Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1.Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
2.1.1. Quy định pháp luật về chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
Chính sách của Nhà nước về đầu tư kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn, đích đến của nhà đầu tư. Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, chính sách của Nhà nước ta là lấy nhà đầu tư là đối tượng chính để phục vụ, tạo thuận lợi, đồng thời chính sách đã thể hiện sự nhất quán, sự ổn định theo hướng thuận lợi, an toàn và thân thiện cho nhà đầu tư. Chính sách này đã minh thị về quyền bình đẳng cho tất cả nhà đầu tư, không phân biệt loại hình, thành phần kinh tế trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực như vốn, tài nguyên, đất đai, quyền khởi kiện, không quốc hữu hóa… trong đầu tư kinh doanh theo thông lệ quốc tế.
Điều 5 Luật đầu tư năm 2020 đã quy định cụ thể về chính sách đầu tư kinh doanh, cụ thể:
- Quyền được đầu tư kinh doanh
Hoạt động đầu tư là việc “nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh”. Kết quả của đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà còn có thể mang lại những lợi ích chung cho xã hội như tạo công ăn việc làm, an sinh xã hội, tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh phát triển đất nước, chúng ta không chỉ cần nguồn đầu tư trong nước mà còn rất cần những nguồn đầu tư từ nước ngoài. Không chỉ vậy, việc kêu gọi, chào mời nhà đầu tư nước ngoài không hề dễ dàng nếu chúng ta không có sự tương đồng nhất định với họ. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng, “các nhà đầu tư hoạt động tốt hơn ở nước ngoài có hệ thống pháp luật và đặc điểm văn hóa tương tự như thị trường nội địa của họ. Sự khác biệt về các yếu tố cụ thể của quốc gia tạo ra rào cản bất cân xứng về thông tin, làm chậm dòng thông tin và dẫn đến hiệu quả đầu tư kém”. Nhận thức được tầm quan trọng trong các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư kinh doanh (ĐTKD) nên nhìn chung, chính sách về ĐTKD trong Luật Đầu tư (LĐT) của Việt Nam qua các lần sửa đổi, bổ sung đều hướng tới “tạo điều kiện thuận lợi hơn, tốt hơn cho nhà đầu tư cũng như ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế”.
Theo quy định của khoản 1 Điều 5 LĐT năm 2020,“nhà đầu tư có quyền thực hiện hoạt động ĐTKD trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm. Đối với ngành, nghề ĐTKD có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện ĐTKD theo quy định của pháp luật”.
- Quy định này cho thấy: Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Một là,“nhà đầu tư có quyền thực hiện hoạt động ĐTKD trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm” là phù hợp với quyền hiến định “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Mặc dù vậy, quyền tự do kinh doanh không phải là vô giới hạn mà bị hạn chế trong trường hợp “cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Nói cách khác, Nhà nước có thể ban hành quy định hạn chế, can thiệp vào quyền tự do kinh doanh trong những trường hợp nhất định. So với LĐT năm 2014 thì LĐT năm 2020 đã có sự dịch chuyển “từ ngành nghề kinh doanh có điều kiện” sang“ ngành nghề cấm kinh doanh”.
Hai là, “đối với ngành, nghề ĐTKD có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện ĐTKD theo quy định của pháp luật”.Điều kiện ĐTKD được hiểu là một trong những công cụ quản lý được Nhà nước sử dụng để thiết lập, duy trì trật tự trong hoạt động kinh doanh chứ không phải đặt ra để hạn chế quyền của nhà đầu tư. Bản thân các điều kiện kinh doanh không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới, chúng chỉ là những phương tiện để đạt được lợi ích mà Nhà nước mong muốn đạt được (khách thể) trong quản lý xã hội.
Khoản 1 Điều 7 LĐT năm 2020 quy định về ngành, nghề ĐTKD có điều kiện “là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động ĐTKD trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Với tinh thần vừa thúc đẩy cải cách, mở cửa thị trường, tạo thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước thì số ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đã được giảm đi đáng kể.
- Quyền tự quyết định và được tiếp cận nguồn lực của nhà đầu tư
Khoản 2 Điều 5 LĐT quy định: “Nhà đầu tư được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động ĐTKD theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật”
Quy định “Nhà đầu tư được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động ĐTKD theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”, về bản chất, đây là “sự thật hiển nhiên” phải thực hiện của nhà đầu tư khi tham gia hoạt động ĐTKD, bởi không ai có thể “lo hộ, nghĩ hộ” họ, và ở chiều ngược lại, nhà đầu tư cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với các rủi ro, bất lợi hoặc sự vi phạm do chính mình gây ra. Tuy vậy, thực tế vẫn diễn ra tình trạng người làm chính sách “nghĩ hộ, lo hộ” cho nhà đầu tư khi đưa ra những quy định mang tính chủ quan như: “phải có phương án kinh doanh khả thi, phải tốt nghiệp cao đẳng ngành in, phải có cán bộ pháp chế…”. Những quy định này đã can thiệp vào quyền tự quyết của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, thậm chí làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy định “được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật” cũng mang tính đương nhiên và bắt buộc phải có bởi nhà đầu tư sẽ không thể hoạt động bình thường nếu thiếu đi các nhân tố thuộc về lực lượng sản xuất. Tuy vậy, các quy định về quyền được tiếp cận này của nước ta trong những thập niên qua luôn là vấn đề kém thuận lợi cho nhà đầu tư so với các nền kinh tế tương đương. Việc thiếu vốn, cần vốn và mong muốn tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng là vấn đề của đa số nhà đầu tư. Họ cần vốn để bảo đảm tiến độ dự án hoặc đầu tư với kỳ vọng vào hiệu quả cao trong tương lai của dự án đầu tư, nhưng việc tiếp cận nguồn lực này còn nhiều trở ngại.
Một vấn đề mới được bổ sung trong quy định của LĐT năm 2020 về ĐTKD là, “nhà đầu tư bị đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động ĐTKD nếu hoạt động này gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia”. Quy định này nhằm “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”. Đây cũng là quy định nghiêm ngặt, mang tính tự vệ cao của Nhà nước để hạn chế mặt trái của hoạt động ĐTKD. Quy định mới này của Việt Nam cũng phù hợp với xu thế của đầu tư quốc tế hiện nay. Cụ thể, theo Báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), cơ chế sàng lọc nhà đầu tư ngày càng được coi trọng tại mỗi quốc gia. Ví dụ, “trong năm 2018, khoảng 55 nền kinh tế đã áp dụng ít nhất 112 biện pháp tác động đến đầu tư nước ngoài. Hơn một phần ba trong số các biện pháp này đưa ra các hạn chế hoặc quy định mới – con số cao nhất trong hai thập kỷ. Chúng chủ yếu phản ánh những lo ngại về an ninh quốc gia về quyền sở hữu của nước ngoài đối với cơ sở hạ tầng quan trọng, công nghệ cốt lõi và các tài sản kinh doanh nhạy cảm khác. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, quy định “nhà đầu tư bị đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động ĐTKD nếu hoạt động này gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia” được đặt ra không phải để hạn chế quyền được ĐTKD hoặc hoạt động bình thường của nhà đầu tư mà nhà đầu tư chỉ có thể bị “đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động ĐTKD” khi và chỉ khi hoạt động này đe dọa hoặc gây phương hại đến “quốc phòng, an ninh quốc gia”.
- Bảo hộ tài sản của nhà đầu tư
Khoản 4 Điều 5 LĐT quy định: “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư”.
Cho dù quy mô đầu tư hoặc quốc tịch nhà đầu tư khác nhau thì quy định bảo hộ quyền sở hữu về tài sản của nhà đầu tư đã trở thành thông lệ quốc tế, xuất phát từ nguyên tắc “những gì của nhà đầu tư phải thuộc về nhà đầu tư” và nó thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với tài sản, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.Bản chất của ĐTKD là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai. Do đó, vấn đề “bảo hộ nhà đầu tư” và “bảo hộ tài sản của nhà đầu tư” là một yếu tố then chốt trong thu hút đầu tư tại mỗi quốc gia. Dựa vào chi phí cơ hội và đánh giá rủi ro về chính sách đối với nhà đầu tư để từ đó họ quyết định có ĐTKD vào một thị trường cụ thể hay không. Quy định này trở nên tối quan trọng đối với nhà đầu tư nước ngoài bởi họ tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở nước ngoài thường vì nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, có lợi thế cạnh tranh hơn ở nước sở tại. Muốn vậy, nước nhận đầu tư cần phải có sự cam kết quốc gia về bảo hộ tài sản đối với chủ đầu tư và đây như là một công cụ gửi tín hiệu chào đón, làm an lòng nhà đầu tư nước ngoài và tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại mỗi quốc gia.
