Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá đối với hàng hóa nhập khẩu theo loại hình nhập kinh doanh tiêu dùng tại cục Hải Quan Thành Phố Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. GIỚI THIỆU VỀ CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1.1. Giới thiệu sơ lược lịch sử hình thành và phát triển
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thừa uỷ nhiệm của Chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 27/SL ngày 10 tháng 9 năm 1945 thành lập Sở Thuế quan và thuế gián thu, khai sinh ra ngành Hải quan Việt Nam, với nhiệm vụ là: Thu các loại thuế nhập cảng và xuất cảng, thu thuế gián thu. Sau đó ngành thuế quan được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và quyền được định đoạt, hoà giải với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu. Hệ thống tổ chức của ngành thuế quan và thuế gián thu toàn quốc gồm có: Ở Trung ương có Sở thuế quan và thuế gián thu (sau đổi thành Nha quan thuế và thuế gián thu) thuộc Bộ Tài chính. Ở địa phương chia làm 3 miền: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ, mỗi miền có: Tổng thu Sở thuế quan; Khu vực thuế quan; Chính thu sở thuế quan; Phụ thu sở thuế quan. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Ngày 20 tháng 11 năm 1946, quân đội Pháp đã nổ súng vào thuế quan ta, chiếm Ty thuế quan Hải Phòng. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc, Hải quan Việt Nam cùng quân dân cả nước phối hợp cùng các lực lượng khác thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là bao vây và đấu tranh kinh tế với địch. Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Quân Pháp buộc phải rút quân khỏi trung du, đồng bằng Bắc Bộ về tập kết 300 ngày (khu vực Hải Phòng), chờ rút quân về nước. Chính phủ ban hành thể lệ, thủ tục mới về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu giữa vùng giải phóng và “khu tập kết 300 ngày”. Bộ Công thương ban hành Nghị định số 87/BTC-NĐ-KB ngày 14 tháng 4 năm 1955 của Bộ công thương về việc thành lập Sở Hải quan Hải Phòng., bao gồm các đơn vị trực thuộc: phòng Tổ chức cán bộ; phòng Hành chính quản trị; phòng Giám quản hàng hoá xuất nhập khẩu và công cụ vận tải xuất nhập cảnh; phòng Kiểm hoá và thuế – Giá biểu; Phòng Kiểm nghiệm hàng hoá; phòng Kiểm soát và xử lý; phòng Thuyền vụ làm nhiệm vụ bảo quản, điều động phương tiện thuỷ các loại để phục vụ công tác kiểm soát, sửa chữa, đóng mới tầu thuyền; đội Kiểm soát, giám sát vùng duyên hải; đội Thương cảng; phòng Hải quan Hòn Gai; phòng Hải quan Cửa Ông; phòng Hải quan Diêm Điền; phòng Hải quan Đồ Sơn; phòng Hải quan Cát Bà; phòng Quản lý xuất nhập khẩu.
Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp chia tách thành 2 bộ là Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương, ngành Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương. Hải quan Hải Phòng được đổi tên là Phân sở Hải quan Hải Phòng và trực thuộc Sở Hải quan Trung ương và trụ sở chuyển về số 22 Điện Biên Phủ – Hải Phòng. Ngày 17 tháng 6 năm 1962, Bộ Ngoại thương có Quyết định số 490/BNT-QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan Trung ương thành Cục Hải quan Trung ương trực thuộc Bộ Ngoại thương và đổi tên Phân sở Hải quan Hải Phòng thành Phân cục Hải quan Hải Phòng.
Đầu thập niên 80, tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của Phân cục Hải quan Hải Phòng có nhiều biến động, bộ máy lúc đó bao gồm: phòng Tổ chức – Cán bộ; phòng Hành chính – quản trị; phòng Giám quản hàng mậu dịch; phòng Kiểm soát và xử lý tố tụng; phòng Tổng hợp – pháp chế; Hải quan bưu điện; Hải quan cảng chính; Trạm Hải quan cảng Chùa Vẽ.
Ngày 20/11/1984, sau khi được Hội đồng Nhà nước phê chuẩn thành lập Tổng cục Hải quan, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 139/1984/NĐ-HĐBT quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn, tổ chức bộ máy Tổng cục Hải quan. Phân cục Hải quan Hải Phòng được đổi tên gọi thành Hải quan Thành phố Hải Phòng gồm: phòng Tổ chức – cán bộ; phòng Hành chính – quản trị; phòng Giám quản; phòng Kiểm soát và xử lý tố tụng; phòng Tổng hợp – pháp chế; Hải quan Bưu điện; Hải quan cảng Hải Phòng; Hải quan Trạm trả hàng phi mậu dịch Vạn Mỹ. Về biên chế, đã được tăng lên đáng kể qua các năm 1986, 1987, 1988.
Năm 1994, Hải quan thành phố Hải Phòng được đổi tên thành Cục Hải quan TP Hải Phòng và thủ trưởng cơ quan được gọi là Cục trưởng cục Hải quan tỉnh, thành phố (Quyết định số 91/TCHQ-TCCB ngày 01 tháng 06 năm 1994 của Tổng cục Hải quan). Bộ máy tổ chức Cục Hải quan TP Hải Phòng gồm 13 phòng, ban và đơn vị tương đương: Văn phòng; phòng Tổ chức cán bộ & đào tạo; Thanh tra; phòng Tài vụ – Quản trị; Hải quan Vạn Mỹ; Hải quan quản lý các KCX, KCN Hải phòng; Hải quan Diêm Điền (Thái Bình); Hải quan Hưng Yên; Hải quan Hải Dương; phòng Giám quản I; phòng Giám quản II; phòng Kiểm tra thu thuế XNK; Hải quan Bưu điện Hải Phòng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Năm 1998 thành lập Hải quan Cảng I và Hải quan Cảng II, đặt thêm 3 điểm thông quan tại Khu công nghiêp và khu chế xuất Hải Phòng, tại Hải Dương và Hưng Yên. Như vậy từ 5 điểm thông quan trong các năm 1996-1997 thì đến năm 1998 đã có 10 điểm thông quan được duy trì để đáp ứng yêu cầu giải phóng một số khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng.
Sau khi Luật Hải quan ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2002, bộ máy tổ chức của Tổng cục Hải quan và các cục Hải quan địa phương cũng được sắp xếp xây dựng theo quy định của Luật Hải quan và phù hợp với các quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và quy trình nghiệp vụ Hải quan. Cục Hải quan TP Hải Phòng các phòng, ban tham mưu và tương đương, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu. Các đơn vị trực thuộc gồm 20 phòng ban và Chi cục (09 chi cục, 09 phòng ban tham mưu và 02 đơn vị tương đương). Gồm: Văn phòng; phòng Tổ chức cán bộ và đào tạo; phòng Thanh Tra; phòng Nghiệp vụ; phòng Trị giá tính thuế; phòng Kiểm tra sau thông quan;Phòng Tham mưu chống buôn lậu và xử lý; đội Kiểm soát Hải quan; Trung tâm dữ liệu và Công nghệ thông tin; Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng khu vực I; Chi cục hải quan CK cảng Hải Phòng khu vực II; Chi cục Hải quan CK cảng Hải Phòng khu vực III; Chi cục Hải quan Quản lý hàng đầu tư gia công; Chi cục Hải quan KCX, KCN Hải Phòng; Chi cục Hải quan Thái Bình; Chi cục Hải quan Hải Dương; Chi cục Hải quan Hưng Yên….
Hiện nay, Cục Hải quan TP Hải Phòng có địa chỉ tại số 159 đường Lê Hồng Phong, P.Đông Hải, Q.Hải An, là đơn vị lớn thứ hai toàn quốc, có 978 cán bộ, công chức và 79 hợp đồng lao động theo NĐ 68, 12 hợp đồng lao động khoán việc. Cục Hải quan Hải Phòng gồm 20 đơn vị Phòng, Chi cục Hải quan cửa khẩu và tương đương, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan trên địa bàn rộng lớn gồm thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình. Cụ thể: 09 chi cục Hải quan cửa khẩu và ngoài cửa khẩu, 09 phòng ban tham mưu, 02 đơn vị tương đương (Đội KSHQ là đơn vị tương đương cấp Chi cục và Chi cục kiểm tra sau thông quan là Chi cục thực hiện chức năng riêng biệt) để phù hợp với tình hình mới. Hàng năm, Cục Hải quan TP Hải Phòng trực tiếp làm thủ tục thông quan hàng hoá cho khoảng trên 11.000 doanh nghiệp trên phạm vi cả nước có hoạt động xuất nhập khẩu qua các cảng biển của Hải Phòng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trải qua hơn nửa thế kỷ trưởng thành và phát triển, Cục Hải quan thành phố Hải Phòng trở thành một đơn vị điển hình của Hải quan Việt Nam với rất nhiều thành tích xuất sắc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Hải quan Hải Phòng đã phát huy nội lực, sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào quản lý nhà nước về hải quan; liên tục là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua toàn ngành Hải quan. Cục Hải quan Hải Phòng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đạt được những danh hiệu cao quý như: Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (năm 2006); Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Cờ Thi đua của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan; UBND TP Hải Phòng và 3 tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương tặng nhiều cờ thi đua và bằng khen. Hàng trăm lượt cá nhân, tập thể được nhận Bằng khen của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Thành phố Hải Phòng, các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên. Đến năm 2021, Cục Hải quan Hải Phòng đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất. Trong các năp 2022, 2023 đều được bằng khen của Bộ Tài chính cho tập thể và các cá nhân có thành tích trong thi đua….
