.1.2. Định hướng hoàn thiện Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Để kịp thời nắm bắt thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý cho cơ quan Thuế đối với công tác quản lý thuế trong thi hành pháp luật về GTGC đối với NPT khi tính thuế Thu nhập cá nhân, tác giả đề xuất hoàn thiện pháp luật như sau:

Thứ nhất, trong việc xác định trách nhiệm của NNT và tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập trong quá trình kê khai hồ sơ người phụ thuộc, cần quy định và hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm trung thực của NNT đối với tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập và ngược lại. Đồng thời, cũng cần làm rõ trách nhiệm của NNT và đơn vị chi trả thu nhập đối với cơ quan thuế. Quy định cần xác định rõ ai là chủ thể chính chịu trách nhiệm kê khai và bên nào đảm nhận nghĩa vụ nộp thuế.

Bên cạnh đó, cần ban hành hướng dẫn chi tiết về việc xác minh tính chính xác của hồ sơ và giấy tờ chứng minh người phụ thuộc trong khai giảm trừ gia cảnh. Hướng dẫn này nên quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận liên quan, cũng như các biện pháp xử lý khi phát hiện sai sót.

Để đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ, pháp luật cần bổ sung quy định chi tiết về hồ sơ chứng minh thu nhập của người phụ thuộc, tránh xung đột hoặc chồng chéo trong các văn bản pháp luật. Việc thiếu sự rõ ràng hiện nay không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan mà còn tạo ra lỗ hổng cho tình trạng thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra và thanh tra thuế..

Thứ hai, cần xây dựng một quy quy định về giấy tờ chứng minh thu nhập của NPT, trong khi loại giấy tờ minh chứng thu nhập của NPT là điều kiện quan trọng để xác định chính xác NPT. Do đó, cần bổ sung mẫu biểu và hướng dẫn chi tiết trong văn bản pháp luật. Đồng thời, quy định rõ cơ quan có thẩm quyền xác nhận giấy tờ này, nhằm tránh tình trạng NNT và NPT không hiểu rõ hoặc lúng túng khi thực hiện. Điều này sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thuế.

Thứ ba, cần điều chỉnh thời hạn nộp hồ sơ minh chứng NPT. Cụ thể, pháp luật nên cân nhắc gia hạn thời gian nộp hồ sơ minh chứng từ 90 ngày lên 120 ngày. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NNT trong những trường hợp gặp khó khăn do yếu tố khách quan.

Ngoài ra, để phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về GTGC trong thuế thu nhập cá nhân TNCN, cần đầu tư phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu và công nghệ thông tin. Việc cải thiện hệ thống trang web và cổng thông tin điện tử sẽ giúp quá trình nộp hồ sơ đăng ký thuế trở nên thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian và công sức cho cả NNT lẫn cán bộ, công chức thuế.

Hơn nữa, với cơ sở dữ liệu điện tử hiện đại, việc truy xuất thông tin liên quan đến NNT sẽ được thực hiện nhanh chóng và dễ dàng hơn so với việc xử lý thủ công trên hồ sơ giấy. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung dành riêng cho thuế TNCN để cán bộ thuế có thể quản lý, bổ sung, và cập nhật thông tin hiệu quả. Điều này không chỉ giúp việc xử lý hồ sơ nhanh hơn mà còn nâng cao tính chính xác và minh bạch trong việc kiểm tra thông tin liên quan đến NPT.

2.2. Đối với người nộp thuế Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

2.2.1. Khó khăn, vướng mắc

Theo khoản 1 Điều 19 Luật Thuế Thu nhập cá nhân, đối tượng được áp dụng GTGC bao gồm người nộp thuế và người phụ thuộc của họ. Dựa trên những cơ sở lý luận tại Chương 1, việc áp dụng GTGC cho hai đối tượng này là cần thiết và hợp lý. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả và mục đích ban đầu của chính sách, pháp luật đã đặt ra các điều kiện cụ thể cho từng chủ thể. Điều này xuất phát từ thực tế rằng không phải mọi người nộp thuế đều được hưởng GTGC và không phải tất cả người thân của họ đều được công nhận là người phụ thuộc.

Việc GTGC cho người nộp thuế, căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 65/2013/NĐ-CP quy định rằng người nộp thuế TNCN bao gồm cả cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú, với thu nhập chịu thuế được xác định theo Điều 3 Luật Thuế TNCN và Nghị định này. Tuy nhiên, chỉ những cá nhân cư trú mới đủ điều kiện để được hưởng chính sách GTGC.