Rủi ro khi bị quốc hữu hoá đối với nhà đầu tư nước ngoài đã từng tồn tại và tác động không nhỏ đến tâm lý của nhà đầu tư trong quan hệ đầu tư quốc tế. Về vấn đề này, Chính phủ Việt Nam luôn nhất quán về chính sách không quốc hữu hóa tài sản hợp pháp của nhà đầu tư bằng biện pháp hành chính. Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Đối xử bình đẳng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư
Khoản 5 Điều 5 LĐT quy định: “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động ĐTKD, phát triển bền vững các ngành kinh tế”.
Quy định “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư” nhằm bảo đảm cơ hội cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư không phân biệt quốc. Các hiệp định đầu tư quốc tế (IIA) thường yêu cầu nước nhận đầu tư không phân biệt đối xử với nhà đầu tư nước ngoài và khoản đầu tư của họ. Theo đó, chế độ đối xử quốc gia bảo đảm nhà đầu tư nước ngoài và khoản đầu tư của họ không bị đối xử kém thuận lợi hơn so với nhà đầu tư, khoản đầu tư đến từ bất kỳ quốc gia thứ ba nào. Nghĩa vụ cuối cùng trong nhóm các quy định cấm phân biệt đối xử là nghĩa vụ không gây tổn hại bằng các biện pháp tùy tiện và phân biệt.
Quy định “Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động ĐTKD, phát triển bền vững các ngành kinh tế” nhằm tạo ra môi trường ĐTKD thuận lợi, lành mạnh cho nhà đầu tư. Tuy vậy, trên thực tế, cũng còn nhiều chính sách chưa thể đi vào cuộc sống do thiếu tính thực tế hoặc điều kiện quá chặt. Cụ thể, theo một khảo sát tính, đến đầu tháng 10/2020 có khoảng 80% doanh nghiệp cho biết, không nhận được gói hỗ trợ Covid-19 lần 1 của Chính phủ. Lý do chủ yếu do doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện, gặp phải những rào cản, thủ tục phức tạp, nên không “mặn mà”. Vì vậy, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, tiếp cận tốt với các gói hỗ trợ, cần rà soát, giải quyết các vướng mắc, bất cập trong triển khai để có được những chính sách mang tính “ngắn gọn, đơn giản về quy trình”.
Có thể nói rằng, chính sách của Nhà nước về ĐTKD là nhân tố quyết định, ảnh hưởng đến sự lựa chọn, đích đến của nhà đầu tư. Với LĐT năm 2020, Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh nhà đầu tư theo quy định của pháp luật và nhà đầu tư có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Về nguyên tắc, chính sách của Nhà nước ta là lấy nhà đầu tư là đối tượng chính để phục vụ, tạo thuận lợi, đồng thời chính sách đã thể hiện sự nhất quán, sự ổn định theo hướng thuận lợi, an toàn và thân thiện cho nhà đầu tư. Chính sách này đã minh thị về quyền bình đẳng cho tất cả nhà đầu tư, không phân biệt loại hình, thành phần kinh tế trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực như vốn, tài nguyên, đất đai, quyền khởi kiện, không quốc hữu hóa… trong đầu tư kinh doanh theo thông lệ quốc tế./.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2. Quy định về nguồn vốn và cơ chế hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
2.1.2.1. Quy định về nguồn vốn Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
- Nguồn vốn 100% của nhà đầu tư nước ngoài:
Việc nhà đầu tư nước ngoài thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của mình theo quy định của pháp luật khiến nhà đầu tư hoàn toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, không bị chi phối bởi ý chí của bất kỳ ai, chỉ tuân theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hình thức này khiến nhà đầu tư bị hạn chế về khả năng huy động vốn và phải chịu toàn bộ rủi ro nếu hoạt động đầu tư của họ gặp rủi ro.
- Quy định về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ :
Nhà đầu tư khi góp vốn điều lệ sẽ được xác định tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của họ. Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ được tính dựa trên cơ sở tổng giá trị tài sản vốn đã góp ( hoặc cam kết góp) của một thành viên công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hay tổng giá trị tài sản cổ đông đã góp vào công ty cổ phần thông qua thanh toán tiền mua cổ phần. Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ và tỷ lệ giữa vốn góp của một thành viên/cổ đông và vốn điều lệ của công ty của Trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế trừ trường hợp điều ước quốc tế và pháp luật chuyên ngành có quy định khác. Các quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ thường được quy định theo ngành nghề đầu tư kinh doanh và có thể được thay đổi theo các giai đoạn và thời điểm khác nhau. Các quy định về điều kiện đối với nhà đầu tư nhằm xác định chủ thể đầu tư có khả năng thực hiện dự án và hạn chế những tác động tiêu cực đến nền kinh tế – xã hội – chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
2.1.2.2. Quy định về nhóm ngành đầu tư công nghiệp hỗ trợ
Theo Bộ Công Thương, hiện Việt Nam có khoảng khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó có khoảng 100 doanh nghiệp đang là nhà cung cấp cấp 1 cho các tập đoàn lớn, và khoảng 700 doanh nghiệp là nhà cung cấp cấp cấp 2 và cấp 3 Việt Nam đang là địa điểm được các doanh nghiệp FDI quan tâm vì đáp ứng được nhiều yếu tố then chốt như sự ổn định chính trị, nền kinh tế phục hồi nhanh chóng sau dịch Covid-19, các cân đối vĩ mô được đảm bảo, lạm phát được kiềm chế. kết cấu hạ tầng của Nhà nước, nhất là hệ thống đường bộ cao tốc, nhiều Hiệp định Thương mại tự do đã được ký kết và đang được thực thi có hiệu quả.
Công nghiệp hỗ trợ là một trong những giải pháp quan trọng để cải thiện chất lượng nền kinh tế, phát triển bền vững và tránh bẫy thu nhập trung bình; giúp tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Từ đó, tạo tính lan tỏa mạnh mẽ, giúp các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI và chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Pháp luật quy định về nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện gồm:
- Công nghiệp phụ trợ cung cấp máy móc công cụ và trang thiết bị cho nhiều ngành công nghiệp, bao gồm công nghiệp lắp ráp, chế biến và công nghiệp hỗ trợ khác.
- Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp chế biến cung cấp nguyên phụ liệu cho công nghiệp chế biến như dệt may, da giày…
- Công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp lắp ráp cung cấp linh kiện, phụ tùng cho công nghiệp lắp ráp như ô tô, xe máy, điện tử… Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
- Các ngành cứng như sản xuất nguyên vật liệu và linh kiện. Các ngành mềm như thiết kế sản phẩm, mua sắm, marketing quốc tế, viễn thông, vận tải, năng lượng, cấp nước. Các ngành phục vụ nhu cầu nội địa như thép, hóa chất, giấy, ximăng…
Có thể thấy, ngành công nghiệp hỗ trợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện những nhóm ngành này thuộc sự quản lý chủ yếu của Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam….
Công nghiệp hỗ trợ là ngành thực hiện toàn bộ quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác nhau về yếu tố phụ trợ. Chính vì lẽ đó nghề kinh doanh có điều kiện yêu cầu người ĐKKD phải có giấy phép con, Chứng chỉ hành nghề, Vốn pháp định, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, ký quỹ, mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động doanh … Chi phí tính riêng cho việc cấp phép kinh doanh, Bộ Công thương có thẩm quyền cấp đến 68 Giấy phép kinh doanh các loại, con số này ở Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn là 58, ở Bộ giao thông vận tải là 31, Ngân hàng nhà nước là 30…
Thực tế nêu trên chứng tỏ, các ngành, nghề, nghề kinh doanh có điều kiên đang có su hướng siết chặt gây khó khăn trong quá trình thành lập doanh nghiệp có ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Muốn kinh doanh những ngành, nghề có điều kiện phải trải qua nhiều cơ quan để xin phép. Chính những điều này đã dẫn đến tốc độ cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp của Việt Nam còn chậm so với nhiều quốc gia trên thế giới. dẫn đến việc thực hiện các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục còn nhiều vướng mắc, nhiều quy định chung chung, thiếu tính cụ thể, chưa hợp lí với thực tiễn.
2.1.2.3. Quy định về dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung hạn hoặc dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định
Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam là tập hợp các đề xuất bỏ vốn của các nhà đầu tư để tiến hành các hoạt động đầu tư. Các đề xuất bỏ vốn này được thực hiện dưới hình thức các kế hoạch trung hạn và dài hạn của các nhà đầu tư để triển khai các hoạt động đầu tư.
Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư đối với ngành công nghiệp hỗ trợ được thực hiện triển khai trong một dự án thể hiện những tính toán chủ quan của các nhà đầu tư nước ngoài ở thời điểm hiện tại, được thực hiện ở trong tương lai phải đảm bảo được các tiêu chí sau:
Thứ nhất: Trong kế hoạch đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ, nhà đầu tư nước ngoài phải có kế hoạch về tài chính, để thực hiện dự án đầu tư được tính toán về nguồn vốn đầu tư, thực hiện dự án, cách thức sử dụng nguồn vốn trên từng lĩnh vực công nghiệp phụ trợ mà nhà đầu tư lựa chọn. Bởi lẽ, các nhà đầu tư không thể thực hiện được ý tưởng đầu tư và duy trì được sự tồn tại của dự án đầu tư, không có nguồn vốn để triển
khai các hoạt động kinh doanh, trả cho tiền công cho người lao động, đảm bảo quy mô kinh doanh.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp vốn đầu tư gồm tiền và tài sản khác theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ hai: Dự án đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ phải được xây dựng theo hình thức đầu tư được pháp luật quy định, được xác định tại địa điểm cụ thể và trong một khoảng thời gian nhất định, từ khi bắt đầu thực hiện dự án đến khi kết thúc dự án.
Về hình thức đầu tư của dự án đầu tư phải được thực hiện thông qua các hình thức đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện, khả năng tài chính, nhu cầu của từng chủ đầu tư.
Đối với ngành công nghiệp phụ trợ, nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn hình thức đầu tư trực tiếp thành lập tổ chức kinh tế: Nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế phù hợp với tất cả loại hình tổ chức kinh tế. Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Khoản 1 Điều 22).
Hoặc lựa chọn góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài. Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 51%, nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế.
Ở hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp thì NĐT nước ngoài khẳng định quyền của nhà đầu tư trong việc góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp và trên cơ sở đáp ứng các điều kiện, thủ tục được quy định cụ thể tại Luật này. Doanh nghiệp nhận vốn góp hoặc bán cổ phần, phần vốn góp cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Thứ ba, xác định địa điểm đầu tư: Khi triển khai dự án đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ, nhà đầu tư nước ngoài phải xác định địa điểm đầu tư để khi xem xét dự án đầu tư đó có được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư của nhà nước hay không? Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định, vùng miền cần phát triển kinh tế – xã hội thì Nhà nước phải cam kết tạo các điều kiện thuận lợi về lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư như đươc hưởng ưu đãi về thuế, ưu đãi về chính sách đất đai, các hỗ trợ đầu tư (hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào dự án đầu tư công nghệ hỗ trợ.
Thứ tư: Xác định thời gian đầu tư: Do tính chất đặc thù, ngành công nghiệp hỗ trợ là những ngành sản xuất các sản phẩm đầu vào, gồm: Các sản phẩm, hàng hóa trung gian; Các sản phẩm, hàng hóa phục vụ quá trình sản xuất. Thời gian đầu tư là trung hạn hoặc dài hạn. Vì thế các tập hợp đề xuất về việc đầu tư vốn có thời hạn từ 12 tháng trở lên.
Ngoài ra, thời gian tối đa của dự án đầu tư không chỉ phụ thuộc vào ý chí của nhà đầu tư mà còn phụ thuộc vào quy định của pháp luật về đầu tư, đất đai. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
VD: Thời hạn hoạt động của dự án đầu tư trong khu kinh tế thông qúa 70 năm, thời hạn hoạt động của dự án đầu tư ngoài khu kinh tế không qúa 50 năm, trừ những trường hợp đặc biệt thì thời hạn hoạt động của dự án đầu tư có thể dài hơn nhưng không qúa 70 năm.
Ngành công nghiệp hỗ trợ, thường thực hiện thời gian trung và dài hạn, phù hợp với tính chất của hình thức đầu tư cụ thể, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường đầu tư.
VD: Việt Nam đặt mục tiêu phát triển nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành da giày, đáp ứng mục tiêu đến năm 2025, tỷ lệ cung cấp trong nước của công nghiệp hỗ trợ ngành da giày đạt 75 – 80%, với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao phục vụ sản xuất xuất khẩu. Da giày được xác định là một trong các ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước; có sản phẩm chất lượng, cạnh tranh trên thị trường thế giới, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước; giữ vững vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia sản xuất và xuất khẩu sản phẩm da giày hàng đầu thế giới.
Mục tiêu đến năm 2030, tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép, túi xách đạt 38-40 tỷ USD. Đến năm 2035, ngành sẽ phát triển hiệu quả và bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất trong nước; tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển được một số thương hiệu tầm khu vực và thế giới.
VD: Trong bối cảnh thế giới và khu vực đang ảnh hưởng lớn tới nhiều ngành sản xuất nói chung và ngành sử dụng chip bán dẫn và ngành công nghiệp ô tô nói riêng. So với các nước trong khu vực, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng cho các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Nhiều hãng sản xuất ôtô lớn trên thế giới như: Toyota, Honda, Ford, Hyundai… đã đầu tư nhà máy lắp ráp tại Việt Nam, kéo theo chuỗi các nhà sản xuất nước ngoài cung ứng linh kiện phụ tùng cho ngành công nghiệp ôtô đầu tư vào Việt Nam.
2.1.2.3. Quy định về quy trình, thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam
Thủ tục đầu tư là việc các chủ thể (nhà đầu tư, cơ quan nhà nước) phải tiến hành một công việc theo một trình tự được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật để việc triển khai đầu tư hợp pháp.
Thủ tục đầu tư là quy định để hiện thực hoá quyền tự do kinh doanh, tiến hành hoạt động đầu tư của nhà đầu tư là căn cứ pháp lý để phân định thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi phải nhằm đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và xã hội. Quy trình về thủ tục đầu tư gồm các nội dung: (i) Thủ tục chấp thuận, chủ trương đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ và (ii) Thủ tục cấp; điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ nhất: Thủ tục chấp thuận, chủ trương đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ
Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp đối với ngành công nghiệp phụ trợ trên dự án đầu tư để xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước chấp thuận chủ trương đầu tư. Theo quy định của Luật đầu tư các cơ quan quản lý nhà nước được phân cấp khác nhau về quản lý hành chính hành nước đối với ngành công nghiệp phụ trợ. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền của mình lựa chọn những nhà đầu tư có năng lực và nâng cao tính khả thi hiện thực hoá các dự án đầu tư đúng tiến độ, có hiệu quả.
Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư được quy định tại Điều 30,31 và 32 Luật đầu tư năm 2020. Theo đó, đối với các dự án đầu tư ngành công nghiệp phụ trợ quan trọng nhất sẽ do Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư.
VD: Nhà máy điện hạt nhân, dự án đầu tư có yêu cầu di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở vùng khác, dự án đầu tư có yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
VD: Dự án đầu tư chế biến dầu khí; Dự án đầu tư có yêu cầu di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng khác; đó là các dự án quan trọng do Thủ tướng Chính Phủ chấp thuận chủ trương đầu tư.
Hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư là những giấy tờ, tài liệu thể hiện dự định thực hiện dự án đầu tư, các giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của nhà đầu tư, năng lực tài chính của họ và các để xuất dự án đầu tư, các giải trình khác có liên quan đến dự án đầu tư.21
Ngành công nghiệp phụ trợ là ngành đặc thù nên trong đề án phải giải trình rõ về mục tiêu, quy mô, vốn đầu tư, địa điểm, thời hạn đầu tư, đánh giá các hiệu quả dự án đầu tư đến môi trường, kinh tế – xã hội; nhu cầu về sử dụng đất…Để lập được đề xuất dự án đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài phải tìm hiểu, tiến hành khảo sát, đánh giá toàn diện về môi trường đầu tư, địa điểm đầu tư, tình hình an ninh, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư, sự phát triển kinh tế, hạ tầng giao thông, quy hoạch về đất đai, mức sống, thu nhập của người dân và trình độ dân trí, nguồn lực lao động (số lượng; chất lượng); điều kiện địa lý, tài nguyên, lợi thế của địa điểm đầu tư, nhu cầu thị trường.
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( đối với các dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ)
Sở kế hoạch và Đâu tư tiếp nhận hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất; khu công nghệ cao, khu kinh tế, dự án đầu tư được thực hiện đồng thời cả trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất,…. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Ban quản lý các khu công nghiệp; khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế tiếp nhận hồ sư đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
- Xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ của nhà đầu tư nước ngoài
Đối với các dự án ngành công nghiệp phụ trợ thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan tiếp nhận hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ lấy ý kiến của các cơ quan nhà nước có liên quan và lập báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để xem xét có chấp thuận chủ trương đầu tư hay không?
Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước để tổ chức thẩm định hồ sơ và lập báo cáo thẩm định hồ sơ và lập báo cáo thẩm định để trình Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án công nghiệp hỗ trợ.