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.3. Nguồn nhân lực của Cục Hải quan TP Hải Phòng
a. Theo trình độ chuyên môn
Tính đến tháng hết 12/2023, toàn Cục hiện có 225 người có trình độ Thạc sĩ (chiếm tỷ lệ 23,01%); 746 người có trình độ Đại học (tỷ lệ 76,28%); Trung cấp 7 người (tỷ lệ 0,72%); Tốt nghiệp phổ thông trung học 0%.
Trình độ tin học: Cử nhân Tin học 46 người chiếm tỷ lệ 4,0%; Tin học cơ sở 96,0%; Sử dụng được trong công việc, chưa có chứng chỉ 0%.
Tỷ lệ về trình độ chuyên môn của công chức được thể hiện theo hình 2.1. sau:
Hình 2.1: Cơ cấu nguồn nhân lực của Cục Hải quan TP Hải Phòng theo trình độ chuyên môn
Theo độ tuổi
Trong tổng số 978 cán bộ, công chức và hợp đồng lao động trong toàn Cục thì độ tuổi từ 25 – 35 tuổi có 183 người (tỷ lệ 16%), từ 36 – 45 tuổi: 685 người (tỷ lệ 60%), từ 46 đến 60 tuổi: 274 người (tỷ lệ 24%). Kết quả so sánh về độ tuổi của cán bộ công chức trong chi Cục được thể hiện ở hình 2.2 sau:
Hình 2.2: Cơ cấu nguồn nhân lực của Cục Hải quan TP Hải Phòng theo độ tuổi.
2.1.4. Kết quả chung về hoạt động xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 2019 – 2023 Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo; trong nước, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao. Nhận thức rất rõ những khó khăn, thách thức Cục Hải quan Thành Phố Hải Phòng đã xác định bằng bất kỳ khó khăn nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở mức cao nhất, đặc biệt là nhiệm vụ thu nộp ngân sách Nhà nước; kết quả đạt được trong giai đoạn năm 2019 – 2023 vừa qua, như sau:
Bảng 2.3. Kết quả chung về hoạt động xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng từ năm 2019 – 2023
Đánh giá tổng quan:
Về số lượng doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan tại Cục Hải quan TP Hải Phòng, lực lượng này chủ yếu tập trung trên địa bàn TP Hải Phòng và 03 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình do Cục Hải quan TP Hải Phòng phụ trách, quản lý. Nhìn chung, trong suốt giai đoạn 2019 – 2023 số lượng doanh nghiệp tăng lên đáng kể từ 13.841 lên đến 18.727 doanh nghiệp, tương đương 26,0%; điều này cho thấy sự phát triển của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ thể về kim ngạch đã tăng vượt bậc, đặc biệt năm 2023 là 70,60 tỷ USD gấp 1,5 lần so với các năm còn lại.
Về số thu ngân sách: Hàng năm, Cục Hải quan TP Hải Phòng luôn được Tổng cục Hải quan giao nhiệm vụ cụ thể về số thu ngân sách phải nộp; nhận thức được điều đó, Cục luôn đẩy mạnh cải cách hiện đại hóa, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK, thực hiện quyết liệt các biện pháp quản lý thu, tăng cường công tác chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế, chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế…, do đó số thu ngân sách của Cục Hải quan TP Hải Phòng trong các năm vừa qua luôn tăng (năm sau cao hơn năm trước). Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Cục Hải quan Hải Phòng được đánh giá là một trong những đơn vị có đội ngũ cán bộ công chức làm công tác nghiệp vụ chắc, mạnh cả về số lượng, về trình độ đào tạo và về kinh nghiệp thực tiễn. Qua rà soát theo các số liệu trên về trình độ và độ tuổi về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu công việc nghiệp vụ nói chung và nghiệp vụ hải quan điện tử nóí riêng, Cục đã căn cứ theo trình độ, nhận thức, sức khỏe… để phân công công việc cho hợp lý, phù hợp, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Song còn có những hạn chế nhất định sau:
Nhận thức của cán bộ Hải quan về vai trò, lợi ích việc ứng dụng CNTT trong công tác hiện đại hóa không đầy đủ, còn tâm lý sử dụng theo phương thức truyền thống, ở giai đoạn bắt đầu triển khai các ứng dụng thường gặp nhiều khó khăn đổ lỗi cho máy móc trang bị thiếu, đường truyền không tốt, phần mềm còn lỗi. Năng lực trình độ không đồng đều, các công chức sử dụng hệ thống tại các khâu nghiệp vụ thường xuyên thay đổi, luân chuyển cũng gây khó khăn trong việc xử lý các khâu nghiệp vụ trên máy. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ thông tin mới chỉ dừng ở đào tạo kỹ thuật cơ bản, thiếu định hướng lâu dài dẫn đến thiếu hụt đội ngũ chuyên gia trình độ cao đặc biệt là khâu phân tích, thiết kế các hệ thống lớn; quản trị dự án; đảm bảo chất lượng phần mềm.
Trên thực tế qua kết quả kiểm tra đánh giá, các số liệu trên chưa thể hiện đúng thực chất về trình độ của một số cán bộ công chức. Có khoảng 5-10% số lượng cán bộ công chức có trình độ thấp hơn bằng cấp, chứng chỉ được cấp, một số công chức trình độ về nghiệp vụ, tin học còn hạn chế, đến 20 % công chức tuổi cao, trình độ về CNTT còn hạn chế cũng ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả công việc. Như vậy, đòi hỏi Cục phải chú trọng việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ công chức cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là cán bộ công chức ở bộ phận giám sát. Việc đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công chức trong thời gian tới là rất quan trọng và cần thiết nếu muốn phát triển thủ tục hải quan điện tử trên diện rộng trong phạm vi toàn Cục, đồng thời quán triệt và bồi dưỡng văn hóa giao tiếp cho cán bộ công chức nhằm nâng cao hiệu quả và tạo hình ảnh đẹp của Cục trong cộng đồng Doanh nghiệp.
2.2. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN CỦA CỤC HẢI QUAN HẢI PHÒNG Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
2.2.1. Giới thiệu sơ lược về Chi cục kiểm tra sau thông quan
Chi cục kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Hải quan Hải Phòng được thành lập theo Quyết định số 34/2006/QĐ-BTC ngày 06/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính trên cơ sở chuyển đổi hoạt động của Phòng kiểm tra sau thông quan nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới.
Quá trình hơn 10 năm thành lập, xây dựng và phát triển của Chi cục kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Hải quan TP Hải Phòng có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ 06/6/2006 đến tháng 12/2020 là giai đoạn thực hiện công tác
Kiểm tra sau thông quan theo Quy định của Luật Hải quan năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung Luật Hải quan năm 2011.
Tháng 8 năm 2006 đồng chí Phạm Thế Luân được Cục trưởng Cục Hải quan TP Hải Phòng bổ nhiệm giữ chức Chi cục trưởng đầu tiên của Chi cục kiểm tra sau thông quan. Lúc bấy giờ Chi cục có 35 công chức trong đó có 10 công chức đang công tác tại Phòng kiểm tra sau thông quan còn lại được điều động từ các Chi cục Hải quan cửa khẩu và các công chức mới được tuyển dụng vào ngành. Tuy trình độ có mặt còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ khi tiếp cận với nghiệp vụ mới song đã đoàn kết một lòng xây dựng Chi cục kiểm tra sau thông quan. Các tổ chức trong Chi cục: Chi bộ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, các Đội công tác… từng bước được hình thành và tổ chức hoạt động. Không thể kể hết những khó khăn ban đầu, trụ sở làm việc chật hẹp, phân tán, trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn thiếu. Khó khăn là vậy, nhưng lãnh đạo và công chức thừa hành luôn gắn bó, chia sẽ và gần gũi động viên nhau để cố gắng vượt qua. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trong giai đoạn này, Chi cục kiểm tra sau thông quan đã thực hiện nhiều chuyên đề lớn, điển hình trong toàn ngành, phát hiện nhiều thủ đoạn gian lận mới kịp thời truy thu thuế cho ngân sách nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm tra sau thông quan, Chi cục đã phát hiện nhiều nội dung bất cập về chính sách để kiến nghị sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều kiến nghị của Chi cục Kiểm tra sau thông quan đã được lãnh đạo cấp bộ đồng ý và đưa vào Thông tư hướng dẫn kiểm tra sau thông quan, quy trình kiểm tra sau thông quan, được cụ thể hóa vào Luật Hải quan năm 2020.
Tháng 7 năm 2020 Chi cục Kiểm tra sau thông quan được chuyển về tòa nhà Cục Hải quan TP Hải Phòng, một trụ sở làm việc khang trang, bề thế, hiện đại tương đối đầy đủ cơ sở vật chất.