Cá nhân cư trú được xác định dựa trên các tiêu chí về sự hiện diện hoặc nơi ở tại Việt Nam. Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định 65/2013/NĐ-CP, cá nhân cư trú phải đáp ứng ít nhất một trong các điều kiện sau:

Thứ nhất là Cá nhân phải có mặt tại Việt Nam ít nhất 183 ngày trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục tính từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Khi đáp ứng điều kiện này, cá nhân sẽ được áp dụng GTGC đối với thu nhập phát sinh cả trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Thứ hai là nơi ở tại Việt Nam, theo quy định tại Thông tư 111/2013/TT-BTC, nơi ở thường xuyên tại Việt Nam được hiểu là một trong hai trường hợp: (i) có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú, hoặc (ii) có nhà thuê tại Việt Nam với hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế. Đối với công dân Việt Nam, nơi ở thường xuyên là nơi sinh sống ổn định, không thời hạn và đã được đăng ký thường trú theo quy định pháp luật. Đối với người nước ngoài, nơi ở thường xuyên là nơi ghi trong Thẻ thường trú hoặc nơi tạm trú được cơ quan có thẩm quyền cấp. Trong trường hợp nhà thuê, thời gian thuê được cộng dồn từ nhiều hợp đồng nhưng phải đạt ít nhất 183 ngày trong năm.

Ngoài ra, nếu cá nhân có nơi ở thường xuyên nhưng hiện diện thực tế dưới 183 ngày và không chứng minh được là cư trú tại nước khác, họ vẫn được coi là cá nhân cư trú tại Việt Nam. Ngược lại, nếu chứng minh được cư trú tại quốc gia khác (bằng Giấy chứng nhận cư trú hoặc hộ chiếu đối với các nước ký Hiệp định thuế với Việt Nam), họ không bị coi là cá nhân cư trú tại Việt Nam.

Việc phân loại cá nhân cư trú và không cư trú ảnh hưởng trực tiếp đến cách tính thuế. Theo Thông tư 111/2013/TT-BTC, cá nhân cư trú tính thuế theo kỳ tính thuế năm và áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần. Trong khi đó, cá nhân không cư trú tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập với thuế suất cố định. Điều này mang lại lợi thế cho cá nhân cư trú trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.

Và việc áp dụng GTGC chỉ cho cá nhân cư trú là hợp lý, bởi đây là những người sinh sống, làm việc và đóng góp lâu dài vào nền kinh tế – xã hội Việt Nam. Họ cũng đối mặt với chi phí sinh hoạt tại Việt Nam trong thời gian tương đối dài. Quy định này đảm bảo sự công bằng trong điều tiết thu nhập, đồng thời cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế.

Đối với các quy định GTGC cho người phụ thuộc đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chính xác đối tượng mà người nộp thuế phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc. Điều này đảm bảo sự hỗ trợ tài chính từ nhà nước được áp dụng đúng đối tượng và phù hợp với hoàn cảnh thực tế của người nộp thuế. Theo Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính, các đối tượng người phụ thuộc được phân thành bốn nhóm chính: Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

  • Nhóm con cái: Bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ hoặc chồng. Những đối tượng này được xác định là người phụ thuộc trong các trường hợp: dưới 18 tuổi (tính đủ tháng); từ 18 tuổi trở lên nhưng bị khuyết tật và không có khả năng lao động; hoặc đang học tập tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước (bậc trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học hoặc đào tạo nghề) và có thu nhập trung bình tháng trong năm không vượt quá 1 triệu đồng.
  • Nhóm vợ hoặc chồng: Người phụ thuộc thuộc nhóm này cần đáp ứng các điều kiện được quy định trong pháp luật, chẳng hạn như không có khả năng lao động hoặc không có nguồn thu nhập đủ để tự trang trải cuộc sống.
  • Nhóm bố mẹ: Bao gồm bố mẹ ruột, bố mẹ vợ/chồng, bố mẹ nuôi hợp pháp, cha dượng, mẹ kế hoặc những trường hợp khác tương tự, nếu đáp ứng các điều kiện theo luật định như thu nhập thấp hoặc không có khả năng lao động.
  • Nhóm các cá nhân khác không nơi nương tựa: Nhóm này bao gồm những người thân thích như ông bà, anh chị em ruột, cô dì, chú bác, cậu mợ, cháu ruột hoặc các cá nhân khác mà người nộp thuế đang trực tiếp nuôi dưỡng. Điều kiện để xác định người thuộc nhóm này khá phức tạp, đòi hỏi họ không có nơi nương tựa và phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của người nộp thuế.