Luật đầu tư năm 2020 quy định phân cấp, phân công về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư chính là thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước về dự án đầu tư nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung đặt ra yêu cầu cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc của cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
- Trình tự, thủ tục cấp điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án công nghiệp phụ trợ
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có ý nghĩa pháp lý là công nhận sự ra đời hợp pháp của dự án đầu tư. Quy định về thủ tục Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được thiết kế thành các quy định về:
(i).Nguyên tắc tiếp nhận hồ sơ đăng ký đầu tư và giải quyết thủ tục liên quan đến cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và giải quyết thủ tục liên quan đến cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
(ii). Các trường hợp phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (iii). Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
(iv). Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
(v). Mối quan hệ giữa thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và thủ tục chấp nhận chủ trương đầu tư (nếu có) và thời điểm tiến hành dự án đầu tư.
Hoạt động đầu tư ngành công nghiệp phụ trợ đối với đầu tư nước ngoài đều phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được quy định tại Điều 37 Luật đầu tư năm 2020.
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
- Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài quy định, trong đó nhà đầu tư nước ngoài (hoặc/và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với công ty hợp danh.
- Dự án đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế. Đối với đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp cuả tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định tại Luật đầu tư năm 2020. Thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế và/hoặc thực hiện thủ tục thay đổi thành viên, cổ đông theo quy định của pháp luật tương ứng với từng loại hình tổ chức kinh tế.
Trong xu thế cải cách thủ tục hành chính, quy định về các trường hợp phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trở nên đơn giản và phù hợp hơn với tính chất dự án đầu tư trực tiếp đối với ngành công nghiệp phụ trợ. Điều này đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà đầu tư với lợi ích của quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
2.2.1. Những kết quả đạt được Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ nhất, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn được Nhà nước quan tâm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Trong hơn 30 năm qua, từ khi có Điều lệ Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1977, chúng ta đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung pháp luật ĐTNN. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ĐTNN, đồng thời biểu hiện sự cạnh tranh quyết liệt về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ đã có quy định mới, phù hợp với cơ chế thị trường. Trong Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1987, lần đầu tiên Nhà nước ta đã thể hiện thái độ rõ ràng: “Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa” đồng thời quy định nhiều biện pháp bảo đảm đầu tư làm yên lòng nhà ĐTNN. Cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc ban hành nhiều quy định mới phù hợp với xu thế phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ hiện hành được đánh giá là thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, được các nhà ĐTNN chấp nhận.
Thứ tư, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ đã góp phần thiết lập môi trường pháp lý bình đẳng cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, Luật bảo đảm quyền của nhà ĐTNN trong việc tiếp cận bình đẳng cơ hội đầu tư và các nguồn lực đầu tư; tiếp cận các thông tin về pháp luật, chính sách, các dữ liệu cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ đã góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ chế bảo hộ đầu tư theo hướng Nhà nước cam kết thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm bảo hộ mọi loại tài sản hợp pháp của nhà đầu tư, kể cả quyền sở hữu trí tuệ; cam kết không quốc hữu hóa, trưng thu tài sản của nhà đầu tư một cách trực tiếp hay gián tiếp trừ trường hợp vì mục đích công cộng, theo thủ tục luật định và bồi thường một cách thỏa đáng.
Thứ sáu, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ đã tạo cơ sở pháp lý cho việc cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư theo hướng áp dụng phổ biến chế độ đăng ký thay cho chế độ cấp phép, xóa bỏ những quy định xin cho, phê duyệt bất hợp lý nhằm nâng cao vai trò chủ động, tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư trong quyết định đầu tư và tổ chức thực hiện dự án đầu tư.
Thứ bảy, pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ đã góp phần đổi mới vai trò và chức năng của nhà nước trong quản lý hoạt động đầu tư, kinh doanh theo hướng giảm, tiến tới loại bỏ sự can thiệp hành chính không cần thiết, đồng thời tăng cường vai trò cũng như năng lực của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để thị trường phát triển và đạt hiệu quả cao. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Việc đồng ý để Chính phủ quyết định các chính sách ưu đãi đặc biệt là một động thái chính sách mang tính chất bước ngoặt quan trọng trong việc nhanh chóng tạo các lợi thế quan trọng trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh năng động trong khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài và trong nước trong công cuộc phát triển bền vững nền kinh tế.
2.2.2. Những hạn chế tồn tại
- Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư
Thứ nhất, vấn đề phân cấp quản lý Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Có thể nói, thực hiện phân cấp quản lý Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một sự thay đổi quan trọng trong điều chỉnh hệ thống quản lý tại Việt Nam kể từ khi bắt đầu thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là cách thức nhằm giảm thiểu sự tập trung quá mức quyền lực vào một cơ quan quản lý nhà nước duy nhất, dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, độc đoán cũng như làm giảm tính năng động và mức độ tự chủ của các địa phương.
Phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương là đòi hỏi khách quan của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bởi “quản lý là quá trình thu thập và xử lý thông tin để ra quyết định; tính phức tạp của nền kinh tế quốc dân gia tăng đến mức chính phủ trung ương không đủ năng lực tiếp nhận khối lượng khổng lồ các dòng thông tin theo ngành và theo lãnh thổ”. Chính quyền tỉnh, thành phố được giao một số chức năng, quyền hạn vốn thuộc chính phủ, bộ, ngành trung ương để xử lý kịp thời và đúng đắn các vấn đề kinh tế – xã hội của địa phương. Chủ trương phân cấp quản lý nhà nước đối với Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm mục đích tạo thế chủ động, phát huy tính sáng tạo và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý ở địa phương, khai thác và phát huy tối đa lợi thế tự nhiên và xã hội của địa phương từ đó giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại từng địa phương và toàn quốc. Việc Luật đầu tư quy định phân cấp quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đối với ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng đã có tác động tích cực, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu phiền hà, tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư.
Tuy nhiên, hiện nay công tác này chưa được thực hiện tốt, việc phân cấp đầu tư chưa phù hợp với tình hình thực tế, phân cấp đầu tư đại trà, dàn đều chưa tính đầy đủ đến đặc thù của địa phương về năng lực quản lý, trình độ cán bộ, quy mô của nền kinh tế địa phương…
Bên cạnh đó, có hiện tượng tăng cường thu hút đầu tư mà không chú trọng chất lượng, hiệu quả của dự án, không tuân thủ quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ, buông lỏng biện pháp kiểm tra, giám sát, và thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc thực hiện dự án. Nhiều dự án chưa được thẩm tra, xem xét kỹ các khía cạnh công nghệ, lao động, môi trường … dẫn đến chất lượng dự án chưa cao. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ hai, việc ban hành pháp luật và chính sách về đầu tư còn chưa đồng bộ, chưa kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề bức xúc mà thực tiễn hoạt động đầu tư đặt ra. Phần lớn những sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về đầu tư là các biện pháp tình thế, dẫn đến các văn bản pháp luật về đầu tư thiếu tính đồng bộ, mâu thuẫn với nhau và khó áp dụng trong thực tiễn. Mặt khác, sự phối hợp giữa các cơ quan được giao trách nhiệm xây dựng văn bản pháp luật chưa được chặt chẽ, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất giữa pháp luật đầu tư với các đạo luật khác.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nặng về khâu cấp phép:
Việc cải thiện môi trường đầu tư, giảm bớt rào cản về hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước là một trong những mục tiêu quan trọng mà Chính phủ đang hướng tới. Tuy nhiên, hiện nay công tác quản lý nhà nước đối với Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nặng về khâu cấp phép (tiền kiểm) mà chưa tạo ra được cơ chế kiểm soát hiệu quả quá trình tiến hành hoạt động đầu tư (vấn đề “hậu kiểm). Khi số lượng dự án được cấp phép tăng, các vấn đề thực tiễn phát sinh ngày càng nhiều dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình xử lý vướng mắc.
Theo thống kê của Sở kế hoạch và đầu tư, đã có hàng chục dự án ở các địa phương mà chủ đầu tư không còn hoạt động tại trụ sở đăng ký, chủ đầu tư bỏ về nước và không thể liên lạc được, thậm chí có trường hợp đã bỏ trốn khỏi Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không trả được nợ, không trả lương cho người lao động và không đóng góp cho ngân sách nên phải đóng cửa, ngừng kinh doanh. Mặt khác cũng xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thiếu lành mạng nhằm mục đích trục lợi để huy động vốn nên đã bỏ về nước sau khi đạt được mục đích.
Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh nhận định rằng nguyên nhân chính của tình trạng trên là do thủ tục chấm dứt hoạt động, thanh lý, giải thể doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam còn phức tạp, mất thời gian và tốn chi phí nên nhiều nhà đầu tư từ bỏ về nước, không thực hiện các thủ tục để chấm dứt hoạt động doanh nghiệp. Điều này dẫn đến nhiều thiệt hại cho người lao động, đối tác trong nước và thất thu thuế nhà nước.
Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, một số nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước để nhập vào nước ta một số máy móc, thiết bị có công nghệ lạc hậu, chất thải công nghiệp. Điều này không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi như: Nâng khống giá trị góp vốn, giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, quảng cáo… tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định pháp luật cụ thể về quy trình, điều kiện, thủ tục xử lý thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với những doanh nghiệp có vi phạm pháp luật như không thực hiện nghĩa vụ báo cáo thống kê, không thực hiện đúng nội dung đầu tư… dẫn đến khó khăn trong phối hợp quản lý và xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp này.
Thứ tư, tình trạng thiếu thông tin về FDI
Các ngành, cơ quan nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương hiện nay đều chỉ trông cậy vào báo cáo tổng hợp của Cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư với những số liệu cộng gộp các báo cáo về vốn đăng ký, vốn thực hiện, xuất khẩu, nhập khẩu… Gần như không có sự liên thông cần thiết giữa các cơ quan quản lý về đầu tư, thuế, lao động – xã hội… trong cùng địa phương và giữa các địa phương với trung ương.
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
2.3.1. Thực tiễn chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại tỉnh Bình Dương đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ
Đặc điểm tự nhiên: Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, diện tích tự nhiên 2.695,2 km2(chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/61 về diện tích tự nhiên) Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước. Phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh; Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai; Phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy khá hoàn chỉnh nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Trong hệ thống đường bộ, nổi lên là Quốc lộ 13 – con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía Nam lên phía Bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối với Vương quốc Campuchia, từ đó có thể đến Thái Lan và Lào. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế.Quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) xuyên suốt vùng Tây Nguyên bao la, là con đường chiến lược của đất nước.
Về hệ thống giao thông đường thủy, nhờ hai dòng sông Sài Gòn và Đồng Nai, Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía Nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Với địa thế của mình, Bình Dương được coi là tỉnh có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị. Nhiều chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển kinh tế – xã hội tạo động lực phát triển cho tỉnh.
Tuy vậy, hiện nay các tỉnh thành trong toàn quốc đang có sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài; hàng loạt các khu công nghiệp, khu kinh tế… mọc lên ngày càng nhiều. Một số tỉnh đã rất thành công trong việc thu hút FDI như Bắc Ninh, Đồng Nai, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Giang… và hầu hết các khu công nghiệp trong những tỉnh này đã được lấp đầy, không còn chỗ trống. Việc cạnh tranh để thu hút nguồn vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bình Dương là một thách thức lớn được đặt ra đối với những nhà cầm quyền của tỉnh Bình Dương, đòi hỏi đặt ra những chính sách nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào tỉnh. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
- Thực tiễn ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Dương:
Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh thực hiện theo quy định Luật đầu tư, Luật thuế, Luật đất đai và Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật theo cơ chế, đặc thù.
Việc xây dựng chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở tỉnh Bình Dương đã áp dụng chặt chẽ mô hình quy trình xây dựng chính sách. Sau khi tách ra từ tỉnh Sông Bé vào năm 1997, Bình Dương thời điểm đó vẫn là một tỉnh thuần nông, việc quản lý, khai thác nguồn tài nguyên đất đai, lao động hiệu quả chưa cao; kết cấu hạ tầng chưa hoàn thiện; kinh tế quốc doanh chưa mạnh;… Nhận thấy, con đường phát triển chỉ dựa vào vốn nhà nước và nông nghiệp là không hiệu quả, chính quyền tỉnh Bình Dương mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, gắn với phát triển văn hóa – xã hội, trở thành đô thị hiện đại, văn minh, giàu đẹp. Vì vậy, thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước trở thành lựa chọn mang lại lợi ích phát triển kinh tế cao nhất đối với chính quyền tỉnh Bình Dương.
Trên cơ sở báo cáo số liệu thống kê về tình hình kinh tế các năm, tỉnh Bình Dương đặc biệt chú trọng lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp trên địa bàn và những chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, tham khảo những mô hình thu hút đầu tư thành công ở các quốc gia trên thế giới. Điều này không những phù hợp với quy trình, mà trên thực tế cách làm này còn cụ thể, toàn diện hơn, giúp chính quyền địa phương xây dựng chính sách đảm bảo tính khoa học và thực tiễn.
Trong thời gian qua, chính quyền tỉnh Bình Dương đã luôn nhận thức và nhất quán quan điểm để phát triển cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với khai thác có hiệu quả các lợi thế về thiên thời, địa lợi, nhân hoà của tỉnh, thông qua việc cụ thể hóa trong từng chủ trương, chỉ đạo, điều hành đến các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển của từng ngành, từng cấp. Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VI (năm 1997) đã đưa ra chủ trương “Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, phát huy mạnh hơn nữa các lợi thế địa lý, nguồn lực, tiềm năng trong dân, các doanh nghiệp trong tỉnh, thu hút mạnh các nguồn lực ngoài tỉnh và nước ngoài, tạo động lực phát triển; hình thành kinh tế mở, mở rộng các quan hệ với bên ngoài; phát huy tối đa các nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp”. Điểm đặc biệt trong việc hoạch định chính sách thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là, Bình Dương đã thiết lập và xây dựng một chính sách thu hút rất năng động và linh hoạt, tạo cơ chế thông thoáng để thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hàng năm, tỉnh Bình Dương đều tổ chức đối thoại trực tiếp theo từng nhóm doanh nghiệp gồm: Doanh nghiệp Hàn Quốc, doanh nghiệp sử dụng tiếng Anh, doanh nghiệp Nhật Bản, doanh nghiệp Đài Loan, các hiệp hội,… Trước các buổi đối thoại, chính quyền tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành, các cấp sẽ tập hợp các ý kiến, kiến nghị, cũng như đóng góp của doanh nghiệp.
Đối với những câu hỏi liên quan đến sở ngành nào thì sẽ được đơn vị đó trả lời cụ thể, rõ ràng. Tại buổi đối thoại, những vấn đề mà doanh nghiệp thắc mắc sẽ được lãnh đạo tỉnh trực tiếp trả lời ngay tại chỗ, góp phần quan trọng giải quyết nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở Bình Dương có 3 cơ quan xét cấp phép các dự án đầu tư, đó là: Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương, Ban quản lý các khu công nghiệp Bình Dương, Ban Quản lý khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (VSIP). Các nhà đầu tư khi đến Bình Dương chỉ cần liên hệ tại cơ quan đầu mối (1 trong 3 nơi này) để được hướng dẫn giải quyết các thủ tục về đầu tư. Đặc biệt, trước ảnh hưởng của đại dịch Covid 19, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương luôn đồng hành, chia sẻ khó khăn cùng các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Và trong thời gian tới, tỉnh cũng chủ trương sẽ tiếp tục quan tâm cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp quay trở lại hoạt đọng và phát triển ổn định sau đại dịch Covid – 19. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X về đổi mới trong thu hút các nguồn đầu tư đưa vào sản xuất – kinh doanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, trong giai đoạn 2016- 2020 và Chương trình số 34-CTr/TU về đổi mới thu hút đầu tư trong giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương ban hành ngày 15/12/2016, Tỉnh ủy Bình Dương đặt mục tiêu tập trung thu hút đầu tư vào các đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới; tăng cường kêu gọi, thu hút đầu tư FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, ít thâm dụng lao động, thân thiện với môi trường; tập trung thu hút vào các khu, cụm công nghiệp đã được quy hoạch.
Ngoài ra, còn kết hợp hướng tiếp cận “từ dưới lên trên” khai thác sự tương tác giữa cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, thể hiện rõ nét trong việc thực hiện thành công chính sách “trải thảm đỏ thu hút đầu tư” tạo nên một ấn tượng sâu sắc khi các nhà đầu tư đến Bình Dương. Tiếp nối thành công trên, những năm gần đây, Tỉnh đã xây dựng chính sách “chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp” tiếp tục cam kết đồng hành cùng các nhà đầu tư, đồng thời, mong muốn doanh nghiệp đồng hành cùng chính quyền tỉnh trong việc tìm ra những giải pháp cụ thể, khắc phục các vướng mắc, khó khăn, nhằm giải quyết từng vấn đề cấp bách và lâu dài để phát triển kinh tế, xã hội.
Chính sách thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương là một trong những ví dụ điển hình cho một chính sách thành công. Chính quyền đã đi theo các bước trong quy trình xây dựng chính sách và có điều chỉnh cho phù hợp với tình hình tại địa phương.
