Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật việt nam về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Các quy định về phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải gây ô nhiễm môi trường

2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế

Trước đây, Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là tiêu chuẩn môi trường. Điều này không phù hợp quy định tại Điều 3 Luật về Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật 2006: “1. Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này.Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. 2. Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng”. Đến Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã có sự phân biệt quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường. Theo đó tại Khoản 5 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định “Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường”. Còn Tiêu chuẩn môi trường được quy định tại Khoản 6 Điều 3 “là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được các cơ quan nhà nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để bảo vệ môi trường”. So sánh hai khái niệm này có thể thấy rằng quy chuẩn kỹ thuật môi trường do cơ quan có thẩm quyền ban hành và bắt buộc áp dụng trong phạm vi toàn quốc, còn tiêu chuẩn môi trường có thể do cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân ban hành và không mang tính bắt buộc. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Điều 114 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định nguyên tắc xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong đó có nguyên tắc “đáp ứng mục tiêu bảo vệ môi trường; phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường”. Như vậy có thể khẳng định rằng các quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với CTYT là xương sống của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT, là cơ sở để đánh giá hiện trạng môi trường có bị ô nhiễm không, nếu ô nhiễm thì ô nhiễm ở mức độ nào, là căn cứ để xác định và xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường từ đó lập kế hoạch lâu dài cho công tác quản lý, kiểm soát CTYT và đặc biệt là để phòng ngừa ô nhiễm môi trường do CTYT. Đối với các tổ chức, cá nhân, quy chuẩn kỹ thuật môi trường giúp cho họ biết được tác động đến môi trường đến đâu. Bên cạnh đó quy chuẩn kỹ thuật môi trường cũng là căn cứ để các chủ dự án lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng dựa vào đó để tiến hành thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án cũng như cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường…theo quy định của Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường

Cơ quan có thẩm quyền chính trong việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung và Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về các vấn đề liên quan đến chất thải y tế nói riêng là Bộ Tài Nguyên và Môi trường, ngoài ra còn còn có sự tham gia của Bộ y tế và các bộ, ngành liên quan.

Hiện nay đã có một số Quy chuẩn kỹ thuật môi trường được Bộ tài nguyên và Môi trường ban hành liên quan đến chất thải y tế, như:Quy chuẩn quốc gia về nước thải y tế QCVN28:2010/BTNMT; Quy chuẩn quốc gia về lò đốt chất thải rắn y tế QCVN02:2012/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thiết bị hấp chất thải lây nhiễm QCVN 55:2013/BTNMT.

2.1.1.1. Quy chuẩn quốc gia về nước thải y tế QCVN28:2010/BTNMT

Quy chuẩn quốc gia về nước thải y tế QCVN28:2010/BTNMT quy định giá trị tối đa cho phép của các thông số và các chất gây ô nhiễm trong nước thải y tế của các cơ sở khám, chữa bệnh. Quy chuẩn này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động thải nước thải ra môi trường. Nội dung cơ bản của Quy chuẩn là nước thải y tế phải được xử lý và khử trùng trước khi thải ra môi trường; giá trị tối đa của các thông số và các chất gây ô nhiễm trong nước thải y tế khi thải ra nguồn tiếp nhận được Quy chuẩn quy định theo công thức Cmax = C x K Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Quy chuẩn QCVN28:2010/BTNMT cũng liệt kê các phương pháp xác định giá trị các thông số ô nhiễm. Quy chuẩn cũng quy định chấp nhận áp dụng các phương pháp xác định những tiêu chuẩn quốc tế có độ chính xác tương đương hoặc cao hơn tiêu chuẩn quốc gia. Khi chưa có tiêu chuẩn quốc gia để xác định các thông số quy định trong Quy chuẩn này thì áp dụng tiêu chuẩn quốc tế.

2.1.1.2. Quy chuẩn quốc gia về lò đốt chất thải rắn y tế QCVN02:2012/BTNMT

Năm 2008 Bộ Tài nguyên và môi trường đã ban hành Quy chuẩn quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế QCVN 02:2008/BTNMT. Quy chuẩn này quy định giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm trong khí thải lò đốt CTRYT và áp dụng đối với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, sử dụng lò đốt chất thải rắn y tế trên lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 2012, để đảm bảo yêu cầu của kiểm soát ô nhiễm môi trường đối với các lò đốt chất thải rắn y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quy chuẩn quốc gia về lò đốt chất thải rắn y tế QCVN02:2012/BTNMT có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2013 và áp dụng thay thế QCVN 02:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế.