Ngoài nhóm con cái, các nhóm khác cần đáp ứng các điều kiện bổ sung về độ tuổi, sức khỏe và thu nhập để được công nhận là người phụ thuộc như đã đề cập ở chương 1.

Người dưới 18 tuổi mặc định được xem là người phụ thuộc nếu cha hoặc mẹ thực hiện thủ tục đăng ký GTGC. Tuy nhiên, với những đối tượng khác, độ tuổi lao động (từ đủ 15 tuổi đến tuổi nghỉ hưu) được áp dụng làm căn cứ. Người trong độ tuổi lao động cần thêm điều kiện về sức khỏe và thu nhập, trong khi người ngoài độ tuổi lao động chỉ cần đáp ứng điều kiện về thu nhập (không có thu nhập hoặc thu nhập trung bình tháng không vượt quá 1 triệu đồng).

Một trường hợp đặc biệt là cá nhân từ 15 tuổi trở lên, nếu tham gia lao động có thu nhập thì vừa có thể là người phụ thuộc, vừa có thể là người nộp thuế. Điều này tạo ra sự mâu thuẫn cần được xem xét và điều chỉnh trong tương lai.

Điều kiện sức khỏe là yếu tố quan trọng, thường được áp dụng cho các đối tượng khuyết tật, mắc bệnh hoặc không có khả năng lao động. Đây là yếu tố cần thiết để xác định rằng người phụ thuộc không thể tự nuôi sống mình mà phải dựa vào người nộp thuế. Điều kiện này có thể được áp dụng độc lập hoặc kết hợp với các điều kiện khác.

Điều kiện không nơi nương tựa và trực tiếp nuôi dưỡng chủ yếu áp dụng cho nhóm các cá nhân không nơi nương tựa, như những người sống cô đơn, không còn người thân hoặc không có ai trong độ tuổi lao động và có sức khỏe bình thường để hỗ trợ. Khái niệm “không nơi nương tựa” tuy chưa được định nghĩa rõ ràng trong luật thuế, nhưng một số văn bản pháp luật có hướng dẫn, ví dụ: người sống độc thân, không còn bố mẹ, vợ/chồng hoặc con trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, yếu tố “trực tiếp nuôi dưỡng” cũng được sử dụng để xác định người phụ thuộc nhằm giới hạn phạm vi đối tượng.

Về trách nhiệm nuôi dưỡng, đây là điều kiện pháp lý và đạo đức để xác định người phụ thuộc. Theo Luật Hôn nhân gia đình 2014, người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình như bố mẹ, ông bà, anh chị em ruột, cô dì, chú bác và cháu ruột. Việc nuôi dưỡng này phải đáp ứng yêu cầu cung cấp đầy đủ điều kiện sinh sống và phát triển cho người phụ thuộc, từ đó phân biệt với các hoạt động thiện nguyện hoặc hỗ trợ nhân đạo.

Nhìn chung, quy định GTGC đối với người phụ thuộc hiện nay đã tương đối bao quát, đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng và phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Tuy nhiên, một số nội dung cần được điều chỉnh, như giới hạn độ tuổi hoặc mức thu nhập tối đa của người phụ thuộc, để phù hợp hơn với sự thay đổi trong xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh người trẻ tham gia lao động sớm hoặc thu nhập thực tế có xu hướng tăng. Việc điều chỉnh các quy định này sẽ giúp chính sách giảm trừ gia cảnh hiệu quả hơn, đồng thời duy trì tính công bằng trong hệ thống thuế. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Ngoài ra, khi tính đến mức GTGC là khoản tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế thu nhập cá nhân, áp dụng cho người nộp thuế và người phụ thuộc. Quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Thuế TNCN xác định rõ mức giảm trừ cho hai đối tượng này. Cụ thể, mức GTGC cho người nộp thuế trước đây là 9.000.000 đồng/tháng (108 triệu đồng/năm) và cho người phụ thuộc là 3.600.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 ban hành ngày 2/6/2020, mức giảm trừ đã được điều chỉnh lên 11.000.000 đồng/tháng (132 triệu đồng/năm) cho người nộp thuế và 4.400.000 đồng/tháng cho người phụ thuộc. Sự thay đổi này nhằm thích ứng với biến động kinh tế xã hội, trong đó chỉ số giá tiêu dùng tăng vượt ngưỡng 20% theo quy định. Nhờ điều chỉnh này, gánh nặng thuế của người nộp thuế được giảm bớt, giúp họ có thêm nguồn lực tài chính để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.