Đánh giá chung tình hình thu hút FDI vào tỉnh Bình Dương
Tỉnh Bình Dương có xuất phát điểm ban đầu với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, đã chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là hội nhập quốc tế với nhiều chủ trương, chính sách sáng tạo. Trong đó, chính sách thu hút FDI là chính sách nổi bật và mang lại hiệu quả tích cực, góp phần làm cho Bình Dương trở thành một trong những trung tâm phát triển năng động của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong những điểm sáng trong “tứ giác kinh tế phát triển”. Bình Dương hiện đứng thứ 2 cả nước về thu hút FDI, đồng thời, là một trong những địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất của cả nước (82%) với 3 thành phố và 2 thị xã và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về vốn, về định hướng đầu tư, tạo sự chuyển biến về chất lượng dự án theo định hướng hiện đại.
Khu vực FDI đã tạo ra việc làm cho hơn 500.000 lao động, chiếm 40% tổng số lao động trên địa bàn tỉnh, trực tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trên đầu người tăng lên hàng năm. Các nhà đầu tư đến từ 65 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều có mặt tại Bình Dương. Đây là những cơ sở cần thiết cho sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trong giai đoạn mới, vì vậy khi phân tích chính sách này sẽ rút ra các yếu tố tối ưu nhằm chia sẻ cho các tỉnh thành khác trong cả nước tham khảo, học tập và xây dựng chính sách thu hút FDI hiệu quả, phù hợp cho từng địa phương. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Nổi bật có một số dự án FDI lớn, như Dự án cung cấp dịch vụ internet do Tập đoàn NTT (Nhật Bản), 2 dự án kinh doanh dịch vụ logistics, bất động sản công nghiệp do Tập đoàn Tài chính Warburg Pincus liên doanh với Becamex IDC đầu tư tại KCN Bàu Bàng và KCN Mỹ Phước 3… để thu hút nhiều dự án FDI tỉnh Bình Dương đã xây dựng chiến lược rất cụ thể với nhiều chủ trương, chính sách và cách làm sáng tạo nhằm mang lại thuận lợi tốt nhất cho các nhà đầu tư như: KCHT hiện đại, được kết nối đồng bộ. Thủ tục hành chính thường xuyên được rà soát và đơn giản hóa, góp phần tạo lập hệ thống hỗ trợ kinh doanh. Cụ thể: tỉnh xác lập ba đầu mối tiếp nhận hồ sơ: trong KCN, thuộc thẩm quyền xét duyệt của Ban quản lý các KCN, Ban quản lý VSIP; bên ngoài KCN, thuộc thẩm quyền của Sở Kế hoạch-Đầu tư. Thời gian cấp phép đầu tư và trả lời kết quả dự án đã được rút xuống còn 1/3 so với quy định của Trung ương. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài ưu tiên lựa chọn Bình Dương còn vì lý do chính sách thu hút đầu tư của tỉnh luôn ổn định, rành mạch và dễ dự báo cũng như tình hình an ninh, trật tự luôn ổn định.
Đây là một trong những tiêu chí ưu tiên lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn kinh tế lớn và uy tín trên thế giới.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần trên toàn tỉnh đạt 2 tỷ 527 triệu đô la Mỹ, bằng 180% so với cùng kỳ năm 2021. Bao gồm:
- 30 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đầu tư là 1 tỷ 786 triệu đô la Mỹ, bằng 407% so với cùng kỳ năm 2021;
- 12 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 16,6 triệu đô la Mỹ;
- 82 lượt dự án đăng ký góp vốn, mua cổ phần với tổng giá trị góp vốn là 724,2 triệu đô la Mỹ, bằng 382% về vốn so với cùng kỳ năm 2021.
Theo địa bàn đầu tư:
Trong các khu công nghiệp thu hút 25 dự án đầu tư mới, 23 dự án đăng ký góp vốn, mua cổ phần với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1 tỷ 774 triệu đô la Mỹ, bằng 135% so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 70% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Bên ngoài các khu công nghiệp thu hút 5 dự án đầu tư mới, 12 dự án điều chỉnh tăng vốn, 59 dự án đăng ký góp vốn, mua cổ phần với tổng vốn đầu tư đăng ký là 753,2 triệu đô la Mỹ, bằng 829% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Theo lĩnh vực đầu tư: Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 22 dự án đầu tư đăng ký mới, 10 lượt dự án điều chỉnh vốn và 43 lượt dự án đăng ký góp vốn, mua cổ phần với tổng số vốn đầu tư là 1 tỷ 545 triệu đô la Mỹ, chiếm 61,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký 964 triệu đô la Mỹ, chiếm 38,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 12,5 triệu đô la Mỹ, chiếm 0,5% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Theo đối tác đầu tư:
Trong 6 tháng đầu năm 2022, có 18 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Bình Dương. Đan Mạch đứng đầu với với tổng vốn đầu tư đăng ký 1 tỷ 318 triệu đô la Mỹ, chiếm 52,2% tổng vốn đầu tư; Hà Lan đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký 608 triệu đô la Mỹ, chiếm 24,1% tổng vốn đầu tư; Trung Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 257 triệu đô la Mỹ, chiếm 10,2% tổng vốn đầu tư; tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông,…
Thu hút đầu tư nước ngoài lũy kế đến nay:
Lũy kế đến nay, Bình Dương đứng thứ 2 cả nước (sau thành phố Hồ Chí Minh) về thu hút vốn đầu tư nước ngoài với 4.053 dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 39,55 tỷ đô la Mỹ, chiếm hơn 9,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài cả nước. Quy mô trung bình dự án khoảng 9,8 triệu đô la Mỹ.
Theo lĩnh vực đầu tư:
Đứng đầu là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo gồm 3.508 dự án đầu tư đăng ký mới với tổng số vốn đầu tư là 29 tỷ đô la Mỹ, chiếm 73,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký 7 tỷ 360 triệu đô la Mỹ, chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực xây dựng đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 1 tỷ 210 triệu đô la Mỹ, chiếm 3,1% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Theo đối tác đầu tư:
Có 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Bình Dương. Trong đó 10 quốc gia và vùng lãnh thổ là Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Samoa, Hàn Quốc, B.V.I, Hồng Kông, Cayman Islands, Trung Quốc và Đan Mạch có tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 32,5 tỷ đô la Mỹ, chiếm hơn 82,1% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh. Đài Loan đứng đầu với 859 dự án có tổng số vốn đăng ký hơn 6,27 tỷ đô la Mỹ, chiếm 26% về số dự án và 19% về số vốn. Nhật Bản đứng thứ 2 với 333 dự án, tổng vốn đăng ký là 5,86 tỷ đô la Mỹ, chiếm 10% về số dự án và 18% về số vốn. Singapore đứng thứ 3 với 277 dự án, tổng vốn đăng ký là 5,4 tỷ đô la Mỹ, chiếm 8% về số dự án và 17% về số vốn. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Số vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng qua các năm (năm 2016 là 25 tỷ 987 triệu đô la Mỹ; năm 2017 là 28 tỷ 577 triệu đô la Mỹ; năm 2018 là 32 tỷ 308 triệu đô la Mỹ; năm 2019 là 34 tỷ 336 triệu đô la Mỹ; năm 2020 là 35 tỷ 502 triệu đô la Mỹ; năm 2021 là 37 tỷ 735 triệu đô la Mỹ; 6 tháng đầu năm 2022 là 39 tỷ 556 triệu đô la Mỹ), tập trung chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 3.508 dự án với tổng 29 tỷ đô la Mỹ, chiếm 73,3% tổng vốn đăng ký.
Có thể thấy, trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được thúc đẩy, khai thác triệt để các nguồn lực địa phương, các dự án có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng dần qua các năm, qua các thời kỳ, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong thu hút FDI, thì quá trình thu hút nguồn vốn này vào Bình Dương còn một số hạn chế như liên kết và hiệu ứng lan tỏa năng suất của khu vực FDI đến khu vực trong nước còn thấp, nhiều dự án FDI tập trung vào công đoạn gia công, lắp ráp; tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp ở mức dưới trung bình; chuyển giao công nghệ thông qua FDI chưa đạt kết quả như kỳ vọng; số dự án đầu tư nước ngoài ở ngành sử dụng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn chưa nhiều; Một số doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật bảo vệ môi trường; một số doanh nghiệp FDI có hành vi chuyển giá, thiếu trung thực trong báo cáo tài chính.
