Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở Việt Nam Hiện Nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
2.1.1. Những ưu điểm
Với vai trò là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong xã hội, mỗi văn bản pháp luật ra đời phải thực sự phát huy được mục đích đặt ra, có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được nhà nước dự liệu. Văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ban hành sẽ không đạt được mục đích khi các tổ chức, cá nhân trong xã hội không thực hiện và chấp nhận nó. Do vậy, để các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ban hành thực sự đi vào đời sống xã hội, được các chủ thể thực hiện nghiêm túc đòi hỏi văn bản đó phải bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể và còn phải phù hợp với những truyền thống, phong tục tốt đẹp có từ lâu đời, ăn sâu vào trong cách sống, cách nghĩ của mỗi chủ thể. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có những nét văn hóa truyền thống điểm hình thì việc để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống của họ có ý nghĩa quan trọng. Các dân tộc thiểu số thường sinh sống ở những buôn, làng bản vùng sâu, vùng xa, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cuộc sống của họ còn nhiều khó khăn và gắn liền với thiên nhiên. Để điều chỉnh những hành vi phát sinh trong cộng đồng của họ, thì luật tục của mỗi dân tộc vẫn đóng vai trò chủ yếu.
Nhà nước ta luôn chú trọng đến sự đổi mới trong hoạt động xây dựng pháp luật, nhất là đưa các quy định của pháp luật ngày càng phổ biến tới người dân, mà đồng bào các dân tộc thiểu số là một phần được chú trọng. Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các văn bản quy định về chính sách phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng an ninh, quốc phòng, bảo tồn văn hóa… cho đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng Tây Nguyên. Các văn bản này đã thể hiện được mục đích của Đảng và nhà nước ta trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn với cả nước; đồng thời cũng là nền tảng để thực hiện việc đưa các quy định của pháp luật đi vào đời sống của họ. Những văn bản được ban hành để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số đã đảm bảo quyền lợi của người dân, phù hợp với phong tục, tập quán và luật tục của họ. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật của đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những bước tiến đáng kể như sau: Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Một là, đồng bào các dân tộc thiểu số đã nhận thức được khá rõ ràng và đầy đủ những hành vi bị pháp luật ngăn cấm. Trong một số lĩnh vực quy định của pháp luật như hình sự như: trộm cắp, cướp tài sản, hiếp dâm… đều có những quy định tương đồng trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, nên việc thực hiện pháp luật về những lĩnh vực này được họ nhận thức một cách nhanh chóng và tuân thủ thực hiện khá cao. Khi có mâu thuẫn của cá nhân trong buôn làng xảy ra, đồng bào các dân tộc thiểu số thường chọn luật tục của dân tộc mình để xử lý, rất ít khi họ chọn phương pháp tố cáo người vi phạm với các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước, trừ những vụ việc có tính chất phức tạp, hoặc trong luật tục không có những quy định để điều chỉnh. Đây là một trong những ưu điểm của mối quan hệ pháp luật và luật tục cần được Nhà nước ta quan tâm phát huy.
Trong lĩnh vực dân sự và hôn nhân gia đình, mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong hoạt động tuân thủ pháp luật của đồng bào người dân tộc thiểu số càng thể hiện rõ nét. Hôn nhân và gia đình được coi là vấn đề phức tạp và tế nhị nhất trong quan hệ cộng đồng của bất cứ dân tộc nào. Do vậy, các dân tộc đã dành nhiều điều luật để quy định. Luật tục quy định loạn luân là một tội lớn vì các dân tộc rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn nòi giống. Luật tục rất quan tâm tới hai lĩnh vực rất quan trọng của đời sống gia đình, đó là quan hệ vợ chồng và quan hệ con cái. Như có các điều về giáo dục vợ chồng, tội xúi giục vợ, hoặc chồng người khác…(luật tục Êđê); tội con bỏ cha mẹ không chăm sóc, điều con đánh cha mẹ, điều bán trẻ mồ côi… (Luật tục M Nông). Luật tục có những điều luật xử phạt những người vu khống người khác ngoại tình, dẫn đến tan vỡ gia đình, hay những điều phạt về tội ngược đãi vợ con… Những quy định trong luật tục đều bảo vệ sự bền vững của hôn nhân, bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, bảo vệ trách nhiệm giữa cha mẹ và con cái… tất cả những quy định này đều có nét tương đồng với pháp luật hiện hành của nhà nước ta. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Luật tục cũng có những quy định rõ ràng cấm các thành viên trong cộng đồng lấn chiếm đất đai của nhau, có những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Kèm theo các điều cấm này là những hình thức phạt đền bằng hiện vật khá nghiêm khắc. Chính vì vậy, khi có những hành vi vi phạm trong lĩnh vực trên xảy ra, người dân thường áp dụng những quy định của luật tục để xử lý. Như vậy, luật tục của đồng bào trong việc điều chỉnh hành vi trên có những điểm phù hợp với tinh thần chung của pháp luật hiện hành và có tác dụng hỗ trợ việc thực hiện những quy định của pháp luật khá hiệu quả.
Hai là, Trong hoạt động thi hành pháp luật, đồng bào các dân tộc thiểu số đã thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hành động tích cực. Những quy định của pháp luật bắt buộc chủ thể phải thực hiện như tham gia nghĩa vụ quân sự, đóng thuế cho nhà nước đều được thực hiện một cách khá nghiêm túc. Hoạt động chấp hành pháp luật cũng được họ chú ý thực hiện, người dân đã nhận thức được vai trò của pháp luật trong đời sống của họ. Một số hoạt động chấp hành pháp luật đã được người dân tự giác thực hiện như một thói quen như: đến tuổi trưởng thành tham gia nghĩa vụ quân sự, khi tiến hành kinh doanh đóng thuế cho nhà nước.