Nhưng theo phân tích, mức GTGC hiện nay được thiết lập theo phương thức cố định cho tất cả người nộp thuế và người phụ thuộc, không phân biệt khu vực địa lý. Mức giảm trừ này dựa trên mức tiêu dùng tối thiểu, nên có thể chưa phù hợp với một số đối tượng. Chẳng hạn, tại các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, chi phí sinh hoạt cao hơn nhiều so với các khu vực nông thôn hoặc miền núi, dẫn đến mức giảm trừ hiện tại có thể không đáp ứng đủ nhu cầu của người nộp thuế tại các đô thị lớn. Trong khi đó, ở những nơi có chi phí thấp, mức giảm trừ này lại vượt mức cần thiết. Trong khoảng thời gian từ lần điều chỉnh mức GTGC đến nay, tình hình kinh tế đã có nhiều biến động, đặc biệt là sự tăng giá đáng kể của hàng hóa và dịch vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh, khiến mức giảm trừ gia cảnh áp dụng cho người phụ thuộc hiện tại trở nên ngày càng lạc hậu và không còn phản ánh đúng thực tế chi phí sinh hoạt ảnh hưởng đến thu nhập của người nộp thuế.

Theo khảo sát Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 9 năm 2024 tại TP. Hồ Chí Minh đã tăng 14,26% so với cùng kỳ năm trước.

Bảng 2.1. Tốc độ tăng/giảm CPI của Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9/2024 so với tháng 9/2023

Sự tăng trưởng này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là:

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống: Tăng 20.04% so với tháng 9 năm 2023. Trong nhóm này, giá lương thực tăng mạnh nhất, đạt 21,5%, nhóm thực phẩm tăng 15,51%. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Nhóm giáo dục: Tăng mạnh lên đến 30.71% so với tháng 9 năm 2023, chủ yếu do việc một số trường trong địa bàn thành phố đã tăng mức học phí trong năm học 2023-2024, 2024 – 2025.

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế: Tăng 5.4%, trong đó dịch vụ y tế tăng 5,85% chủ yếu do việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023.

Tuy thể hiện trên chỉ số CPI chưa đạt ngưỡng 20% nhưng nếu cân nhắc tình hình thực tế thì việc tăng giá tác động rất lớn đến đời sống của người dân. Do trong danh sách các mặt hàng được tính trung bình trong chỉ số CPI lên đến 750 mặt hàng, trong khi chỉ có khoản 30 mặt hàng liên quan đến cuộc sống hằng ngày của người dân. Việc bao gồm quá nhiều mặt hàng, với các hệ số trọng số khác nhau, khiến CPI trở thành một chỉ số trung bình. Điều này có nghĩa là, sự tăng giá của một số mặt hàng có thể bị bù trừ bởi sự giảm giá của các mặt hàng khác, dẫn đến việc CPI không phản ánh chính xác mức độ tăng giá của những mặt hàng mà người dân tiêu dùng nhiều nhất. Cho thấy việc áp dụng mức tăng 20% của CPI làm căn cứ để xét tăng mức GTGC là quá cứng nhắc và không phản ánh được sự biến động nhanh chóng của giá cả hàng hóa, dịch vụ. Việc cộng dồn lạm phát của nhiều năm là không khoa học và không thể hiện được mức độ ảnh hưởng của lạm phát đến sinh hoạt chi tiêu tối thiểu của một người phụ thuộc khiến cho NNT phải chịu gánh nặng từ thuế phải nộp và chi phí để nuôi dưỡng NPT.