Giai đoạn 2: Từ tháng 1/2021 đến nay:
Năm 2021 là năm có những thay đổi về chính sách tác động lớn đến hoạt động kiểm tra sau thông quan:
- Luật Hải quan số 54/2020/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Những thay đổi về của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn đã tác động sâu rộng đến toàn bộ hoạt động kiểm tra sau thông quan cả về cơ cấu tổ chức đến các hoạt động nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan.
- Chi bộ Kiểm tra sau thông quan được Đảng bộ Cục Hải quan Hải Phòng quyết định nâng cấp thành Đảng bộ Chi cục Kiểm tra sau thông quan theo Quyết định số 746-QĐ/ĐUHQ ngày 28/1/2021 bao gồm 4 Chi bộ trực thuộc.
Ngay từ khi Luật Hải quan chưa có hiệu lực Chi cục Kiểm tra sau thông quan đã chủ động nghiên cứu triển khai Luật Hải quan về kiểm tra sau thông quan. Trên cơ sở đó Chi cục kiểm tra sau thông quan đã tham mưu cho Cục ban hành văn bản số 2470/HQHP-KTSTQ ngày 07/4/2021 chỉ đạo các Chi cục trực thuộc triển khai công tác kiểm tra sau thông quan theo mô hình Chi cục Kiểm tra sau thông quan thực hiện kiểm tra sau thông quan theo thẩm quyền của Cục trưởng; Bộ phận kiểm tra sau thông quan nằm trong Đội Quản lý thuế tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng biển khu vực: I, II, III, Đình Vũ và nằm trong Đội Tổng hợp tại các Chi cục ngoài cửa khẩu thực hiện kiểm tra sau thông quan theo thẩm quyền của Chi cục trưởng. Việc triển khai mô hình kiểm tra sau thông quan tại các Chi cục trực thuộc Cục Hải quan TP Hải Phòng được Tổng cục Hải quan đánh giá cao và được triển khai áp dụng trong toàn ngành. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Do chủ động, quyết liệt trong trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện nên công tác kiểm tra sau thông quan tại Cục Hải quan TP Hải Phòng tạo được nhiều đột phá. Kết quả đạt được khá toàn diện trên tất cả các mặt công tác. Cụ thể:
Đến hết ngày 31/12/2023, Cục Hải quan TP Hải Phòng đã thực hiện 3.076 cuộc kiểm tra sau thông quan trong đó Chi cục Kiểm tra sau thông quan đã thực hiện 1.718 cuộc, các Chi cục Hải quan thực hiện 1.358 cuộc. Số thu từ hoạt động kiểm tra sau thông quan là 325,1 tỷ đồng vượt 25,1 tỷ đồng so với chỉ tiêu phấn đấu 300 tỷ đồng Tổng cục Hải quan giao cao nhất từ trước đến nay. Số cuộc kiểm tra tại trụ sở người khai Hải quan là 187 cuộc bằng 267% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 118% (vượt 26 cuộc) so với kế hoạch được Tổng cục Hải quan giao.
Một số chuyên đề lớn đã triển khai thành công trong điều kiện phải chịu nhiều áp lực từ phía Doanh nghiệp, công luận…như:
Chuyên đề kiểm tra sau thông quan về mã số đối với mặt hàng phôi thép đến nay đã thu thu nộp ngân sách được 62 tỷ đồng.
- Chuyên đề kiểm tra C/O mặt hàng xăng dầu đã thu nộp ngân sách 92 tỷ đồng.
- Chuyên đề xuất xứ mặt hàng gỗ nhập khẩu từ Ginea xích đạo thu thuế gần 70 tỷ đồng cho ngân sách.
- Chuyên đề về khai báo mã ngụy trang: Đã thu nộp ngân sách trên 10 tỷ đồng, đồng thời hướng dẫn các Chi cục rà soát truy thu những lô hàng tương tự.
2.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chi cục kiểm tra sau thông quan Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Chi cục Kiểm tra sau thông quan thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Hải quan, các quy định khác của Pháp luật có liên quan và những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:
Trình Cục trưởng chương trình, kế hoạch hàng năm về công tác kiểm tra sau thông quan của Cục Hải quan TP Hải Phòng.
Giúp Cục trưởng trong việc quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ phúc tập hồ sơ hải quan và kiểm tra sau thông quan trong phạm vi quản lý của Cục Hải quan TP Hải Phòng.
Thu thập, tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin trong và ngoài ngành để phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan.
Tham mưu cho Cục trưởng trong việc ra quyết định kiểm tra sau thông quan.
Trực tiếp thực hiện kiểm tra sau thông quan theo quy định của pháp luật. Xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; tham mưu cho Cục trưởng trong việc xử lý vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý phạm hành chính (phát hiện trong quá trình kiểm tra sau thông quan) thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục trưởng.
Thực hiện việc ấn định, truy thu, truy hoàn tiền thuế và các khoản thu khác theo kết luận kiểm tra sau thông quan và quy định của pháp luật. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trực tiếp làm việc với các tổ chức, cá nhân, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để xác minh, nắm tình hình, thu thập thông tin, tiếp nhận tin báo, tố giác phục vụ cho hoạt động kiểm tra sau thông quan.
Báo cáo Cục trưởng sơ kết, tổng kết, thống kê, báo cáo đánh giá tình hình và kết quả thực hiện công tác phúc tập hồ sơ hải quan, công tác kiểm tra sau thông quan của Cục Hải quan TP Hải Phòng.
Thông qua công tác kiểm tra sau thông quan, giúp Cục trưởng phát hiện, kiến nghị sửa đổi, bổ sung những thiếu sót, bất cập trong quy định và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, quy trình, quy định nghiệp vụ của ngành, của Cục Hải quan.
Tuyên truyền pháp luật về kiểm tra sau thông quan.
Thực hiện lưu trữ, bảo mật hồ sơ, tài liệu kiểm tra sau thông quan theo quy định.
Thực hiện các quy định về quản lý cán bộ, công chức và quản lý tài chính, tài sản, các trang thiết bị của Chi cục Kiểm tra sau thông quan theo phân cấp của Tổng cục Hải quan và Cục Hải quan TP Hải Phòng. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
2.2.3. Cơ cấu tổ chức của Chi cục kiểm tra sau thông quan
Hiện nay số lượng cán bộ công chức của Chi cục Kiểm tra sau thông quan với hơn 80 người với 01 Chi cục trưởng, 03 Phó Chi cục trưởng, 05 Đội trưởng, 06 Phó đội trưởng phụ trách các đội nghiệp vụ như sau:
- Đội kiểm tra sau thông quan số 1: Kiểm tra STQ về trị giá tính thuế;
- Đội kiểm tra sau thông quan số 2: Kiểm tra STQ về mã số, thuế suất;
- Đội kiểm tra sau thông quan số 3: Kiểm tra STQ hàng gia công, sản xuất xuất khẩu;
- Đội kiểm tra sau thông quan số 4: Đội kiểm tra về Chính sách thương mại.
- Đội 5: Đội tham mưu tổng hợp; Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ HÀNG NHẬP KHẨU LOẠI HÌNH A11 TẠI CỤC HẢI QUAN HẢI PHÒNG
2.3.1. Giai đoạn từ 06/6/2016 đến tháng 12/2020
Công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là lĩnh vực khó và ngày càng khó hơn. Rõ ràng với xu thế toàn cầu hoá, thương mại quốc tế ngày càng phát triển như hiện nay, các ràng buộc rào cản về quản lý ảnh hưởng hoạt động thương mại được dần dần dỡ bỏ. Chính điều này một mặt nào đó đã kích thích các hoạt động gian lận thương mại phát triển. Cùng chung với đó gian lận thương mại về trị giá tính thuế qua hoạt động xuất nhập khẩu của người khai hải quan cũng theo đó ngày càng tinh vi khó kiểm soát. Ngành Hải quan cũng đã nhận thức rõ điều này và từ đó đặt ra yêu cầu đòi hỏi cơ quan hải quan phải thay đổi gì để thích ứng với công tác quản lý “vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong hoạt động XNK vừa đảm bảo kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả”. Như vậy, cho thấy sự cần thiết của ngành trong việc tăng cường nhiệm vụ cho công tác quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan để phòng ngừa và ngăn chặn các hoạt động gian lận thương mại. Theo đó hoạt động kiểm tra sau thông quan cũng thay đổi và nâng tầm để đáp ứng được với yêu cầu ngày càng cao của ngành với mục tiêu giúp doanh nghiệp tuân thủ đúng pháp luật, trả lại môi trường kinh doanh công bằng, làm lành mạnh hoá trong hoạt động thương mại.