Ba là, hoạt động sử dụng pháp luật để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình là chưa phổ biến, nhưng hiện nay, đồng bào người dân tộc thiểu số đã biết cách sử dụng pháp luật kết hợp với luật tục của dân tộc mình để bảo vệ quyền, lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Biểu hiện rõ ràng là họ đã đưa những hành vi vi phạm pháp luật ra khởi kiện trước tòa án hoặc báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Sử dụng pháp luật để đảm bảo cho lợi ích của mình còn được thể hiện lĩnh vực kinh doanh, sản xuất của người đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, có không ít những doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh là người dân tộc thiểu số. Họ tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh nhiều ngành nghề, đa dạng về hình thức khác nhau. Để làm được điều đó, họ phải sử dụng những văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại… cùng những văn bản khác liên quan trực tiếp tới công việc sản xuất, kinh doanh của họ. Như vậy, ngoài việc sống và thực hiện nghiêm túc những quy định của luật tục trong cộng đồng dân tộc của mình, đồng bào các dân tộc thiểu số đã sử dụng pháp luật của nhà nước thực hiện những quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật đã thực sự đi vào cuộc sống của họ và được tự giác thực hiện.
Có ý kiến cho rằng, khi pháp luật được sử dụng nhiều trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số và phát huy tốt tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì luật tục sẽ dần trở nên mờ nhạt trong việc điều chỉnh các hành vi phát sinh trong cộng đồng người này. Có thể thấy đây là một ý kiến chưa toàn diện. Khi pháp luật được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, thì cùng với sự nhận thức tiến bộ đối với pháp luật, người dân sẽ nhận thức được những quy định nào là lạc hậu, không phù hợp cho sự phát triển của cộng đồng mình; từ đó sẽ không sử dụng và loại bỏ dần những quy định đó. Còn đối với những quy định tiến bộ của luật tục, phù hợp với những quy định của pháp luật nhà nước, thì việc nhận thức được vai trò của pháp luật sẽ càng làm cho vai trò của luật tục được củng cố trong việc điều chỉnh hành vi của đồng bào các dân tộc thiểu số. Họ sẽ nhận thức được những quy định của luật tục cũng tương tự như quy định của pháp luật, vì thế việc điều chỉnh hành vi của mình sao cho không vi phạm quy định của luật tục nói riêng và pháp luật nhà nước nói chung càng được thực hiện một cách nghiêm túc. Như vậy, pháp luật là môi trường làm cho luật tục tồn tại và không ngừng phát triển hơn trong cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nước ta.
Không những vậy, khi pháp luật được thực thi tốt trong đồng bào dân tộc thiểu số sẽ là cơ sở để phát sinh những quy định mới trong luật tục, như việc quy định người dân trong buôn làng không được ghe lời kẻ xấu, gây mất đoàn kết giữa người trong buôn và ngoài buôn… Đây là những quy định tiến bộ mới trong luật tục xuất phát từ sự hiểu biết pháp luật của người dân tộc thiểu số và là minh chứng cho thấy pháp luật và luật tục tồn tại song song trong vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong buôn làng của đồng bào các dân tộc thiểu số.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2. Những hạn chế Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Bên cạnh những ưu điểm trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong việc thực thi pháp luật, vẫn còn tồn tại những hạn chế trong mối quan hệ này trong cuộc sống sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta. Những hạn chế này có nhiều nguyên nhân, trong đó tính đến nguyên nhân của việc đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế về nhận thức pháp luật. Hay nguyên nhân về mặt hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta còn khái quát, điều chỉnh chung cho toàn xã hội nên đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trình độ dân trí thấp, chưa thể hiểu rõ được hết những mục đích của những quy phạm pháp luật, việc thực thi còn chưa đồng nhất và hiệu quả.
Nhà nước ta đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để thúc đẩy quá trình hội nhập của đồng bào các dân tộc thiểu số và góp phần đưa pháp luật dần đi vào cuộc sống của họ. Những biện pháp này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên còn chưa trở thành phổ biến. Trong mối quan hệ pháp luật và luật tục trong quá trình thực hiện pháp luật của đồng bào các dân tộc thiểu số vần còn một số điểm hạn chế như:
Một là, pháp luật chưa làm hình thành được những quy định tiến bộ trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số trong hoạt động tuân thủ pháp luật. Điều này đã làm giảm đi việc áp dụng những quy định của luật tục để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người dân tộc thiểu số. Thực tế cho thấy, có những hành vi của người dân tộc thiểu số là vi phạm pháp luật như: hành vi vi phạm quy định về điều khiển các phương tiện giao thông, hay tội phá rối an ninh, chống chính quyền… nhưng trong luật tục lại không có quy định điều chỉnh những hành vi này. Chính vì thế, khi vi phạm bản thân những người dân tộc thiểu số cho rằng họ không phạm tội, vì trong luật tục của dân tộc họ không quy định những hành vi này là sai trái, chỉ khi được đưa ra trước những cơ quan có thẩm quyền giải quyết họ mới nhận thức được hành vi của mình là vi phạm. Điều đó cho thấy, nếu pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống của họ và họ hiểu được rõ những quy định của pháp luật, thì họ sẽ tự biết lựa chọn hành vi của mình cho phù hợp để không phạm pháp luật cũng như luật tục. Sự lựa chọn hành vi ứng xử của mình phù hợp với quy định của pháp luật được áp dụng một cách phổ biến như những thói quen, thì sẽ dễ dàng hình thành những quy định mới trong luật tục để điều chỉnh hành vi mới phát sinh của cộng đồng người dân tộc thiểu số.
Một điểm hạn chế trong mối quan hệ pháp luật và luật tục trong hoạt động thực hiện pháp luật của người dân tộc thiểu số hiện nay, là trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình thì luật tục có sự hiện diện và hiệu lực gần như tuyệt đối. Các vụ việc liên quan đến vấn đề dân sự và hôn nhân gia đình trong cộng đồng người dân tộc thiểu số đều do luật tục điều chỉnh, điều này cho thấy pháp luật chưa có vị trí chủ đạo trong điều chỉnh hành vi của cộng đồng người này. Các vụ việc trong lĩnh vực trên được giải quyết theo chế tài phạt đền bằng hiện vật để xử lý cưỡng chế người có hành vi vi phạm. Quy định của luật tục trong việc xử lý những hành vi này thường khá nặng, không chỉ đền bù thiệt hại cho người bị hại mà còn cả hình thức phạt vạ cho buôn làng, như vậy hình thức bồi thường trong luật tục nặng hơn so với quy định của pháp luật. Trong những trường hợp này, quyền lợi của người vi phạm không được đảm bảo. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Hai là, trong hoạt động chấp hành pháp luật, đồng bào các dân tộc thiểu số đã có hành động chấp hành những quy định của pháp luật, nhưng họ lại không hiểu hết được lý do tại sao phải thực hiện những hành động đó để có ý thức tự giác, tự nguyện thực hiện. Một số người dân khi được hỏi cho biết: Nhà nước gọi đi nghĩa vụ quân sự và đóng thuế thì người dân chấp hành, nhưng không hiểu tại sao phải đóng thuế và đi nghĩa vụ quân sự. Luật tục chỉ quy định phải bảo vệ an ninh trong buông làng mình thôi. Như vậy, hoạt động chấp hành pháp luật được đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện thụ động. Chúng ta chưa có những biện pháp để tuyên truyền ý nghĩa những quy định của pháp luật một cách rõ ràng để người dân hiểu được, từ đó tạo thói quen tự giác chấp hành vì thấy đó là những quy định phù hợp, có ích cho không chỉ buôn làng mình mà còn chung cho toàn xã hội.