2.3.2 Một số ngành công nghiệp hỗ trợ có sự tham gia đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tiêu biểu tại tỉnh Bình Dương. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
2.3.2.1. Ngành công nghiệp hỗ trợ xe máy
Trong thời gian vừa qua, nhờ thực hiện những chính sách thu hút đầu tư vốn nước ngoài mà ngành công nghiệp hỗ trợ xe máy tại tỉnh Bình Dương đã có nhiều khởi sắc. Năm 2012, cả nước có 18 DN FDI (Bình Dương chiếm 3/18 doanh nghiệp) đầu tư vào lĩnh vực Công nghiệp hỗ trợ ngành SX xe máy, đa số các công ty có vốn từ Nhật Bản chiếm tỷ lệ lớn (88%) trong tổng số các công ty FDI SX phụ tùng linh kiện xe máy. Những năm gần đây, việc thu hút DNNVV của Nhật Bản vào để phát triển Công nghiệp hỗ trợ ngành SX xe máy đã và đang được quan tâm, tạo điều kiện. Tính đến năm 2022, cả tỉnh có 109 doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ xe máy.
2.3.2.2 Ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp oto Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thời gian qua năng lực ngành Công nghiệp hỗ trợ của tỉnh đã được cải thiện đáng kể, tuy vậy mới chỉ đáp ứng được từ 10-20% cho sản xuất, lắp ráp ô tô dưới 9 chỗ; Bình Dương định hướng thời gian tới sẽ thu hút đầu tư công nghệ cao và hiện nay đã tập trung nhiều giải pháp thông qua đề án “thành phố thông minh”, trong đó việc hình thành một khu công nghiệp cơ khí hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng để giúp cộng đồng doanh nghiệp trong nước lớn mạnh, tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Khu công nghiệp cơ khí hỗ trợ tại Bình Dương không chỉ gói gọn trong lĩnh vực công nghiệp ô tô mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ khác.
Khu công nghiệp cơ khí còn “mở rộng cửa” cho các đối tác, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ để đẩy mạnh hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, tạo sự lan tỏa, cùng phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp. Việc hình thành khu công nghiệp cơ khí hỗ trợ sẽ đảm bảo được nguồn nguyên liệu, tránh phụ thuộc dẫn đến bị động như thời gian qua. Vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương thông tin, địa phương đã ký biên bản ghi nhớ với Công ty cổ phần tập đoàn Trường Hải (THACO) về việc triển khai xây dựng một khu công nghiệp cơ khí hỗ trợ. Tổng mức đầu tư dự án dự kiến khoảng 26.000 tỷ đồng.
Theo đó, bắt đầu từ năm 2023, THACO sẽ tập trung các nguồn lực để nghiên cứu dự án và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương sẽ tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các thủ tục đầu tư xây dựng dự án theo thẩm quyền của tỉnh và pháp luật Việt Nam.
2.3.2.3 Ngành công nghiệp hỗ trợ điện tử Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Năm 2017, toàn tỉnh chỉ có 3 doanh nghiệp FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 177,6 triệu USD đối với ngành công nghiệp hỗ trợ điện tử, nhưng đến hết tháng 6 năm 2020, đã có 864 dự án FDI được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh 11,9 tỷ USD. Trong đó giai đoạn 2016-2020, thu hút 644 dự án và 9,3 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 74,5% về dự án và chiếm 78,2% về vốn đăng ký. Đến nay, đã có hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh Bình Dương
Một thực tế dễ dàng nhận ra rằng, hiện nay ngoài tỉnh Bắc Ninh thì Bình Dương cũng đang rất thành công trong việc thu hút được nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là ngành điện tử, nhưng lại thiếu đi một chính sách, đường lối phù hợp, để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực điện tử nhằm tăng trưởng xứng tầm với nguồn vốn đã thu hút được.
Ngoài ra, Việt Nam nói chung và Bình Dương nói riêng là điểm hấp dẫn của dòng vốn FDI trong ngành công nghiệp điện tử, song nước ta cũng đang vấp phải không ít thách thức như công nghiệp điện tử mới dừng ở mức độ gia công, doanh nghiệp hoạt đông trong ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp điện tử trong nước chưa đóng góp nhiều trong chuỗi cung ứng hàng điện thử. Sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài về kỹ thuật là thách thức lớn nhất đối với sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam.
Ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp điện tử chiếm đến 80% giá trị của ngành công nghiệp điện tử, chính vì thế các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghiệp điện tử luôn mong tại nước sở tại có được hệ thống các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ điện tử đủ mạnh, đáp ứng được các yêu cầu về mẫu mã, số lựng, chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng… Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến Việt Nam là bởi vấn đề nhân công rẻ mà không phải vì tiềm năng về hệ thống các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ điện tử. Điều này dẫn đến dần dần các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp điện tử sẽ rút về nước, chuyển hướng đầu tư sang nước khác.
Việt Nam hiện nay mới chỉ đang ở bậc cuối của các nấc thang Công nghiệp hỗ trợ CNĐT, tức mới chỉ gia công các chi tiết giản đơn, sản xuất và đóng gói bao bì, còn các khâu khác như cung cấp linh kiện, cấu kiện, tiền lắp ráp đều đang thuộc về các doanh nghiệp FDI, hoặc các doanh nghiệp khu vực hạ nguồn phải nhập từ nước ngoài, chính vì thế tỷ lệ nội địa hóa là vô cùng thấp, khâu tạo giá trị gia tăng lớn cho sản phẩm chưa có sự góp mặt của các doanh nghiệp Việt Nam
2.2.3.4 Ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Hiện trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 2.277 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các sản phẩm Công nghiệp hỗ trợ, trong đó ngành dệt may có 442 doanh nghiệp, da giày 172 doanh nghiệp. Mặc dù, thời gian qua năng lực ngành Công nghiệp hỗ trợ của tỉnh đã được cải thiện đáng kể, tuy vậy mới chỉ đáp ứng được từ 40-45% cho ngành dệt may, da giày. Thêm vào đó, nguồn cung nguyên, phụ liệu trong nước vẫn là tiêu chí các DN may mặc xuất khẩu hướng đến, song hiện tỷ lệ đáp ứng vẫn thấp.
Trong khi đó, những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao thì DN đều phải nhập từ nước ngoài mới đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng, nhất là các thương hiệu lớn. Tại Bình Dương, ngành Công nghiệp hỗ trợ những năm qua đã đóng góp một phần không nhỏ vào tăng trưởng ấn tượng của ngành công nghiệp tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, các chiến lược phát triển nguyên phụ liệu cụ thể; đồng thời có cơ chế chính sách ưu đãi thuế quan tốt hơn đối với các dự án đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu và Công nghiệp hỗ trợ mới có thể giải quyết nút thắt về vấn đề quy tắc xuất xứ, giúp doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đang rất hạn chế.
2.4. Đánh giá hành lang pháp lý của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Việt Nam chưa xây dựng được các văn bản pháp quy mang tính đồng bộ, thống nhất. Sự tồn tại bất cập trong thể chế và chính sách cũng còn nhiều đối với việc tiến hành đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Luật Doanh nghiệp 2020 đã có nhiều điều cởi mở hơn đối với quá trình đăng ký kinh doanh và hoạt động các doanh nghiệp, nhiều giấy phép đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại các quy định làm giảm hiệu lực pháp lý của đạo luật này như Luật Thương mại cũng có điều khoản quy định về đăng ký kinh doanh, một số địa phương còn quyết định ngừng đăng ký kinh doanh ở một số lĩnh vực, hệ thống thuế quá phức tạp và không rõ ràng. Công cuộc cải cách hành chính diễn ra chậm, chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp cao, cả về thời gian và chi phí không chính thức đã hạn chế tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp FDI.
Ngoài ra, các hạn chế các quyền về tài sản liên quan đến đất đai, bất động sản và các tài sản vô hình, thiếu các hình thức bảo lãnh tín dụng cũng gây không ít trở ngại cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng chính sách giá, và chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, điện, chi phí lưu thông, giao nhận, cước viễn thông, máy bay, vận tải, chi phí cảng biển cầu đường của Việt Nam cao hơn gấp 2 lần so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn giá vận chuyển một Container 40 feet từ Việt Nam đi Nhật Bản là 1.500USD, gấp 2 lần so với Malaysia, cao hơn 500USD so với Philipin, 600USD so với Ấn Độ, 200USD so với từ Thái Lan.
Chính chi phí kinh doanh cao đang là một trong những nguyên nhân chính hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so vói Jakarta, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần so với Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30USD/container 20 feet, 60USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5USD/m3, phí nâng hạ 300.000 – 360.00đ/container 20 feet, thu phí đường bộ 80.000đ/lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
Hơn nữa, chi phí ngoài hàng rào về hạ tầng chưa được giải quyết kịp thời, thỏa đáng. Các khoản chi phí ngoài luật (tư vấn, đút lót chạy thủ tục, chi phí vô hình cho chờ đợi) không chỉ làm tăng chi phí cho nhà đầu tư mà còn ảnh hưởng xấu tới hình ảnh về đầu tư của Việt Nam. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Chi phí cho đất đai ngày càng tăng: Đất đai ngày càng giá cao, giá đất lớn, đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP. Hồ Chí Minh gấp 4-6 lần Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hường lớn đến thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngoài ra, quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Chính phủ Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất, không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta giảm.