2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Chính sách giảm trừ gia cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế đầy biến động hiện nay. Tuy nhiên, để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, cần có những điều chỉnh phù hợp với thực tế chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cao. Hiện nay, việc sử dụng ngưỡng tăng CPI 20% làm cơ sở điều chỉnh mức GTGC được xem là quá cứng nhắc và không phản ánh kịp thời những thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội. Chỉ số CPI chỉ cần tăng từ 5-10% đã có thể ảnh hưởng đáng kể đến chi phí sinh hoạt của người lao động, đặc biệt là nhóm có thu nhập thấp. Vì vậy, cần thay đổi cơ chế điều chỉnh GTGC theo hướng linh hoạt hơn để bảo vệ quyền lợi của người dân. Theo đề xuất của tác giả, mức GTGT cần được đánh giá hoàn thiện theo các giải pháp:

Thứ nhất: Giảm ngưỡng CPI để kích hoạt điều chỉnh mức GTGC: Thay vì chờ CPI tăng 20% mới xem xét điều chỉnh, chỉ cần CPI tăng từ 5-10% là cần thiết để cân nhắc mức điều chỉnh phù hợp. Điều này giúp hệ thống thuế phản ứng nhanh hơn với thực tế biến động giá cả, giảm áp lực chi tiêu cho người lao động ngay cả khi mức tăng giá chỉ ở mức nhẹ. Điều này sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, bởi vì ngay cả khi giá cả tăng nhẹ cũng đã gây ảnh hưởng đáng kể đến chi tiêu hàng ngày của họ.

Thứ hai, cần bổ sung các yếu tố kinh tế – xã hội khác như mức lạm phát cơ bản, thu nhập bình quân, tỷ lệ thất nghiệp và chi phí sinh hoạt tại các vùng miền vào quá trình đánh giá. Điều này đảm bảo mức GTGC được điều chỉnh phù hợp hơn với thực tế đời sống. Thay vì chờ đến khi có biến động lớn, cần thiết đặt mức GTGC nên được điều chỉnh định kỳ (ví dụ: 2-3 năm/lần), đưa vào các kỳ họp hằng năm để được các đại biểu Quốc hội cân nhắc, đánh giá dựa trên các báo cáo tổng hợp về kinh tế – xã hội. Điều này không chỉ đảm bảo tính kịp thời mà còn giúp người lao động có kế hoạch tài chính ổn định hơn. Những thay đổi này không chỉ giúp hệ thống thuế trở nên linh hoạt hơn mà còn hỗ trợ hiệu quả hơn cho người lao động, đặc biệt là những người thu nhập thấp, vốn dễ bị tổn thương trước sự gia tăng của chi phí sinh hoạt. Đồng thời, việc cải tiến cơ chế này cũng sẽ góp phần nâng cao niềm tin của người dân vào chính sách tài chính quốc gia.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Chương 2 đã trình bày những khó khăn và vướng mắc của CQT tại TP. Hồ Chí Minh khi thực thi pháp luật về giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc trong xác định thu nhập chịu thuế. Các vấn đề được phân tích bao gồm những hạn chế trong thủ tục, hồ sơ chứng minh người phụ thuộc, quy trình khai báo và quản lý giảm trừ gia cảnh, cũng như những bất cập trong việc xác định trách nhiệm giữa các bên liên quan.

  • Những khó khăn chủ yếu đến từ:

Thiếu cơ chế xác minh hiệu quả: Việc xác thực tính chính xác của hồ sơ và giấy tờ chứng minh người phụ thuộc còn gặp hạn chế do thiếu phối hợp giữa các cơ quan và quy định pháp lý rõ ràng.

Hướng dẫn chưa cụ thể: Quy định về giấy tờ minh chứng thu nhập của người phụ thuộc còn mơ hồ, gây khó khăn trong thực hiện và kiểm tra.

Xung đột về quyền lợi và trách nhiệm: Các tranh chấp và sai phạm thường xuất phát từ sự thiếu rõ ràng về trách nhiệm giữa người nộp thuế, tổ chức chi trả thu nhập và cơ quan thuế.

Hạn chế về cơ sở dữ liệu: Việc quản lý hồ sơ thủ công và thiếu một hệ thống dữ liệu điện tử đồng bộ khiến việc xử lý thông tin trở nên phức tạp và dễ xảy ra sai sót.

Bên cạnh đó, về phía người nộp thuế cũng gặp phải một số khó khăn và bất cập, đặc biệt đối với người nộp thuế và người phụ thuộc. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Thứ nhất, các điều kiện và tiêu chí để được hưởng giảm trừ gia cảnh, mặc dù được thiết lập tương đối chặt chẽ, vẫn còn một số điểm cần điều chỉnh để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế. Việc áp dụng giảm trừ gia cảnh chỉ đối với cá nhân cư trú là hợp lý, nhưng tiêu chí xác định nơi cư trú hoặc các yếu tố bổ sung như tình trạng sức khỏe và thu nhập của người phụ thuộc cần được rà soát và hoàn thiện để tránh mâu thuẫn và đảm bảo công bằng.