2.2. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG LUẬT TỤC Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
2.2.1 Những ưu điểm
Hiện nay, nhà nước ta đã có những quan điểm nhất định trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong hoạt động áp dụng luật tục để giải quyết các hành vi phát sinh trong các buôn làng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và các quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc trong bộ luật này” [27].
Đây là những quy định bước đầu thừa nhận những quy định tốt đẹp của các phong tục, tập quán riêng của mỗi dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam – mà luật tục là một trong những phong tục đó. Trong hoạt động áp dụng luật tục, mối quan hệ pháp luật và luật tục có những ưu điểm:
Một là, hoạt động áp dụng luật tục có sự tham gia của nhà nước. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Hoạt động áp dụng luật tục chưa được nhà nước ta tổ chức áp dụng theo một trình tự, thủ tục có quy định như áp dụng pháp luật nhưng luật tục đã được nhà nước tổ chức áp dụng bước đầu ở một số chủ thể là người dân tộc thiểu số theo ý chí của nhà nước. Trong một số bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử người dân tộc Êđê khi phạm tội giết người, cố ý gây thương tích… ở phần nhận định đã ghi: Bị cáo vừa vi phạm pháp luật, vừa vi phạm luật tục. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử không viện dẫn những quy định của luật tục và cũng không áp dụng hình phạt của luật tục để xét xử vụ án.
Đối với một số tội như phá hoại an ninh, tham gia các tổ chức phản động chống chính quyền của đồng bào dân tộc thiểu số, Nhà nước ta đưa ra xét xử các đối tượng cầm đầu. Số đông còn lại, đồng bào dân tộc thiểu số bị lôi kéo tham gia, nhà nước có chủ trương giao cho chính quyền địa phương đó phối hợp với già làng, trưởng bản nơi có người vi phạm, tổ chức kiểm điểm người vi phạm trước buôn làng. Đây là hình thức phối hợp những quy định của pháp luật với luật tục. Việc tổ chức kiểm điểm này đã áp dụng quy định của pháp luật với những quy định vốn có trong luật tục, đáp ứng được tâm lý tuân thủ quy định của luật tục đối với người dân tộc thiểu số vi phạm. Từ đó, họ nhận thức được hành vi của mình là không đúng, không phù hợp với quy định của nhà nước, của luật tục, hình thành trong cộng đồng người dân tộc thiểu số thói quen: không nghe lời kẻ xấu tham gia những tổ chức bạo động, gây mất đoàn kết trong buôn làng, hành vi này sẽ phải chịu kiểm điểm trước buôn làng và chịu tội với nhà nước.
Trong lĩnh vực dân sự, Nhà nước ta cũng có những quy định cho phép các bên sử dụng tập quán nếu pháp luật không có quy định điều chỉnh hoặc hai bên không có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, điều kiện áp dụng phải là những tập quán không được trái pháp luật.
Hai là, hoạt động áp dụng luật tục không có sự tham gia của pháp luật. Đây là hoạt động áp dụng luật tục truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay. Khi có hành vi vi phạm nảy sinh trong đời sống của buôn làng, người dân thường lựa chọn sử dụng luật tục để tiến hành giải quyết. Hoạt động giải quyết mâu thuẫn phát sinh này được thông qua người đại diện của buôn làng: già làng, trưởng bản. Hoạt động áp dụng những quy định của luật tục để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng người mình được các trưởng buôn thực hiện độc lập, không có sự điều chỉnh của pháp luật. Đây là hoạt động không phải tuân thủ quy định nào về trình tự thủ tục theo quy định của nhà nước. Mỗi dân tộc có những quy định riêng khi tiến hành đưa vụ việc ra phán quyết trước cộng đồng. Nhưng nhìn chung, đây cũng là hoạt động có tính sáng tạo lớn, khi người đứng đầu phải lựa chọn một cách linh hoạt những quy định có trong luật tục để áp dụng, làm cho người dân phải tuân thủ, chấp nhận nghiêm túc phán quyết này.
Thực tế cho thấy, hầu hết những vụ việc đưa ra buôn làng xử lý đều được người vi phạm chấp hành và sửa chữa sai phạm. Như vậy, luật tục đã thể hiện tính hợp lý trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh tại cộng đồng người dân tộc thiểu số, cũng góp phần vào việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của người dân nơi đây.
2.2.2. Những hạn chế Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Việc áp dụng luật tục hiện nay vẫn chưa mang tính tổ chức chặt chẽ và thể hiện ý chí của nhà nước. Thời gian qua, nhà nước ta đã chú ý tới một số hoạt động áp dụng luật tục để điều chỉnh mối quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng chỉ là bước đầu và chưa rộng rãi. Điều này đã dẫn đến những hạn chế nhất định trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục.