Những phàn nàn của các nhà đầu tư nước ngoài về sự thay đổi không dự báo được của chính sách ở Việt Nam không còn là điều mới mẻ. Có thể cho rằng đây là trả ngại lớn nhất đối với việc thu hút FDI vào Việt Nam. Việt nam vẫn phải nhấn mạnh điểm yếu đã được biết rõ này vì nó có tác động xấu đến sự phát triển của Công nghiệp hỗ trợ. Sự bất ổn của chính sách có 3 đặc tính cơ bản: thiếu trao đổi với giới doanh nghiệp, mục đích của chính sách không rõ ràng; và thực hiện bất ngờ. Chính phủ Việt Nam đã bị phê phán rất nhiều khi bất ngờ thực thi hạn ngạch nhập khẩu linh kiện xe máy năm 2003, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các nhà lắp ráp và các nhà cung cấp linh phụ kiện xe máy. Thuế nhập khẩu đối với ô tô tiếp tục gây ra sự lộn xộn và làm nản lòng các NĐT. Các doanh nghiệp trong và ngoài nước lo ngại rằng Chính phủ vẫn không rút kinh nghiệm từ các vấn đề trên. Họ sợ các vấn đề tương tự sẽ xuất hiện trong tương lai. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Đặc biệt, việc tăng mức lương tối thiểu làm cho phần lớn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật Bản không kịp chuẩn bị vì trước đó chính phủ đã không cung cấp đầy đủ thông tin cho họ. Một số công ty Nhật Bản ở phía Nam còn phải chịu thiệt hại do các cuộc đình công bất ngờ và không chính thức đòi tăng mức lương tối thiểu. Đòi hỏi tăng lương một cách đồng bộ và bắt buộc đã bỏ qua những khác biệt về trình độ lao động.
Các doanh nghiệp sản xuất ô tô và các nhà cung cấp đã bị ảnh hưởng lớn bởi việc cho phép nhập khẩu xe ô tô đã qua sử dụng bắt đầu từ tháng 5 năm 2006. Mục tiêu của chính sách này không rõ ràng. Một số nhà sản xuất tự hỏi liệu có phải chính phủ Việt Nam muốn họ rời khỏi Việt Nam hay không, hay là gây áp lực để họ giảm giá xe ô tô.
Những giải thích về việc cho phép nhập khẩu xe ô tô đã qua sử dụng là cần thiết cho việc gia nhập WTO hoàn toàn không thuyết phục. Các nhà lắp ráp ô tô cố gắng đánh giá tác động của chính sách này trong dài hạn, nhưng việc thực thi cụ thể chưa được đưa ra. Trong khi đó, doanh số bán ô tô đã giảm mạnh ngay sau đó do khách hàng đang chờ đợi giảm giá khiến cho một số dây chuyền đã ngừng sản xuất.
Dưới góc nhìn từ trụ sở chính của các công ty đa quốc gia, các chính sách không ổn định làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào Việt Nam. Ở các công ty đa quốc gia, ban lãnh đạo của công ty ở trụ sả chính sẽ hoạch định chiến lược toàn cầu và các nhà máy tại Việt Nam sẽ hoạt động tuân theo chiến lược toàn cầu đó. Thông thường, các tổng giám đốc ở Việt Nam thường mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh và đóng góp công sức vào quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam, nhưng ban lãnh đạo tập đoàn thường không quá quan tâm tới Việt Nam bởi vì dung lượng thị trường tại Việt Nam rất nhỏ so vói thị trường trong khu vực và trên thế giới. Tổng giám đốc nhà máy tại Việt Nam phải được sự cho phép từ ban lãnh đạo tập đoàn trong các quyết định như mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển sản phẩm mẫu mã mới, xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới và các quyết định khác. Tuy nhiên việc thuyết phục ban lãnh đạo tập đoàn trở nên rất khó khăn khi mà các phương tiện thông tin đại chúng tại nước của họ đưa tin về tình trạng chính sách không ổn định và thiếu nhất quán tại Việt Nam.
Quá trình thực thi Luật Đầu tư 2020 vẫn phát sinh những bất cập, vướng mắc, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của nhà đầu tư và công tác quản lý nhà nước về đầu tư. Cụ thể như: Pháp luật đất đai và pháp luật đầu tư chưa có quy định thống nhất trong việc quyết định chủ trương thực hiện dự án (đối với dự án ngoài ngân sách) với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện; Vướng mắc về thủ tục đầu tư liên quan tại khoản 4 điều 29 Luật Đầu tư quy định và điều 62 (Thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng) và điều 63 (Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng) của Luật Đất đai 2013, Luật Đấu thầu; Vướng mắc giữa Luật Đầu tư 2020 và Luật Nhà ở liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở; Quy định vướng mắc giữa Luật Đầu tư 2020 và Luật Lâm nghiệp liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng.
Có thể nói, nguyên nhân khiến môi trường đầu tư Việt Nam giảm thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu còn cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra, môi trường đầu tư Việt Nam thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Việc tạo dựng môi trường pháp lý cho thu hút dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải chỉ là gói gọn trong khuôn khổ Luật Đầu tư, mà Việt Nam đã đồng thời mở rộng và hoàn thiện khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến đầu tư nước ngoài với việc ký kết trên 50 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các khu vực, các nước và vùng lãnh thổ. Cùng với đó là một số luật quan trọng có liên quan đến hoạt động FDI cũng tiếp tục được bổ sung hoàn thiện như: Luật Đất đai, Luật Thương mại, Bộ luật lao động, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, việc kiểm tra, rà soát những văn bản pháp luật chưa đảm bảo chất lượng, xung đột, chồng chéo để điều chỉnh rất quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư ở Việt Nam.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật về ĐTNN của Việt Nam ngày càng được bổ sung đầy đủ, nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là khá cởi mở, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật về ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, từ đó thu hút sự quan tâm của các nhà ĐTNN. Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách thu hút vốn FDI của Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể như sau:
- Số lượng các văn bản pháp luật về đầu tư còn khá nhiều, nằm rải rác trong các luật và văn bản dưới luật. Tình trạng nợ đọng các văn bản hướng dẫn các luật còn nặng nề. Thậm chí một số quy định được ban hành, nhưng không đồng bộ và còn chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu hiệu lực của nhau. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
- Chất lượng của một số văn bản quy phạm pháp luật chưa được đảm bảo. Các quy định đưa ra thiếu tính thực tiễn, tồn tại nhiều bất hợp lý mà không có hội đồng thẩm định, phản biện một cách nghiêm túc. Tình trạng này gây nhiều khó khăn, phức tạp cho người dân và doanh nghiệp trong trong quá trình áp dụng pháp luật vào việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nhiều quy định pháp luật, nhất là các thông tư do các bộ, ngành ban hành có tính khả thi thấp, chưa có tính hướng dẫn cụ thể, chưa dựa trên các cơ sở thực tiễn pháp lý vững chắc.
- Việc thực thi chính sách còn chậm do vẫn còn tình trạng luật chờ nghị định, thông tư.
- Các văn bản pháp luật về đầu tư không ổn định với sự thay đổi liên tục của chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đất đai, các thủ tục hành chính… khiến doanh nghiệp không dự tính trước được hiệu quả kinh doanh trong trung và dài hạn (Các văn bản pháp luật liên tục được sửa đổi và bổ sung liên quan đến 300 loại giấy phép đầu tư ở Việt Nam; hay Luật ĐTNN năm 1987 được hình thành chỉ trong 9 tháng và sửa đổi 2 lần trong 5 năm, sau đó trung bình cứ 4 năm lại có sự thay đổi hoặc điều chỉnh).
- Năng lực phân tích, dự báo về các quan hệ kinh tế mới, các mô hình, phương thức kinh doanh mới… còn hạn chế.
- Hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số còn chậm thay đổi. Các quy định và hệ thống vẫn sử dụng các giấy tờ lỗi thời, việc thay đổi bằng các giải pháp công nghệ số/trực tuyến còn chậm và hạn chế.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của Luận văn, tác giả đã đi nghiên cứu, phân tích một cách chi tiết nội dung quy định của Luật đầu tư về đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế vướng mắc và thực tiễn áp dụng luật trong thời gian qua. Đồng thời, tác giả còn trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Bình Dương để từ đó đưa ra những khó khăn, vướng mắc làm tiền đề đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao áp dụng pháp luật về vấn đề này tại chương kế tiếp. Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com