Thứ hai, mức giảm trừ gia cảnh hiện tại được áp dụng cố định cho tất cả người nộp thuế trên toàn quốc, chưa tính đến sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các khu vực. Điều này dẫn đến những bất cập, đặc biệt ở các đô thị lớn với mức chi phí sinh hoạt cao. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh chỉ khi chỉ số CPI vượt ngưỡng 20% là quá cứng nhắc và không kịp thời phản ánh biến động của nền kinh tế.

Thứ ba, trong giai đoạn từ lần điều chỉnh gần nhất, mức giá cả hàng hóa và dịch vụ đã có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt ở các thành phố lớn. Do đó, cần có cơ chế linh hoạt hơn trong việc xác định ngưỡng CPI để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, chẳng hạn giảm ngưỡng này xuống còn 5-10%, kết hợp với các chỉ số kinh tế – xã hội khác như thu nhập bình quân, tỷ lệ lạm phát cơ bản và chi phí sinh hoạt vùng miền.

Để đảm bảo hiệu quả và công bằng trong hệ thống thuế, việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cần được thực hiện định kỳ, ví dụ: 2-3 năm một lần, thông qua đánh giá tổng hợp từ các kỳ họp Quốc hội. Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng thuế cho người lao động mà còn củng cố niềm tin của người dân vào chính sách tài chính quốc gia. Những cải tiến này sẽ đóng góp tích cực vào việc xây dựng một chính sách thuế phù hợp, minh bạch và linh hoạt hơn, từ đó hỗ trợ người nộp thuế một cách hiệu quả, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

KẾT LUẬN Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

Quy định về giảm trừ gia cảnh (GTGC) đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thuế thu nhập cá nhân (TNCN), là một chính sách được nhiều quốc gia áp dụng nhằm thể hiện rõ mục tiêu và bản chất của thuế TNCN trong việc đảm bảo công bằng xã hội và cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế (NNT). Trong bối cảnh kinh tế – xã hội tại Việt Nam, GTGC không chỉ là một thiết chế mang tính xã hội được tôn trọng và bảo vệ mà còn là công cụ giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu xã hội của mình.

Xuất phát từ tầm quan trọng của GTGC, tác giả lựa chọn đề tài “Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc khi xác định thu nhập chịu thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu. Đề tài này nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về GTGC, phân tích và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, qua đó đề xuất các giải pháp bổ sung và hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao tính khả thi khi áp dụng các quy định về GTGC trong thực tiễn. Đề án được cấu trúc thành hai chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc khi xác định thu nhập chịu thuế. Phần này tập trung vào việc khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về GTGC trong thuế TNCN. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đó, tác giả đưa ra khái niệm và đặc điểm của GTGC, đồng thời phân tích cơ sở ban hành và yêu cầu đối với các quy định pháp luật về GTGC. Những cơ sở lý luận này sẽ tạo tiền đề cho các phân tích trong chương sau.

Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc khi xác định thu nhập chịu thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương này tập trung làm rõ các quy định pháp luật hiện hành, đánh giá việc thực thi trong thực tiễn, và phân tích những hạn chế, bất cập cũng như nguyên nhân dẫn đến các vi phạm. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho cả Nhà nước và NNT trong mối quan hệ pháp lý về thuế TNCN.

Qua việc đề xuất các giải pháp đề cập trong đề án không chỉ góp phần xây dựng một hệ thống thuế công bằng, hiệu quả mà còn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến đời sống người dân, từ đó tạo động lực để người dân tích cực đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tóm lại, việc nghiên cứu đề án với mục đích hoàn thiện khung pháp luật về GTGC trong thuế TNCN nhằm đáp ứng nhu cầu kịp thời của đời sống, xã hội. Đề án này hy vọng sẽ là một đóng góp hữu ích cho quá trình hoàn thiện chính sách thuế TNCN, hướng tới một hệ thống thuế công bằng, minh bạch và hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển bền vững của đất nước.. Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc chịu thuế

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thực tiễn giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc chịu thuế […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993