Một là, Nhà nước chưa chính thức công nhận cho phép áp dụng các quy định tiến bộ của luật tục phù hợp với quy định của pháp luật trong quá trình xét xử các vụ án thuộc một số lĩnh vực như hình sự, dù trong luật tục cũng có những quy định về các tội như: giết người, trộm cắp tài sản… Trong các bản án hình sự, nếu bị cáo là người dân tộc thiểu số phạm tội, chỉ có nhận định: Vừa vi phạm luật tục, vừa vi phạm pháp luật mà không được sử dụng quy định của luật tục để xét xử. Điều này dẫn đến hệ quả, hiệu lực của những bản án này với người dân tộc thiểu số có thể không cao, họ không ý thức được việc tự giác chấp hành như khi vi phạm luật tục. Đồng thời, có thể họ vừa phải chịu những hình phạt theo quy định của pháp luật nhưng khi về buôn làng của mình vẫn bị đưa ra xét xử và lại chịu hình phạt theo quy định của luật tục một lần nữa.
Hai là, trong hoạt động áp dụng luật tục giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong cộng đồng của đồng bào các dân tộc thiểu số được duy trì qua nhiều thế hệ. Điều này thể hiện những ưu điểm nhất định và cũng có những hạn chế: Hoạt động áp dụng luật tục của những người đứng đầu trong buôn làng người dân tộc thiểu số theo một lối mòn nhất định mà không có, hoặc có nhưng chưa đáng kể việc lựa chọn những quy định tiến bộ để áp dụng. Trong luật tục của mỗi dân tộc, có những quy định lạc hậu không còn phù hợp với cuộc sống của người dân nhưng chưa được bãi bỏ. Khi người dân vi phạm luật tục trong một lĩnh vực còn chịu sự điều chỉnh những quy định lạc hậu đó, họ vẫn phải chịu hình phạt theo quy định của luật tục. Như việc không chấp hành tục hôn nhân nối nòi của người Êđê sẽ bị xử lý theo hình thức phạt đền bằng vật chất. Nếu người dân chấp nhận quy định nối nòi của luật tục sẽ vi phạm luật hôn nhân gia đình của nhà nước. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Nhà nước ta đã có những biện pháp can thiệp vào hoạt động áp dụng luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhằm mục đích hạn chế việc áp dụng những quy định lạc hậu, phản tiến bộ làm cản trở sự phát triển của đồng bào, đồng thời nhằm xóa bỏ dần dần những quy định đó. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa đạt được mục đích đề ra và tầm ảnh hưởng của nó còn khá hạn hẹp. Vẫn còn tồn tại tình trạng một số quy định lạc hậu trong luật tục được người dân thực hiện như việc quy định người chồng không được quyền để lại thừa kế, tục lặn nước để phân định đúng sai khi có tranh chấp xảy ra…
Ba là, hoạt động áp dụng luật tục của người đứng đầu các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số không tuân theo một quy trình chặt chẽ, chủ yếu theo hình thức họp dân làng để tuyên bố xử phạt người vi phạm bằng cách người xét xử sẽ trích dẫn những đoạn văn trong luật tục tương ứng với hành vi vi phạm của cá nhân. Hoạt động này không có sự giám sát của bất cứ một cơ quan nào. Người đã bị đưa ra xét xử theo quy định của luật tục đương nhiên là người phải chấp hành nghĩa vụ phạt đền bằng hiện vật cho người bị hại và cho cả dân làng. Họ không có quyền được kêu oan nếu xảy ra việc xét xử sai trong thực tế. Trong những trường hợp xét xử sai, người bị xét xử phải chấp nhận hình phạt dù họ không gây ra hành vi vi phạm, bởi không có quy định nào bảo vệ quyền lợi cho họ. Trái với quy định của pháp luật, người không có tội sẽ được minh oan trong quá trình xét xử, họ được đảm bảo đầy đủ quyền tự do dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, hình phạt quy định trong luật tục chủ yếu là hình phạt vật chất, và thường là rất nặng theo quy định “một đền ba” như Điều 210 Luật tục Êđê: “Nếu hắn đã ăn trộm một con vật và sau đó đã ăn thịt hoặc đem bán… thì ngoài trả giá con vật, hắn phải đền hai con nữa, có nghĩa là hắn sẽ phải trả gấp ba, ngoài con vật hắn đánh cắp, hắn phải trả một con trước, một con sau” [33]. Ví dụ khi anh A ăn trộm một con bò của anh B, thì theo quy định, anh A phải đền lại 3 con bò “một con đã ăn cắp, một con trước và một con sau”. Trong khi theo quy định của pháp luật thì anh A sẽ chỉ phải trả lại anh B một con bò đã ăn cắp.
Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong việc thực hiện áp dụng pháp luật và áp dụng luật tục cho thấy những nét ưu điểm và những hạn chế còn tồn tại ở cả hai hình thức. Trong quá trình áp dụng pháp luật, luật tục đã góp phần đưa những quy định của pháp luật vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, làm tăng sự điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi của họ. Nhưng pháp luật vẫn chưa được coi là thói quen ứng xử hàng ngày và chưa làm hình thành những quy định tiến bộ trong luật tục. Quá trình áp dụng luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số đã được nhà nước ta chú trọng để đảm bảo việc công nhận những quy định tiến bộ trong luật tục làm công cụ điều chỉnh hành vi của những buôn làng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quy định lạc hậu, phản tiến bộ ảnh hưởng tới cuộc sống lành mạnh, làm cản trở sự phát triển hội nhập của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Những điểm tồn tại này đòi hỏi nhà nước ta phải có cách nhìn nhận đúng đắn về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục hiện nay. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
2.3. THỰC TRẠNG CHUNG MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC HIỆN NAY
Ngoài việc tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong việc thực hiện pháp luật và luật tục, chúng ta có thể hiểu rõ hơn mối quan hệ này qua việc tìm hiểu thực trạng chung.
2.3.1. Ưu điểm của mối quan hệ
Hiện nay, mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục đã được quan tâm đúng mức. Luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số ở mức độ nào đó đã có tác động tới việc hình thành các quy định của pháp luật, cũng như việc thực hiện pháp luật của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta. Cùng với đó, các quy định của pháp luật cũng có sự tác động tới luật tục một cách mạnh mẽ. Pháp luật đã ghi nhận và củng cố những quy định tốt đẹp, tiến bộ của luật tục; hạn chế và từng bước xóa bỏ việc áp dụng những quy định lạc hậu, không phù hợp với sự tiến bộ chung của xã hội trong luật tục như việc quy định hôn nhân nối nòi, đuổi người ra khỏi buôn làng khi bị nghi là ma lai… Những tư tưởng mới về pháp luật đã được hình thành trong đồng bào các dân tộc thiểu số, không những sử dụng luật tục để điều chỉnh những hành vi trong xảy ra trong cộng đồng, người dân đã biết đưa những vụ việc tới tòa án, hay cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Có thể thấy được những ưu điểm nổi bật trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục qua những điểm sau: Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Pháp luật của nhà nước đã thể hiện được ý chí và lợi ích chung của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, mà trong đó có lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số tương tự với những quy định trong luật tục.