Hàng năm số lượng doanh nghiệp làm thủ tục XNK qua các chi cục Hải quan trực thuộc Cục Hải quan TP Hải Phòng ngày càng tăng mạnh, có thể thấy chủ yếu các mặt hàng tiêu dùng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Năm 2020, điểm nổi bật của Công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá đó là thực hiện quy định tại Khoản 7, Điều 1, Thông tư 29/2020/TT-BTC. Thời điểm này việc kiểm tra sâu đối với lĩnh vực trị giá chỉ tập trung tại một đầu mối là Đội 1-Chi cục kiểm tra sau thông quan (trung bình khoảng 300 phiếu chuyển nghiệp vụ từ các Chi cục HQ cửa khẩu chuyển về). Do vậy, hàng ngày cán bộ công chức phải giải quyết một khối lượng công việc rất lớn để phân tích, xử lý thông tin, thậm chí làm thêm cả ngày nghỉ. Hơn nữa, số cán bộ công chức được tăng cường từ Phòng Thuế XNK (bộ phận tham vấn giá – khâu trong thông quan) chưa quen với công tác kiểm tra sau thông quan ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ xử lý các thông tin từ các đơn vị liên quan gửi đến.
Để giải quyết công việc Lãnh đạo đơn vị cũng đã đề ra một số giải pháp tập trung trọng điểm vào 3 nhóm công việc để xử lý như sau:
Một là, phân loại và thu thập, xử lý thông tin từ các Phiếu chuyển nghiệp vụ do các đơn vị trực thuộc Cục gửi đến (áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro: cho rà soát phân loại lần 1 sau đó giao cho cán bộ công chức thừa hành tiếp tục kiểm tra, phân loại lựa chọn những hồ sơ có mặt hàng trọng điểm vè trị giá để tiến hành kiểm tra sau thông quan).
Hai là, thu thập thông tin từ các chênh lệch về giá khác từ các hệ thống thông tin của Ngành giao cho từng nhóm cán bộ công chức phụ trách theo địa bàn để quản lý;
Ba là, thu thập và xử lý thông tin từ nguồn thông tin rà soát các lô hàng được hệ thống phân luồng xanh.
Với phương án xử lý tập trung cao vào các mặt hàng trọng điểm về trị giá (có số thu thuế lớn, nằm trong danh mục QLRR về giá của Tổng cục) kiểm tra theo chuyên đề định sẵn, phát huy năng lực sở trường của một số cán bộ công chức có kinh nghiệm kiểm tra theo mặt hàng để làm trưởng nhóm; thực hiện công tác đào tạo tại chỗ, hỗ trợ lẫn nhau để làm việc. Với khối lượng công việc đồ sộ như vậy, trong năm 2020 Chi cục đã thực hiện kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá được:
Kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan: 01 trường hợp, kết quả kiểm tra đã ấn định được 4,2 tỷ đồng tiền thuế và xử phạt vi phạm hành chính hơn 600 triệu đồng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan: 1.036 trường hợp, đã tiến hành bác bỏ trị giá hải quan của 560 trường hợp với tổng số tiền thuế ấn định là 97,0 tỷ đồng. Doanh nghiệp đã nộp hết số thuế ấn định trên vào Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy đơn vị có áp dụng quản lý rủi ro nhưng chưa triệt để trong việc giải quyết những phát sinh theo nghi vấn về giá của các Phiếu chuyển nghiệp vụ do các Chi cục Hải quan chuyển về. Ngoài những vấn đề vướng mắc phát sinh về nội dung nghi vấn chưa được trao đổi kịp thời với cán bộ công chức ở khâu thông quan do địa bàn cách xa nhau. Cùng thời gian này, ngành Hải quan đang triển khai đồng bộ dự án Vnaccs/Vcis và thực hiện nâng cấp hệ thống quản lý giá tính thuế GTT02 và hệ thống thông tin quản lý Doanh nghiệp phục vụ kiểm tra sau thông quan và quản lý rủi ro (STQ01). Trong thời kỳ đầu triển khai khi chưa được hướng dẫn, cán bộ công chức của Chi cục hoàn toàn tự tìm tòi khai thác để kết xuất dữ liệu phục vụ công tác thu thập thông tin. Mặt khác, việc khai thác dữ liệu trên chương trình VNACS/VCIS rất chậm. Thường trong giờ hành chính rất khó khai thác thông tin, việc này ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ hoàn thành các cuộc kiểm tra sau thông quan.
2.3.2. Giai đoạn từ 01/01/2021 đến hết tháng 6/2023 Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
2.3.2.1. Những thuận lợi, khó khăn và thách thức
Những thuận lợi:
Với xu hướng chuyển dần công tác kiểm tra giám sát của cơ quan hải quan từ khâu kiểm tra trước và trong thông quan (tiền kiểm) sang kiểm tra sau thông quan (hậu kiểm) được thực hiện ngay bước đầu tại cửa khẩu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp có thể nhanh chóng đưa hàng hóa về kho phục vụ sản xuất và lưu thông, giảm thời gian chờ đợi thông quan, giảm chi phí lưu kho, lưu bãi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp cung cấp và giải trình sau khi hàng hoá đã được thông quan.
Các nội dung nghi vấn về giá tập trung nhiều vào chủng loại, tính chất, điều kiện…của hàng hoá mà dữ liệu khai báo không thể mô tả hết được, mục tiêu xác định loại hàng hoá “giống hệt hay tương tự,..” để so sánh. Việc triển khai công tác kiểm tra sau thông quan tại Chi cục Hải quan đã giải quyết được những vấn đề nghi vấn tốt hơn, do biết rõ đối tượng cần kiểm tra, có thời gian thu thập, phân tích thông tin, từ đó có phương án tập trung kiểm tra trọng điểm.
Hoạt động kiểm tra sau thông quan được phân bổ tại các đơn vị trực thuộc, không chỉ tập trung một đầu mối là Chi cục kiểm tra sau thông quan như trước kia. Do đó đã tận dụng tối đa nguồn nhân lực, giải quyết cơ bản và triệt để những nghi vấn tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu. Những mâu thuẫn lớn, những trường hợp phát sinh phức tạp sẽ được báo cáo và xem xét xử lý tại khâu kiểm tra sau thông quan cấp Cục (chi cục kiểm tra sau thông quan) giúp cho việc định hướng công tác kiểm tra sau thông quan tại các cấp được cụ thể, rõ ràng hơn. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Những khó khăn, thách thức:
Đầu tiên phải kể đến khó khăn lớn nhất đó là năng lực, trình độ cán bộ công chức. Trình độ cán bộ công chức nhìn chung không đồng đều, 03 kỹ năng trong hoạt động kiểm tra sau thông quan đó là: kỹ năng lập biên bản, hỏi đáp đối thoại với doanh nghiệp; Kỹ năng kiểm tra hệ thống kế toán, kiểm toán; Kỹ năng thu thập chứng cứ, phân tích dữ liệu thông tin còn hạn chế. Bên cạnh đó các yếu tố cơ sở pháp lý, các chế tài để xử lý hành vi vi phạm chưa theo kịp những hành vi thủ đoạn gian lận ngày càng tinh vi của Doanh nghiệp. Đặc biệt với doanh nghiệp nước ngoài đã làm ăn lâu dài ở các nước đang phát triển trước khi đến Việt Nam, họ có kinh nghiệm cũng như có hệ thống tư vấn pháp lý hùng hậu hoạt động lâu năm trong lĩnh vực đầu tư tại nước ngoài. Ngoài ra kinh nghiệm trong công tác kiểm tra sau thông quan cũng rất quan trọng, tuy nhiên với quy định hiện nay của ngành thì đối với cán bộ công chức thừa hành chỉ có thời gian tối đa là 3 năm tại một nơi, hết thời hạn phải luân chuyển công tác ở đơn vị khác, như vậy cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kiểm tra sau thông quan chuyên sâu.
Tại các Chi cục Hải quan do mới triển khai công tác kiểm tra sau thông quan, việc bố trí cán bộ công chức làm công việc này thực sự chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo, chưa quen với công việc mới do đó đã có tâm lý căng cứng, lo lắng, nên rất lúng túng khi triển khai thực hiện, bên cạnh đó còn phải kiêm nhiệm công việc khác nên chưa chuyên tâm vào công tác kiểm tra sau thông quan.
Kế hoạch của Ngành năm 2023 giao cho các Chi cục Hải quan tỉnh, thành phố phấn đấu tăng gấp đôi so với số đạt được của năm 2023 về số vụ kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan. Địa bàn quản lý của Cục trải rộng gồm 4 tỉnh, Thành phố Hải Phòng, Tỉnh Hải Dương, Tỉnh Hưng Yên, Tỉnh Thái Bình. Do đó, số đoàn kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan sẽ tăng kéo theo chi phí cho các đoàn kiểm tra ngày càng tăng nhưng kinh phí được thanh toán theo chế độ (thường thiếu so với thực chi). Tuy nhiên, cho đến nay Ngành vẫn chưa có chính sách hỗ trợ thoải đáng cho cán bộ công chức làm công tác kiểm tra sau thông quan.
Nền tảng cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin còn thiếu tính ổn định, hệ thống ứng dụng phần mềm hỗ trợ phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được với yêu cầu công tác, trong quá trình thực hiện kiểm tra sau thông quan thì cán bộ công chức phải cập nhật nhiều hệ thống, đây cũng là yếu tố làm chậm tiến độ triển khai công việc.