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng và nhận thức được vai trò của các quy định mang tính đặc trưng truyền thống của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng. Pháp luật của nước ta hiện nay đã ghi nhận và bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Pháp luật nước ta là pháp luật của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền tự do, dân chủ cho nhân dân lao động không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Tất cả các quy định trong hệ thống pháp luật đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân các dân tộc sinh sống trên toàn lãnh thổ Việt Nam, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, lâu đời – trong đó có luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [23].
Nhà nước và xã hội tôn trọng, đảm bảo và có biện pháp bảo vệ quyền con người, quyền công dân về tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và nghiêm trị những hành vi xâm hại đến những quyền đó. Đây là những quy định mang tính tương đồng cao giữa pháp luật và luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong luật tục, yếu tố lợi ích của cả cộng đồng, yếu tố bảo vệ quyền lợi của con người cũng được đảm bảo và coi trọng. Nhìn từ góc độ chung nhất, thì pháp luật cũng góp phần đảm bảo cho những quy định của luật tục được thực hiện trong thực tế. Người dân vi phạm những quy định của luật tục dân tộc mình là đồng thời cũng vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành, lợi ích của nhà nước, của xã hội, của công dân, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được đảm bảo hài hòa. Nhà nước có trách nhiệm với công dân thì công dân phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với nhà nước. Điều 51, Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhà nước đảm bảo các quyền của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội” [23].
Những quy định trong luật tục không có vấn đề bảo vệ lợi ích chung của nhà nước một cách cụ thể, nhưng có quy định những vấn đề bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Như vậy, lợi ích chung của cộng đồng người dân tộc thiểu số và của mỗi cá nhân trong cộng đồng không nằm ngoài lợi ích chung của công dân do pháp luật bảo vệ. Lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số vừa được luật tục và pháp luật bảo vệ, làm tròn nghĩa vụ đối với cộng đồng mình là làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
Nhiều quy định tiến bộ của luật tục được thể hiện rõ nét, tương đồng với những quy định trong hệ thống pháp luật hiện nay.
Có thể thấy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, các quy định tiến bộ của luật tục được phản ánh tương đối đầy đủ. Trong lĩnh vực hình sự có những quy định về những tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người như: tội giết người, tội hiếp dâm; các tội về xâm phạm quyền sở hữu như: trộm cắp, chiếm đoạt tài sản. Các tội về hôn nhân gia đình… Những quy định trong luật tục về các tội danh trên của đồng bào các dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các quy định phần tội phạm trong bộ luật Hình sự nước ta. Tuy nhiên, các quy định của luật tục với nguyên tắc bảo vệ con người còn mang niềm tin vào thần linh, trời đất. Hình thức mô tả hành vi phạm tội, nêu hình phạt ở mức sơ khai. Việc xử lý người vi phạm do người đứng đầu cộng đồng tiến hành chủ yếu bằng hình thức phạt đền vật chất, và sự trừng phạt chỉ giới hạn trong một cộng đồng người.
Lĩnh vực hôn nhân, gia đình được pháp luật phản ánh khá rõ nét một số phong tục tập quán của các dân tộc trên lãnh thổ nước ta. Luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số có những quy định tiến bộ về hôn nhân, gia đình được Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận cụ thể. Đầu tiên đó là quy định hôn nhân tiến bộ một vợ, một chồng, nghiêm cấm các hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng được ghi nhận rất rõ ràng trong luật tục của các dân tộc, như tại điều 109, Luật tục Êđê: “Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho đến chết; đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi rượu nhạt…” [33]. Quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ với con cái, và con cái với cha mẹ, ông bà như Điều 143 – Trách nhiệm của cha mẹ với con cái, luật tục Êđê:
Có dưa, có bắp là có người trồng, có con có cái là do cha mẹ sinh ra, là có người trọng. Nếu những đứa con làm điều này điều nọ, nếu chúng đi tầm bậy, tầm bạ như kẻ điên dại… nếu chúng đi rình mò, thò tay lấy trộm, lấy cắp của người ta; nếu người làm cha, làm mẹ làm ngơ, chấp nhận tất cả những hành vi xấu xa mà con cái họ có thể làm, thì họ là những người chịu trách nhiệm [33]. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Luật Hôn nhân và gia đình đã ghi nhận hầu hết những nét tiến bộ của luật tục trong lĩnh vực này. So với những lĩnh vực khác, quy định của luật tục trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình có nhiều điểm tiến bộ. Điểm chung đó là chế độ hôn nhân chung thủy một vợ, một chồng, các thành viên trong gia đình có trách nhiệm, nghĩa vụ thương yêu, giúp đỡ nhau. Tuy vậy, một số quy định của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn bảo vệ chế độ mẫu hệ, quan hệ trong gia đình đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình, duy trì hôn nhân “nối nòi” phản tiến bộ. Những quy định không hợp lý này được pháp luật dần xóa bỏ và xây dựng những quy định mới tiến bộ.
Khi những quy định trong luật tục được ghi nhận bằng pháp luật, nó đã không còn là quy tắc riêng của đồng bào các dân tộc thiểu số mà đã là quy tắc xử sự mang tính phổ biến đối với toàn xã hội. Được pháp luật ghi nhận, luật tục đã trở thành công cụ pháp lý để bảo vệ buôn làng và thành viên trong cộng đồng mình tốt hơn.
Luật tục có sự hỗ trợ, bổ sung, thay thế và tạo điều kiện cho pháp luật được thực hiên nghiêm chỉnh trong đời sống cộng đồng người dân tộc thiếu số. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Pháp luật không thể dự liệu để điều chỉnh hết các mối quan hệ xã hội phát sinh, hay không thể cụ thể hóa được tất cả những trường hợp vi phạm trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Trong những trường hợp này, luật tục sẽ đóng vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật để điều chỉnh những mối quan hệ xã hội phát sinh. Như Điều 3, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán…” [27]. Bằng quy định này, nhà nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò điều chỉnh của các tập quán – mà trong đó có luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh nếu pháp luật của nhà nước chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh.