2.3.2.2. Thực tiễn với triển khai công tác kiểm tra sau thông quan về lĩnh vực trị giá đối với loại hình A11 tại Cục Hải quan TP Hải Phòng Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Bước khảo sát ban đầu tại các Chi cục Hải quan: Sau khi làm việc với các Chi cục hải quan cửa khẩu và ngoài cửa khẩu, Lãnh đạo Chi cục kiểm tra sau thông quan đã tham mưu cho Lãnh đạo Cục ban hành văn bản chỉ đạo mang tính định hướng cho các Chi cục Hải quan trực thuộc thực hiện tạm thời như sau:
Đối với lĩnh vực trị giá, tập trung kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng XNK thuộc luồng xanh có nghi vấn về giá trong thời hạn 60 ngày. Tổ chức kiểm tra sau thông quan về trị giá đối với các lô hàng có nghi vấn về trị giá tính thuế theo quy định tại điểm a, c Khoản 2, Điều 21 Nghị định 08/2021/NĐ-CP của Chính Phủ.
Mô hình tổ chức: Chi cục HQ cửa khẩu cảng Hải Phòng (Khu vực I,II,III và Hải quan Đình Vũ) bố trí nhóm từ 3 đến 5 công chức trực thuộc Đội quản lý thuế chuyên trách làm công tác kiểm tra sau thông quan; đối với các Chi cục hải quan ngoài cửa khẩu (HQ đầu tư gia công, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Khu CX-KCN) bố trí nhóm từ 2 đến 3 công chức trực thuộc Đội tổng hợp chuyên trách làm công tác kiểm tra sau thông quan.
Đối với công tác đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công chức trong các lĩnh vực kiểm tra: trước hết cần rà soát lại toàn bộ cán bộ công chức trong đơn vị để xác định đối tượng cần đào tạo và đào tạo lại để bố trí lớp cho phù hợp. Để đảm bảo tính chuyên sâu, đồng thời nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, Chi cục đã tổ chức công tác đào tạo lại về lĩnh vực: Kế toán, kiểm toán phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan thuộc 4 lĩnh vực (Trị giá HQ, mã số HS, gia công SXXK, chính sách thương mại). Xây dựng cẩm nang cho 4 lĩnh vực nêu trên đảm bảo cho cán bộ công chức của Chi cục kiểm tra sau thông quan có đủ kiến thức để tiến hành kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan.
Về lâu dài, Chi cục tiếp tục sử dụng các bán bộ lãnh đạo Đội, Chi cục và những đồng chí có trình độ và kinh nghiệm lâu năm để tham gia xây dựng giáo trình giảng dạy. Thực hiện phương châm: vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn trong công tác tập huấn và xây dựng cẩm nang để cán bộ công chức mới dễ tiếp cận về công tác kiểm tra sau thông quan. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trong nhiệm vụ hỗ trợ đào tạo các chi cục hải quan triển khai công tác kiểm tra sau thông quan: Đối với các Chi cục HQ cửa khẩu cảng Hải Phòng (Khu vực I,II,III và HQ Đình Vũ) chủ yếu được yêu cầu hỗ trợ kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá tính thuế; các chi cục hải quan ngoài cửa khẩu (Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình) chủ yếu được yêu cầu hỗ trợ kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực Gia công SXXK, các chi cục hải quan (Khu CX-KCN và LQ hàng ĐTGC) yêu cầu hỗ trợ cả hai lĩnh vực nêu trên. Để giúp các Chi cục hải quan thực hiện tốt công tác kiểm tra sau thông quan, chi cục kiểm tra sau thông quan đã thành lập Tổ hỗ trợ các Chi cục hướng dẫn về nghiệp vụ. Tổ đã phối hợp các Chi cục hải quan trực thuộc; giải đáp một số vướng mắc, hướng dẫn phân luồng hồ sơ, xử lý thông tin, hướng dẫn sử dụng các hệ thống phần mềm chức năng: STQ01, GTT02, VCIS, Vincum,.. Sau đợt công tác, chi cục kiểm tra sau thông quan đã tổng hợp những vướng mắc, tham mưu cho Lãnh đạo Cục hải quan TP Hải Phòng ban hành văn bản hướng dẫn, thống nhất cách áp dụng chung cho các Chi cục Hải quan.
Chi cục kiểm tra sau thông quan đã tham mưu cho Lãnh đạo Cục trong việc xây dựng việc luân chuyển theo dõi hồ sơ trong công tác quản lý, kiểm tra về trị giá tính thuế (mối quan hệ, phối hợp xử lý công việc giữa công tác tham vấn giá và kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan tại các đơn vị: kiểm tra sau thông quan, Phòng Thuế XNK và các Chi cục hải quan trực thuộc) với mục tiêu đảm bảo quản lý thống nhất về trị giá hải quan trong toàn Cục
Thực tế cho thấy cơ quan hải quan rất khó kiểm soát được giá trị thực thanh toán trong mua bán hàng hóa nói chung.
Việc khai báo trị giá tính thuế chủ yếu được các doanh nghiệp khai theo giá trước đó đã khai hoặc khai theo giá đã được các Chi cục hải quan khác chấp nhận và có xu hướng khai thấp dần. Tuy nhiên, các thông tin trên các chương trình dữ liệu giá của Ngành (GTT02,..), thông tin từ Danh mục hàng hóa nhập khẩu rủi ro về trị giá và mức giá tham chiếu kèm theo,.. đều đã được khâu thông quan sử dụng nhiều, do đó, doanh nghiệp cũng phần nào nắm bắt được thông tin này. Lực lượng kiểm tra sau thông quan sử dụng lại để so sánh, tham khảo làm cơ sở nghi vấn, đấu tranh với doanh nghiệp sẽ rất khó khăn, thiếu cơ sở để bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Trước đây, trong quá trình xây dựng Danh mục quản lý rủi ro về giá cấp Cục, Cục đã cử công chức trực tiếp khảo sát giá tại trụ sở doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thông tin nắm được thì các doanh nghiệp nhập khẩu cùng một chủng loại mặt hàng thì đã liên kết với nhau, vì thế khi làm việc với cơ quan hải quan thì các doanh nghiệp đều có chung một ý kiến, họ không chịu ký biên bản khảo sát thông tin hoặc nếu có ký thì ký bản khảo sát với mức giá chênh lệch so với giá khai báo 10%, chứ không cung cấp giá bán thực tế của mặt hàng trên thị trường.
Một số khó khăn trong thu thập thông tin nữa, đó là giá bán thực tế trên thị trường lại rất cao, có khi cao hơn nhiều lần so với giá doanh nghiệp khai báo. Giá bán không ổn định và nó phụ thuộc vào nhu cầu, thị hiếu của người mua. Ví dụ: Mặt hàng tổ máy phát điện mức giá Công ty khai báo là 12.417 USD/chiếc (khoảng hơn 277 triệu), trong khi giá bán tại thị trường là 610 triệu. Do đó giá bán thực tế của mặt hàng Tổ máy phát điện trên thị trường là khó có thể kiểm soát được.
Khi tra cứu thông tin về giá mặt hàng trên các chương trình dữ liệu giá của Ngành (GTT02) cho thấy các cửa khẩu trên toàn quốc cơ bản đề có giá tương tự nhau, hải quan cửa khẩu hầu như chấp nhận chứ không đủ cơ sở bác bỏ được trị giá khai báo của doanh nghiệp.
Mặt hàng nhập khẩu loại hình A11 chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc. Qua nắm bắt thông tin, các đối tác nước ngoài ở thị trường Trung Quốc ký và ban hành các chứng từ thương mại khá thoải mái, không kiểm soát chặt chẽ như ở Việt Nam. Do đó, khi người nhập khẩu Việt Nam đề nghị, các đối tác trên sẵn sàng cung cấp các chứng từ thương mại theo yêu cầu. Đây là lý do chính giải thích cho việc các chứng từ đi kèm bộ hồ sơ hải quan thường có nội dung khớp đúng, thống nhất với nhau, rất khó để phát hiện ra mâu thuẫn hay bất hợp lý trong quá trình kiểm tra sau thông quan. Mặt khác, các đối tác mua bán của các doanh nghiệp đều ở nước ngoài, nên việc thu thập nguồn thông tin từ nước ngoài là vấn đề chưa thực hiện được đối với các đơn vị kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan nói chung và Chi cục kiểm tra sau thông quan thuộc Cục HQ Hải Phòng nói riêng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Đây là quan hệ mua bán, trao đổi ngang giá, vì vậy trên thực tế thì tổng giá trị hàng hóa phải tương đương với lượng tiền trong thanh toán. Tuy nhiên, do có sự liên kết, phối hợp giữa bên bán với người nhập khẩu nên bộ hồ sơ chính thức sẽ không phản ánh hết giá trị thực của hàng hóa nhập khẩu; và đương nhiên sẽ xuất hiện việc thanh toán khống ngoài hợp đồng. Đây là vấn đề hết sức phức tạp và diễn ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của người nhập khẩu; mối quan hệ giữa người nhập khẩu với bên bán để họ có thể áp dụng một số hình thức thanh toán ngoài quy định. Điều này, buộc người nhập khẩu sẽ phải thanh toán cho bên bán theo 02 con đường: một là thanh toán chính thức theo hợp đồng, phần chênh lệch sẽ phải thanh toán theo đường không chính thức khác. Cụ thể:
Để hợp thức hóa chứng từ và hồ sơ, doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng đúng phần trị giá mà doanh nghiệp khai báo. Phần chênh lệch còn lại, doanh nghiệp thanh toán bằng hình thức chuyển tiền qua biên giới, doanh nghiệp có thể thuê cá nhân trong nước mang tiền mặt đến thanh toán cho đối tác ngay tại biên giới và trả cho họ một khoản hoa hồng tính trên trị giá lần giao dịch đó.
Thanh toán qua các hợp đồng mua bán khống: Thực chất đây là hình thức hợp lý hóa chứng từ kế toán thông qua việc mua bán các loại hàng hóa, dịch vụ khác mà thực tế không xảy ra hoặc đẩy giá lên cao để chiết lại phần chệnh lệch cho người nhập khẩu. Hình thức này thường được sử dụng thông qua các mối quan hệ quen biết, có sự thoải thuận của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Mục đích của quan hệ kinh tế này là nhằm giúp người nhập khẩu rút ra ngoài sổ sách kế toán một khoản tiền để chi trả cho bên bán ở nước ngoài.
Thanh toán qua các đại lý, đại diện bên nước ngoài: Hiện nay, nhiều người nhập khẩu đã phát triển mạng lưới các đại lý, đại diện ra nước ngoài cũng như nhiều nhà cung cấp nước ngoài mở các đại lý, đại diện tại Việt Nam với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch cũng như tìm hiểu thị trường của nhau. Với nhưng người nhập khẩu có các đại lý, đại diện tại nước ngoài thì việc thanh toán hàng nhập khẩu có thể do các đại lý thực hiện. Vì vậy, việc kiểm soát việc thanh toán của người nhập khẩu qua hệ thống ngân hàng sẽ không phát huy được tác dụng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Việc nhà nước cho phép thanh toán qua tài khoản vãng lai đã gián tiếp giúp doanh nghiệp hợp thức hóa việc thanh toán của mình. Trong quá trình mua, bán và thanh toán, tiền của các doanh nghiệp (đặc biệt là loại hình trách nhiệm hữu hạn một thành viên) cũng chính là tiền của cá nhân Giám đốc, bằng cách này hay cách khác, họ vẫn có thể đưa tiền mặt, ngoại tệ sang thanh toán trực tiếp cho bên bán ở nước ngoài toàn bộ trị giá thật của hàng hóa nhập khẩu mà chúng ta không thể kiểm soát hết được; rồi quay về Việt Nam thực hiện thao tác chuyển tiền vào tài khoản vãng lai và rồi lại rút tiền đó ra (có thể bằng giấy ủy quyền của đối tác nước ngoài). Như vậy, số tiền đó lại quay ngược vào túi của chính doanh nghiệp.
2.3.3. Một số vụ việc Kiểm tra sau thông quan điển hình
a) Kiểm tra doanh nghiệp nhập khẩu ôtô
Tổng cục Hải quan cung cấp thông tin về việc xác minh giá nhập khẩu của 04 doanh nghiệp nhập khẩu xe ô tô gồm: Công ty TNHH MTV TM Du lịch An Giang, Công ty CP Lê Gia, Công ty CP thương mại An Thành, Công ty TNHH ôtô Thái Bình; Các doanh nghiệp này có dấu hiệu gian lận về trị giá tính thuế mặt hàng xe ô tô nhập khẩu. Cụ thể: Danh sách các tờ khai nhập khẩu có giá khai báo hải quan thấp hơn rất nhiều so với giá xuất khẩu mà Tổng cục Hải quan đã xác minh. Ví dụ: Mặt hàng xe ô tô hiệu Toyota Camry SE 3.5 L, 5 chỗ ngồi, mới 100% giá xuất khẩu 43,000usd, nhưng doanh nghiệp khai báo 31,500usd. Tổng cục Hải quan yêu cầu thực hiện một số nội dung, trong đó: xác định trị giá tính thuế đối với các tờ khai nhập khẩu theo đúng quy định trên cơ sở mức giá xuất khẩu của Tổng cục Hải quan đã xác minh. Mặc dù nguồn thông tin Tổng cục Hải quan cung cấp là rất tốt, tuy nhiên theo điều 6 Nghị định số 40/2007/ND-CP thì thông tin nêu trên cũng chỉ được xem là cơ sở dữ liệu giá và cơ quan hải quan không được sử dụng để xác định trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu với vai trò là trị giá thay thế cho hàng nhập khẩu. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Theo Điều 27 Thông tư số 205/2010/TT-BTC thì: “các trường hợp có nghi vấn về hồ sơ, chứng từ hoặc mức giá khai báo do lực lượng phúc tập chuyển; do lực lượng kiểm tra tại khâu thông quan chuyển; do lực lượng kiểm tra sau thông quan phát hiện hoặc do đánh giá mức độ rủi ro theo mặt hàng, ngành hàng, theo doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu thì tổ chức kiểm tra sau thông quan tại cơ quan hải quan hoặc trụ sở của Doanh nghiệp”. Do đó chi cục không thể căn cứ vào đó để kết luận và ra quyết định ấn định thuế như yêu cầu của Tổng cục Hải quan mà thông tin này chỉ mới ở dạng nghi vấn, muốn ra kết luận, ban hành quyết định ấn định thuế thì phải thực hiện kiểm tra sau thông quan. Cho nên để có cơ sở kết luận và ấn định thuế, Chi cục đã tiến hành kiểm tra sau thông quan theo quy định. Kết quả kiểm tra như sau:
Đối với Công ty CP Lê Gia: Qua kiểm tra, doanh nghiệp không còn tồn tại, MST của Công ty này được cấp cho Công ty TNHH Thư Khuê theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Sở Kế hoạch đầu tư.
Đối với Công ty CP thương mại An Thành: Cơ quan thuế địa phương thông báo doanh nghiệp đã ngừng hoạt động và đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế. Căn cứ Điều 142, 143 Thông tư số 194/2010/TT-BTC thì hai Công ty trên không thuộc đối tượng chịu kiểm tra sau thông quan, do vậy Chi cục không thể thực hiện kiểm tra hai công ty này.
Đối với Công ty TNHH ôtô Thái Bình: Chi cục đã gửi văn bản đề nghị Doanh nghiệp giải trình nhưng doanh nghiệp không hợp tác với nhiều lý do như thời gian đã lâu, thất lạc hồ sơ, chưa tìm ra hồ sơ,… Đến lần yêu cầu thứ 5, doanh nghiệp mới cung cấp đủ hồ sơ, chứng từ. Qua kiểm tra hồ sơ chứng từ nhận thấy: Hồ sơ, sổ sách, chứng từ kế toán và thanh toán ngân hàng phù hợp với khai báo hải quan. Do đó, không đủ cơ sở để kết luận doanh nghiệp sai phạm để ấn định thuế.
Đối với Công ty TNHH MTV TM Du lịch An Giang: Kiểm tra hồ sơ sổ sách chứng từ kế toán và thanh toán ngân hàng phù hợp với khai báo hải quan. Do vậy, cũng không đủ cơ sở kết luận doanh nghiệp sai phạm để ấn định thuế.
Như vậy, với nguồn thông tin rất cụ thể do Tổng cục Hải quan cung cấp, nhưng với các trường hợp: Doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, doanh nghiệp chây ỳ, không hợp tác, doanh nghiệp hợp thức hoá chứng từ thanh toán, sổ sách kế toán,… thì kết quả kiểm tra sau thông quan sẽ không đạt mục đích, yêu cầu đề ra. Với những trường hợp này chỉ có chuyển cho cơ quan điều tra để điều tra khởi tố vụ án thì mới đạt kết quả nhưng trong thực tế những vụ như thế này không phải vụ nào cơ quan điều tra cũng vào cuộc. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Công ty TNHH KĐV Tường Tuấn
Qua nguồn thông tin có được từ Tổng cục Hải quan và tổng hợp số liệu qua hoạt động XNK thực tế của Công ty tại địa bàn Hải Phòng, Đội 1 – chi cục kiểm tra sau thông quan Cục Hải quan TP Hải Phòng đã tiến hành kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan đối với Công ty Tường Tuấn. Công ty chuyên nhập khẩu các dòng xe sang như: Rangrover Autobiography, mecedes benz, audi, lexus,… xuất xứ Anh, Mỹ, Nhật. Cơ sở nghi vấn ban đầu: Công ty đang nộp thừa số tiền 69.560 USD cho đối tác. Doanh nghiệp không đủ cơ sở giải trình số tiền này do đó Chi cục kiểm tra sau thông quan đã tiến hành xác định lại trị giá tính thuế của các lô hàng có liên quan, số tiền thuế truy thu được là gần 5 tỷ đồng.
c) Vụ Công ty TNHH LAMA
Đây là doanh nghiệp chuyên nhập khẩu ô tô và phân phối độc quyền tại Việt Nam. Qua kiểm tra sau thông quan theo kế hoạch năm 2023, phát hiện: Ngoài khoản thanh toán theo giá mua ghi trên hoá đơn (giá khai báo hải quan), doanh nghiệp còn thanh toán cho người bán (không khai báo) khoản “phí hàng tháng” là 25.000 USD và khoản “phí hàng quý” bằng 3% trị giá xe nhập khẩu; tổng số tiền doanh nghiệp thanh toán cho người bán từ năm 2021 đến 2023 là hơn 2,14 triệu usd.