Cùng với đó, luật tục còn tạo điều kiện để pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Thực tế cho thấy, những quy định của pháp luật phù hợp với các quy định của luật tục đều được người đồng bào các dân tộc thiểu số chấp hành và tự giác thực hiện. Khi có hành vi vi phạm xảy ra, nếu luật tục cũng điều chỉnh hành vi đó, thì người vi phạm nhận thức rất nhanh hành vi sai trái của mình, họ tự giác thực hiện những hình phạt theo quy định và có ý thức sửa chữa hành vi. Từ đó, họ nhận biết được hành đó không những vi phạm quy định của luật tục mà còn vi phạm cả pháp luật của nhà nước. Pháp luật cũng bảo vệ quyền lợi chung của cả cộng đồng và cho cá nhân họ, ý thức về tuân thủ pháp luật của nhà nước dần được hình thành và tự nâng cao trong mỗi người dân.
Pháp luật hiện hành góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy các quy định tiến bộ của luật tục, loại bỏ dần những quy định lạc hậu, phản tiến bộ. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Trong quá trình toàn cầu hóa không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trên mọi mặt văn hóa, xã hội hiện nay, việc củng cố, giữ gìn và phát huy phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc, trong đó có những quy định tiến bộ của luật tục được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở những vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, dễ dàng bị các phần tử xấu lôi kéo phục vụ cho những mục đích chống đối lại nhà nước ta, dễ bị ảnh hưởng bởi những luận điệu lợi dụng lòng tin vào tín ngưỡng, tôn giáo, thần linh để hình thành những phong tục, tập quán phản tiến bộ. Để ngăn chặn những vấn đề trên xảy ra, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống của mọi dân tộc trên lãnh thổ, trong đó có những quy định tốt đẹp trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Điều 5, Hiến pháp 1992 quy định: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình” [23]. Điều 8, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” [27].
Đây là những quy định cụ thể thừa nhận việc nhà nước ta ghi nhận những phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc để điều chỉnh những hành phát sinh trong xã hội. Cùng với đó là những quy định cụ thể hóa những quy định trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực: hình sự, hôn nhân gia đình… Khi tinh thần tiến bộ của những quy định trong luật tục được nhà nước ta đưa lên thành luật, thì nó trở thành quy tắc xử sự chung cho mọi chủ thể trong xã hội và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Pháp luật cũng khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội tôn trọng những phong tục, tập quán tốt đẹp quy định trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Điểm tích cực dễ nhận thấy trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục thể hiện ở khía cạnh pháp luật góp phần loại trừ những quy định lạc hậu, phản tiến bộ trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Xuất phát từ cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, niềm tin vào thần linh, trời đất, luật tục còn tồn tại những quy định lạc hậu, ăn sâu vào ý thức của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiêu biểu là những quy định trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình. Chế độ mẫu hệ tồn tại lâu đời, theo đó, người đàn ông đóng vị trí yếu thế trong gia đình, không có quyền có tài sản riêng, không được để lại thừa kế cho bố mẹ đẻ. Điều 142 luật tục Êđê quy định: “Nếu người chồng có chiêng, ché, ngựa, trâu, có mâm, thau, chậu đồng, chén bát, nếu anh ta có một thứ gì đó, dù là đồ đặc lặt vặt thì anh ta đều phải giao cho vợ giữ” [33]. Hôn nhân trong luật tục còn duy trì chế độ “nối nòi”. Nếu người chồng, hoặc người vợ chết trước, thì bên gia đình nhà vợ hay nhà chồng có người chết phải cho một người anh, em trai, chị, em gái kết hôn với người còn sống. Luật tục Êđê quy định: “Rầm nhà gãy phải thay, dát sàn rách thì phải thế. Chết người này phải thế bằng người khác… Nhưng nếu họ tỏ ra lạnh nhạt, lấy cớ người của họ còn trẻ mỏ chưa biết làm vợ, làm chồng họ không thực bụng muốn nối nòi thì tội thuộc về họ” [33].
Pháp luật nước ta đã có những quy định nhằm loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu của các dân tộc thiểu số. Điều 52, Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”[23]. Điều 63 “Công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình” [23]. Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình” [25]. Hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ theo Điều 4: “cấm cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ” [25]. Bằng những quy định này, pháp luật đã gián tiếp không thừa nhận những quy định lạc hậu trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, đưa ra những quy tắc xử sự chung làm chuẩn mực để các cá nhân trong xã hội thực hiện nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của chính mình và chung cho sự phát triển tiến bộ của toàn xã hội. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Loại trừ các quy định lạc hậu, phản tiến bộ trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số còn phải nói tới một phần không nhỏ những chính sách của nhà nước ta nhằm phát triển nền kinh tế cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Đời sống kinh tế kém phát triển, điều kiện sống khó khăn chính là những điều kiện để những quy định lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát triển chung của cộng đồng tồn tại lâu đời và vẫn được duy trì thực hiện. Với mục tiêu chung đưa kinh tế của những vùng sâu, vùng xa tiến kịp sự phát triển chung của đất nước, nhà nước ta đã có nhiều chủ trương thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Những chương trình mang tính thiết thực như Chương trình 135, 132 của Chính phủ hỗ trợ nguồn vốn, giao đất, giao rừng cho người dân để sản xuất, nhà nước và nhân dân cùng làm đã phát huy tác dụng tích cực. Một số lượng lớn nguồn vốn trong và ngoài nước đã ưu tiên đầu tư cho phát triển kinh tế ở những vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống; cơ sở hạ tầng từng bước được hoàn thiện, thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu giữa các vùng, miền. Đồng bào các dân tộc thiểu số có nhiều cơ hội tiếp xúc với nền kinh tế đang phát triển từng ngày, tiếp xúc với nền văn hóa tiến bộ của các dân tộc anh em trong cả nước. Đời sống kinh tế và văn hóa của đồng bào ngày càng được nâng cao, cũng theo đó, lòng tin vào Đảng, Nhà nước của họ cũng nâng lên, tình trạng vi phạm pháp luật và luật tục giảm xuống. Trong ý thức người dân đã hiểu rõ hơn việc con người làm chủ thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên phục vụ cuộc sống, loại trừ dần những quan niệm mê tín, dị đoan tin vào sức mạnh siêu nhiên của thần phật, trời đất. Như vậy, pháp luật hiện hành đã góp phần hạn chế và loại bỏ dần những quy định lạc hậu của luật tục.