Doanh nghiệp giải trình: Khoản thanh toán cho người bán nêu trên không liên quan đến hàng hoá nhập khẩu, đây là khoản tiền trả cho các dịch vụ tư vấn, huấn luyện, đào tạo và quản lý do người bán cung cấp theo các hợp đồng tư vấn-dịch vụ mà doanh nghiệp đã ký kết với người bán, doanh nghiệp đã khai báo và nộp thuế nhà thầu cho các khoản thanh toán này.
Chi cục đã yêu cầu doanh nghiệp chứng minh các hoạt động tư vấn, huấn luyện, đào tạo và quản lý thực tế đã phát sinh nhưng doanh nghiệp không chứng minh được. Mặt khác qua xác minh tại ngân hàng thì các khoản thanh toán này được thực hiện thông qua một hợp đồng tư vấn – dịch vụ khác, có nội dung liên quan trực tiếp đến hàng hoá nhập khẩu.
Ngoài ra, Chi cục còn chứng minh được các hoạt động tư vấn, huấn luyện, đào tạo và quản lý nêu trên là do các nhà cung cấp tại Việt Nam cung cấp và doanh nghiệp đã thanh toán cho các nhà cung cấp này thông qua các chứng từ thanh toán xác minh được tại ngân hàng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Từ các cơ sở trên, Chi cục kết luận: các khoản thanh toán cho người bán nêu trên có liên quan đến hàng hoá nhập khẩu và phải được điều chỉnh cộng vào trị giá tính thuế.
Vụ việc tranh chấp đã được đưa ra Toà án hành chính, kết quả: Toà chấp nhận giải trình của Doanh nghiệp mà không xem xét đến các chứng cứ do Chi cục đưa ra. Qua đó cho thấy, doanh nghiệp đã lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng để chuyển một khoản tiền lớn ra nước ngoài thanh toán cho các dịch vụ liên quan đến hàng hoá nhập khẩu nhưng đã sử dụng các “Hợp đồng tư vấn-dịch vụ” có nội dung không liên quan đến hàng hoá nhập khẩu để hợp thức hoá, nhằm gian lận số tiền thuế rất lớn.
Như vậy, mục đích ban đầu không đạt được, tuy nhiên trong quá trình kiểm tra sau thông quan lại phát hiện ra những sai sót về mặt hồ sơ, từ đó kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh để Công ty có thể rút kinh nghiệm.
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG KẾT QUẢ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN TẠI CHI CỤC KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN
2.4.1. Những thành công
2.4.1.1. Những thành công chung của Chi cục kiểm tra sau thông quan
Trong năm 2022, 2023 nhìn chung Chi cục Kiểm tra sau thông quan đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đặc biệt là công tác kiểm tra đánh giá tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp thực hiện tốt pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế và các quy định liên quan. Bên cạnh đó qua kiểm tra đã làm tốt công tác chống thất thu thuế cho nhà nước. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Năm 2022 số thuế truy thu được từ công tác kiểm tra sau thông quan tăng 27,6 tỷ đạt 110% so với cùng kỳ năm trước. Số vụ được kiểm tra sau thông quan cũng tăng cao so với năm 2021 (1.718 vụ).
Năm 2023 số thuế thực thu Ngân sách qua công tác kiểm tra sau thông quan tăng đến gần 26 tỷ đồng so với số thực thu của cùng kỳ năm trước 2022. Số thu đạt xấp xỉ 110% so với chỉ tiêu kế hoạch được Cục Hải quan Hải Phòng giao qua đó đã góp phần rất lớn vào kết quả hoàn thành kế hoạch về số thực thu ngân sách qua công tác Kiểm tra sau thông quan trong toàn Cục do Tổng cục Hải quan giao.
2.4.1.2. Những thành công của hoạt động kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá hàng hập khẩu loại hình A11
Được sự quan tâm và chỉ đạo xuyên suốt của Lãnh đạo Cục Hải quan TP Hải Phòng, Lãnh đạo Chi cục kiểm tra sau thông quan, quá trình thực hiện năm 2023 với số thu qua công tác kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá tính thuế đã đạt được hiệu quả đáng kể, tạo sự thống nhất cao mang tính toàn diện trong toàn các đơn vị thuộc Cục thay đổi trong công tác kiểm tra về trị giá đối với nhóm hàng trọng tâm, trọng điểm.
Tổng số thuế ấn định: năm 2023 là: 97.0 tỷđ
Giai đoạn từ 01/01/2023 – 30/9/2023:
- Số vụ kiểm tra: 738 vụ.
- Số vụ ấn định thuế 260 vụ (= 35% số vụ kiểm tra), với tổng số thuế ấn định: 40.3 tỷ đồng.
Giai đoạn từ 01/10/2023 – 31/12/2023:
- Số vụ kiểm tra: 370 vụ
- Số vụ ấn định: 170 vụ (= 46,0% số vụ kiểm tra), trong đó:
- 138 vụ (có thời hạn kiểm tra 60 ngày)
- 32 vụ (có thời hạn kiểm tra 05 năm). – Tổng số thuế ấn định: 66.7 tỷ đồng
Trong đó số thuế ấn định 60 ngày là 33 tỷ đồng.
Về kiểm tra sau thông quan trong 60 ngày:
- Tổng số tờ khai nhận trong danh mục và tham vấn: 752 tờ khai.
- Số tờ khai đã kiểm tra: 752 chiếm 100% so với tổng số tờ khai nhận trong danh mục.
Tổng số thuế ấn định từ 01/01/2023 đến hết tháng 9/2023 là: 93.0 tỷ đồng
- Số vụ kiểm tra: 659 vụ
- Số vụ ấn định: 445 vụ (= 67,52% số vụ kiểm tra), trong đó:
- 348 vụ (có thời hạn kiểm tra 60 ngày)
- 97 vụ (có thời hạn kiểm tra 05 năm).
- Tổng số thuế ấn định: 63.7 tỷ đồng
- Trong đó số thuế ấn định 60 ngày là 29.3 tỷ đồng.
2.4.2. Những hạn chế Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Hạn chế chung của hoạt động Kiểm tra sau thông quan.
Trong thời gian vừa qua, hoạt động kiểm tra sau thông quan trên địa bàn Cục Hải quan TP Hải Phòng có nhiều bước chuyển vượt bậc, thay đổi đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần phải được hoàn thiện:
Một là, Công tác kiểm tra sau thông quan chưa thống nhất, còn chồng chéo cụ thể là việc một doanh nghiệp có nhiều đội công tác mời gọi kiểm tra nhiều lần trong năm gây bức xúc cho doanh nghiệp. Mỗi đội công tác triển khai các qui trình còn có sự khác nhau, xử lý kết luận kiểm tra thiếu chính xác. Hoạt động kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan còn bộc lộ nhiều yếu kém như việc kiểm tra tại từng đội công tác chỉ thiên về lĩnh vực đội phụ trách thiếu tính bao quát, toàn diện dẫn đến sót lọt vi phạm; Cách thức kiểm tra còn chưa sâu, chưa áp dụng đúng các nguyên tắc kiểm tra sau thông quan.
Hai là, Công tác nghiệp vụ còn thiếu tính chuyên nghiệp, các bước chuẩn bị kiểm tra, tổ chức thực hiện kiểm tra chưa được bài bản, số lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu làm trưởng đoàn kiểm tra còn hạn chế, số cán bộ có trình độ kiểm tra về sổ sách kế toán, báo cáo tài chính tại doanh nghiệp còn thiếu và yếu. Sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, trong khi nhân lực có hạn một số mảng công tác chưa áp dụng đúng nguyên tắc quản lý rủi ro trong kiểm tra sau thông quan dẫn đến việc kiểm tra tràn lan, thiếu trọng tâm, vấn đề, vụ việc rủi ro thấp thì dành nguồn nhân lực kiểm tra, vấn đề rủi ro cao, cấp thiết hơn thì lại không đủ nhân lực kiểm tra dẫn đến lãng phí. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Ba là, Hoạt động của công tác Kiểm tra sau thông quan còn kém hiệu quả thể hiện ở số lượng doanh nghiệp trên địa bàn Cục Hải quan TP Hải Phòng quản lý được kiểm tra còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp hoạt động trên 10 năm mà chưa thực hiện kiểm tra. Bên cạnh đó hoạt động kiểm tra sau thông quan chưa thực sự kết nối tốt với các khâu nghiệp vụ khác như trong thông quan, chưa có tác dụng hỗ trợ rõ ràng cho khâu trong thông quan như kịp thời phát hiện các kẽ hở trong công tác quản lý để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa.