Không những hạn chế và loại bỏ dần những quy định lạc hậu, trong một chừng mực nhất định, pháp luật còn góp phần vào việc ngăn chặn những quy định phản tiến bộ, hình thành những quy định mới tiến bộ trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành đã phản ánh được nhiều mặt tích cực trong tâm tư, nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống trong cả nước, bảo vệ hiệu quả những quyền và lợi ích của họ. Hầu hết đồng bào các dân tộc thiểu số đã có ý thức tuân thủ pháp luật và tự giác thực hiện pháp luật như thực hiện những quy định trong luật tục của dân tộc mình. Với chính sách chung thúc đẩy sự phát triển, hòa nhập của cả nước như hiện nay, pháp luật và luật tục đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành của đồng bào các dân tộc thiểu số; cùng góp phần phát huy những giá trị tốt đẹp và loại bỏ dần nhưng quy định lạc hậu, phản tiến bộ trong luật tục.
2.3.2. Những hạn chế của mối quan hệ Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Cùng với những ưu điểm đã nêu ở trên, mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ở nước ta hiện nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải xem xét.
Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong buôn làng người dân tộc thiểu số trong nhiều trường hợp còn chưa phân định được ranh giới điều chỉnh giữa pháp luật và luật tục.
Ở mức độ điều chỉnh, pháp luật và luật tục có những điểm khác biệt khá rõ ràng. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến, phát sinh trong toàn xã hội mà đồng bào các dân tộc thiểu số là một phần trong đó. Còn luật tục chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi nhỏ hẹp là trong các buôn làng, bản người dân tộc thiểu số. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp, một quan hệ xã hội phát sinh được sự điều chỉnh của cả pháp luật và luật tục. Khi gặp trường hợp này, đồng bào các dân tộc thiểu số thường lựa chọn cách điều chỉnh theo luật tục của dân tộc mình, báo cáo sự việc với người đứng đầu là trưởng buôn, trưởng bản, già làng mà không tới các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của nhà nước để giải quyết. Tuy nhiên, khi có hành vi vi phạm xảy ra theo các quy định là các trọng tội (như tội giết người, gây thương tích, cưỡng dâm…) thì người có hành vi đó phải chịu cả sự điều chỉnh của pháp luật. Như vậy, một hành vi vi phạm nhưng người vi phạm phải chịu cả hai chế tài theo quy định của cả pháp luật và luật tục. Chế tài theo quy định của pháp luật bắt buộc người vi phạm phải chịu trách nhiệm, còn chế tài theo quy định của luật tục thì có thể gia đình, bản thân người vi phạm tự nguyện thực hiện và dưới sự giám sát của cả buôn làng. Ví dụ như người thực hiện hành vi giết người phải chịu sự xét xử của tòa án theo quy định của Bộ Luật Hình sự, gia đình người đó theo quy định của luật tục Êđê tự nguyện mua chiêng, ché về cúng cho người chết và nộp trâu bò cúng cầu an cho cả buôn làng. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Thực tại trên còn tồn tại do nhận thức chung của đồng bào người dân tộc thiểu số, trong ý thức của họ, việc thực hiện luật tục là quan trọng và có thể không thực hiện những quy định của pháp luật chứ không thể không thực hiện luật tục. Luật tục đã ăn sâu trong tâm trí họ, là niềm tin, tín ngưỡng không chỉ của bản thân họ mà còn của cả cộng đồng. Việc tồn tại hình thức này làm ảnh hưởng tới quyền lợi của người vi phạm và gia đình người vi phạm. Đây là điểm hạn chế cần được chú ý và xem xét khi tiến hành áp dụng các quy định của pháp luật; các nhà làm luật có thể dựa vào đặc điểm này để có những văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm quy định một cách hợp lý khi áp dụng những hình phạt, biện pháp bồi thường mà người vi phạm vi phạm cả pháp luật và luật tục của dân tộc họ.
Trong các quy định của pháp luật về thừa nhận những quy định của luật tục chưa cụ thể hóa dẫn đến khó thực hiện trên thực tế.
Như phần trên đã phân tích, những quy định tiến bộ trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được pháp luật ghi nhận và thể chế hóa thành những quy định cụ thể để đảm bảo cho việc được thực hiện trên thực tế. Nhưng trong một số trường hợp, việc thể chế hóa luật tục còn khái quát và chưa cụ thể dẫn tới việc áp dụng chúng còn khó khăn. Như Điều 3 tại Bộ Luật Dân sự năm 2005 có quy định “Trong trường hợp pháp luật không có quy định… có thể áp dụng tập quán và các quy định tương tự của pháp luật” [27], và điều kiện là tập quán và những quy định của pháp luật không được trái với những nguyên tắc trong bộ luật. Theo quy định trên, việc áp dụng tập quán phải đảm bảo yêu cầu “không được trái với các nguyên tắc quy định trong bộ luật này”. Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng những phong tục, tập quán không được trái nguyên tắc của pháp luật để giải quyết tranh chấp dân sự còn nhiều vướng mắc và gây tranh cãi. Phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc nói chung rất phong phú và đa dạng, lại được tồn tại dưới dạng “truyền khẩu” không có một hình thức ghi nhận chính thức nào. Để nhận định một phong tục, tập quán nào là không trái pháp luật để áp dụng do đó gặp nhiều khó khăn và thiếu cơ sở pháp lý. Việc áp dụng quy định này hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định chủ quan của người có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, việc nhận định những quy định trong luật tục của dân tộc mình là không trái pháp luật để áp dụng trong việc điều chỉnh hành vi của mình lại càng khó khăn. Đối với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc, nếu gặp trường hợp pháp luật chưa có quy định cụ thể, thì lựa chọn cũng là vận dụng những điều khoản tương tự của pháp luật để giải quyết. Cách áp dụng này được cho là có tính pháp lý cao hơn việc lựa chọn áp dụng những quy định trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, gây tranh cãi về việc thế nào là quy định không trái pháp luật để áp dụng. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Như vậy, những quy định khá khái quát trong việc áp dụng quy định về phong tục, tập quán mà trong đó chứa đựng những quy định của đồng bào các dân tộc thiểu số như hiện nay gây khó khăn trong việc áp dụng, đặc biệt là đối với chính đồng bào các dân tộc thiểu số.
Vẫn còn nhiều quy định phản tiến bộ của trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số còn tồn tại, gây cản trở cho cuộc sống lành mạnh của người dân chưa được pháp luật loại bỏ và ngăn chặn một cách hiệu quả.
Pháp luật hiện hành đã góp phần khá quan trọng trong việc loại trừ các quy định lạc hậu của luật tục. Nhưng do nhiều nguyên nhân mà vẫn còn tồn tại không ít những quy định lạc hậu, trái pháp luật trong luật tục còn tồn tại và vẫn được người dân áp dụng như: hôn nhân nối nòi ở dân tộc Êđê, tỉnh DăkLăk, tục lặn nước để phân xử khi có xích mích xảy ra tại đồng bào dân tộc huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Già làng Ma Thô ở buôn Hai Krông, xã Ea Bia, huyện Sông Hinh cho biết:
Khi trong buôn có những mâu thuẫn, xích mích, nghi kỵ lẫn nhau mà buôn làng không phân xử được thì áp dụng luật tục lặn nước để phân biệt ai đúng, ai sai. Bên nào thua không chỉ bị phạt rất nặng theo sự thỏa thuận trước mà còn bị dân làng xem là dối trá, không trung thực. Nếu mình không làm điều gì sai trái thì được thần linh che chở. Còn những người nào ăn gian, nói dối, làm những điều bất chính sẽ bị thần linh trừng phạt [16].
Những quy định lạc hậu, phản tiến bộ trên còn tồn tại ở những buôn làng điều kiện khó khăn, trình độ văn hóa dân cư còn thấp và mê tín, dị đoan còn in sâu trong ý thức người dân. Cùng với đó là nguyên nhân do tổ chức tuyên truyền pháp luật của nhà nước ta chưa phát huy hiệu quả cao đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Cán bộ tuyên truyền pháp luật phải là người am hiểu phong tục, tập quán của đồng bào, có thời gian tìm hiểu và gắn bó với cuộc sống của người dân, từ đó dễ dàng tiếp xúc, tạo được niềm tin với họ để tuyên truyền những quy định tiến bộ của pháp luật và loại bỏ những tập quán lạc hậu, phản tiến bộ trong luật tục. Pháp luật nước ta cũng chưa có quy định cụ thể nào áp dụng các biện pháp xử lý kiên quyết đối với những trường hợp áp dụng những quy định lạc hậu, phản tiến bộ, trái quy định của pháp luật. Như trường hợp thực hiện hôn nhân nối nòi là kết hôn thiếu tự nguyện, tiến bộ trong luật tục của người Êđê thì chính quyền địa phương biết rõ là vi phạm, nhưng chưa có quy định cụ thể về việc xử lý những trường hợp này nên việc ngăn cản và loại bỏ nó chỉ được làm ở mức độ tuyên truyền, giáo dục, kết quả không triệt để và tùy thuộc vào ý thức chấp hành của người dân.
Pháp luật hiện hành chưa phát huy vai trò làm hình thành những quy định mới, tiến bộ trong luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Trong những năm gần đây, với sự giao lưu phát triển của kinh tế thị trường, sự du nhập của nhiều luồng tư tưởng vào Việt Nam, đặc biệt có sự lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đi theo những tổ chức phản động nhằm mục đích thành lập Nhà nước độc lập cho người dân tộc. Một số người dân tộc thiểu số đã bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào các tổ chức phản động, trở về buôn làng tuyên truyền, từ đó hình thành những tư tưởng chống đối chính quyền, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta như lời kêu gọi của Đạo tin lành: “Đàn ông không cần lên nương, đàn bà không cần lên rẫy, chỉ cần ở nhà cúng đức chúa trời là có đủ cơm gạo, tập hợp lại đòi chính quyền trả lại đất…” Chính những tư tưởng phản động này đã hình thành trong một số ít đồng bào dân tộc thiểu số, gây lên những cuộc bạo loạn kéo dài, làm mất an ninh trật tự khu vực Tây Nguyên nước ta một thời gian.
Thực trạng này xảy ra có nguyên nhân của việc pháp luật nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng, chưa đi vào đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số và chưa hình thành trong họ ý thức phải luôn tuân thủ pháp luật của nhà nước, chính sách của Đảng.
Có thể thấy rõ điều này qua vụ án năm 2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử bị án YHưng Ayum về tội phá hoại chính sách đoàn kết. Bị án đã tự thú nhận: “Do không biết tiếng kinh, không biết pháp luật sẽ xử tù vì đi theo tổ chức phản động. Luật tục Êđê cũng không cấm tôi đi theo tổ chức này, nên khi bạn bè rủ rê, cho tiền là tôi đi theo ngay. Nay tôi bị pháp luật phạt tù, tôi biết mình có tội và hối hận lắm” [35].
Trong những trường hợp này, có thể thấy nếu sớm biết những quy định của pháp luật về việc xử phạt những hành vi này, thì đồng bào các dân tộc thiểu số sẽ có ý thức về chính sách đoàn kết của dân tộc, không bị kẻ xấu lôi kéo tham gia tổ chức chống đối chính quyền, chưa hình thành những quy định mới cho đồng bào các dân tộc thiểu số lấy đó làm công cụ điều chỉnh quan hệ phát sinh trong cộng đồng. Pháp luật vẫn chưa đi vào cuộc sống của họ, chưa hình thành trong họ ý thức “sống và làm việc theo pháp luật”. Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN.
Như vậy, bên cạnh những ưu điểm có được trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong thực tế vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế trong mối quan hệ này. Cần có những biện pháp và quan điểm đúng đắn để phát huy vai trò tích cực của những ưu điểm và hạn chế những tồn tại của mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục hiện nay ở nước ta.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com