Bốn là, Hoạt động kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp còn hạn chế về số vụ kiểm tra, lượng doanh nghiệp trên địa bàn quản lý của Cục Hải quan Hải Phòng cần được kiểm tra còn nhiều; Chất lượng các cuộc kiểm tra cần được tăng cường về việc kiểm tra hệ thống sổ sách kế toán tại doanh nghiệp; Công tác tổ chức đoàn, phân công công việc, công tác đánh giá rút kinh nghiệm.
Năm là, Công tác lãnh đạo chỉ đạo của lãnh đạo Chi cục kiểm tra sau thông quan còn bị chia cách, chưa phát huy được trí tuệ tập thể. Công tác lãnh đạo chỉ đạo của lãnh đạo cấp đội tại một số đội công tác còn chưa sâu sát, thiếu bao quát công việc.
Sáu là, Công tác lưu trữ hồ sơ và nhập dữ liệu vào hệ thống để phục vụ công tác quản lý của Cục và của Ngành chưa được sự quan tâm đúng mức của các cấp lãnh đạo, do đó việc lưu trữ hồ sơ và nhập liệu hệ thống còn do công chức chủ động thực hiện. Chi cục cần có việc tự kiểm tra đánh giá lại đối với công tác này.
Thứ bảy, Một số công chức mới được điều động bổ sung nên chưa am hiểu nhiều về quy trình kiểm tra sau thông quan; Có công chức đã công tác tại đơn vị lâu năm sức ỳ lớn không phát huy được vai trò dẫn đến chất lượng và hiệu quả chưa cao.
Bên cạnh một số hạn chế chung nêu trên, hoạt động kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá hàng nhập khẩu loại hình A11 còn một số hạn chế: Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Thứ nhất, việc phân tích đánh giá rủi ro chưa được thực hiện tốt, dẫn đến việc kiểm tra tràn lan thiếu hiệu quả, thiếu định hướng, việc phân công giải quyết các phiếu chuyển nghiệp vụ chưa khoa học dẫn đến chưa đáp ứng được tiến độ kiểm tra, lượng phiếu tồn còn lớn, phương pháp kiểm tra thực hiện như công tác tham vấn giá. Số vụ kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp thấp.
Thứ hai, chưa xây dựng được danh mục mặt hàng có độ rủi ro cao về trị giá để tập trung kiểm tra. Hoạt động kiểm tra sau thông quan chủ yếu tại trụ sở cơ quan hải quan do đó đứng trước yêu cầu nhiệm vụ năm 2022 là hết sức khó khăn do cán bộ công chức tại đội phần đông đã quen với cách làm theo phương pháp tham vấn giá đối với hồ sơ đã thông quan trong vòng 60 ngày theo qui định của Thông tư 29/2020/TT-BTC trước đây (nay là Thông tư 38/2021/TT-BTC). Nếu thực hiện cả việc kiểm tra sau thông quan trong thời gian 5 năm và thực hiện chủ yếu tại trụ sở doanh nghiệp thì gặp rất nhiều lúng túng.
Thứ ba, công tác thống kê tập hợp báo cáo số liệu liên quan đến công tác chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ công tác chỉ đạo điều hành còn nhiều bất cập, số liệu không thống nhất, thiếu chính xác.
Thứ tư, công tác tham mưu trong lĩnh vực kiểm tra sau thông quan về trị giá trong toàn Cục còn hạn chế; Công tác đào tạo cho cán bộ công chức trong Đội để nâng cao nghiệp vụ kiểm tra còn chưa tốt dẫn đến hiệu quả của các cuộc kiểm tra chưa cao.
2.4.3. Những nguyên nhân Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Một là, có sự thay đổi lớn, thương xuyên liên tục về chế độ chính sách mặt hàng của các Bộ, Ngành có liên quan trong việc quản lý hàng hóa nhập khẩu. Những thay đổi lớn về quy định kiểm tra trị giá tính thuế tại Thông tư số 29/2020/TT-BTC, Thông tư 38/2021/TT-BTC, trong đó giao nhiệm vụ cho lực lượng kiểm tra sau thông quan là có trách nhiệm chính trong việc kiểm tra trị giá hàng hóa nhập khẩu loại hình A11. Quy trình kiểm tra sau thông quan của ngành thay đổi thường xuyên để phù hợp với tình hình thay đổi chung. Luật Hải quan, quy trình thông quan tự động qua hệ thống VNACCS/VCIS,… hệ thống phần mềm khai thác cơ sở dữ liệu cũng liên tục thay đổi chưa được hoàn thiện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu. Cán bộ làm công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá tính thuế chưa kịp làm quen với những thay đổi của nghiệp vụ lại phải tiếp thu những cái mới, dẫn đến chất lượng công tác không cao.
Hai là, trang thiết bị nghiệp vụ, điều kiện làm việc của lực lượng kiểm tra sau thông quan nói chung còn rất thiếu, đặc biệt về phương tiện và kinh phí nghiệp vụ. Khó khăn trong thu thập thông tin từ doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Hoạt động xác minh thông tin từ một số đơn vị trong và ngoài ngành còn gặp nhiều khó khăn như việc không hợp tác, cung cấp thông tin có liên quan đến việc kiểm tra sau thông quan như Ngân hàng, Hãng vận tải, Đơn vị giám định,…
Ba là, với quy mô kiểm tra lớn, đội ngũ cán bộ công chức thực hiện kiểm tra sau thông quan vừa thiếu vừa yếu. Việc bố trí, sắp xếp cán bộ công chức làm công tác kiểm tra sau thông quan, đặc biệt là kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu loại hình A11 chưa tương xứng với khối lượng công việc, nhiệm vụ thu thập phân tích thông tin, đối tượng nghi vấn cần theo dõi, tiến hành kiểm tra sau thông quan. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Một bộ phận cán bộ công chức thuộc lực lượng kiểm tra sau thông quan rất ngại việc kiểm tra sau thông quan đối với lĩnh vực trị giá, vì đây là lĩnh vực rất khó để xác định trị giá thực của hàng hoá. Một số cán bộ công chức còn ngại va chạm, có tâm lý làm việc cầm chừng, trông chờ vào việc luân chuyển cán bộ đến địa bàn, đơn vị có mức thu hút cao nghề nghiệp cao, do vậy không chú tâm thực hiện theo dõi kiểm tra sau thông quan.
Trình độ của cán bộ công chức mặc dù đã liên tục được đào tào, cập nhật các kiến thức, kỹ năng về kiểm tra sau thông quan nhưng cơ bản vẫn chưa đồng đều. Khả năng nghiên cứu xử lý thông tin, tổng hợp thông tin, xác định đối tượng kiểm tra còn yếu vì có nhiều mặt hàng liên quan đến nhiều bộ ngành khác nhau. Kinh nghiệm của cán bộ còn hạn chế, chưa chuyên nghiệp nên gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề thì không có ý kiến rõ ràng dẫn đến việc kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra bị gặp khó khăn trong chính nội bộ Đoàn kiểm tra/Nhóm kiểm tra. Đội ngũ cán bộ công chức làm việc ở khâu kiểm tra sau thông quan đa số còn trẻ, có kiến thức, trình độ, nhưng kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên môn chưa sâu vì đòi hỏi nhiều kiến thức tổng hợp để thực hiện việc kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu như: kiến thức kinh nghiệm về kế toán – kiểm toán, về buôn bán kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài, về chế độ chính sách và quy định của pháp luật,… Trong khi đó, theo yêu cầu luân chuyển cán bộ thường xuyên của ngành thì một cán bộ công chức, kể cả ở khâu kiểm tra sau thông quan cũng không quá 5 năm làm việc ở một nơi, thông thường chỉ là 3 năm. Sự thay đổi cán bộ như vậy cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm tra sau thông quan ở Cục Hải quan TP Hải Phòng. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Bốn là, chế độ thưởng cho đội ngũ cán bộ công chức làm công tác kiểm tra sau thông quan còn chưa tương xứng với trách nhiệm, nhiệm vụ phải thực hiện (chẳng hạn, lực lượng Kiểm toán được trích thưởng theo 2% số thu nộp NSNN, trong khi lực lượng kiểm tra sau thông quan đề xuất khoản trích thưởng 2% số thu nộp NSNN nhưng chưa được thông qua).
Kết luận chương 2
Tóm lại, chương 2 đã nêu được bối cảnh của công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan giai đoạn 2019- 2023 và 09 tháng đầu năm 2023, đánh giá toàn diện thực trạng của kiểm tra sau thông quan về TGHQ tại Chi cục kiểm tra sau thông quan. Qua số liệu khảo sát, thống kê từ Chi cục xây dựng bức tranh toàn diện về kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá hải quan. Từ đó, rút ra được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế để làm cơ sở đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, tạo điều kiện để phát triển công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan để đáp ứng yêu cầu quản lý theo phương pháp hiện đại. Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan.
Kiểm tra sau thông quan về trị giá là một trong những lĩnh vực mới và gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thực tiễn. Xuất phát từ yêu cầu của việc phát triển ngành Hải quan theo hướng hiện đại hóa thì việc xây dựng các giải pháp để khắc phục những khó khăn, nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực kiểm tra sau thông quan về trị giá là việc làm cần thiết.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp kiểm tra sau thông quan tại hải Quan

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Thực trạng kiểm tra sau thông quan tại hải Quan […]