Quy chuẩn quốc gia về lò đốt chất thải rắn y tế QCVN02:2012/BTNMT quy định các yêu cầu kỹ thuật và môi trường đối với lò đốt CTRYT. Quy chuẩn này áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh (phân phối), sử dụng lò đốt chất thải rắn y tế trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; đơn vị lấy mẫu, phân tích và các tổ chức, cá nhân liên quan.

Nội dung cơ bản của Quy chuẩn là các yêu cầu kỹ thuật cơ bản đối với lò đốt CTRYT;Giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm trong khí thải lò đốt CTRYT; quy định về vận hành lò đốt; Quản lý chất thải phát sinh từ lò đốt; quy định về giám sát lò đốt CTRYT.

2.1.1.3.Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thiết bị hấp chất thải lây nhiễm QCVN 55:2013/BTNMT.

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thiết bị hấp chất thải lây nhiễm quy định các yêu cầu về tính năng kỹ thuật và môi trường đối với các thiết bị hấp để xử lý chất thải y tế lây nhiễm, áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh (phân phối) và sử dụng thiết bị hấp chất thải y tế lây nhiễm; các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; các đơn vị lấy mẫu, phân tích và các tổ chức, cá nhân liên quan.

Theo Quy chuẩn, thiết bị hấp chất thải y tế lây nhiễm phải đảm bảo yêu cầu xử lý khử khuẩn theo nguyên lý sử dụng hơi nước để tạo áp suất và nhiệt độ phù hợp. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, Quy chuẩn cũng quy định nuớc thải phát sinh từ quá trình xử lý chất thải y tế lây nhiễm bằng thiết bị hấp (nếu có) chỉ được xả ra môi trường khi đạt QCVN 28:2010 BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế; Khí thải phát sinh từ quá trình xử lý chất thải y tế lây nhiễm bằng thiết bị hấp (nếu có) chỉ được xả ra môi trường khi đạt OCVN 192009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ.

Ngoài các quy chuẩn cơ bản trên, nước ta còn có các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến chất thải y tế như:

  • TCVN 6560 – 2005: “Lò đốt chất thải rắn – Khí thải lò đốt chất thải rắn y tế – Giới hạn cho phépthay thế cho TCVN 6560: 1999.
  • TCVN 7242:2003 – Lò đốt chất thải rắn y tế – Phương pháp xác định nồng độ cacbon monoxit (CO) trong khí thải;
  • TCVN 7244:2003 – Lò đốt chất thải rắn y tế – Phương pháp xác định nồng độ axit clohydric (HCI) trong khí thải;
  • TCVN 7557-:2005 – Lò đốt chất thải rắn y tế – Xác định kim loại nặng trong khí thải

Qua thực tiễn thực hiện các quy chuẩn liên quan đến chất thải y tế có thể thấy rằng Nhà nước đã ban hành các quy chuẩn với nội dung và phương pháp xác định rõ ràng, dần phù hợp và tương đương với tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên theo thống kê từ các báo cáo quan trắc của Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế), chất thải y tế nguy hại của các bệnh viện chiếm tỷ lệ khoảng 23% so với tổng lượng chất thải y tế phát sinh. Mặc dù vậy điều đáng lưu ý là hầu hết các lò đốt đang sử dụng đã xuống cấp, thiếu linh kiện thay thế, không được bảo dưỡng định kỳ nên việc xử lý chất thải bằng lò đốt tiềm tàng nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Thậm chí, một số bệnh viện có các thông số không đạt tiêu chuẩn về SO2, CO, NOx, bụi tổng, Pb….Đánh giá các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường liên quan đến chất thải y tế ở nước ta hiện nay có thể thấy một số vấn đề như sau:

Thứ nhất đó là các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường liên quan đến CTYT được ban hành cách đây khá lâu, khoảng từ 6 đến 9 năm, thời điểm đang áp dụng Luật Bảo vệ môi trường 2005 nên nhiều yêu cầu không còn phù hợp thực tế hiện nay. Ví dụ như theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế 28:2010/BTNMT đã bộc lộ một số bất cập như quy định đối tượng áp dụng là các cơ sở khám, chữa bệnh mà chưa bao quát hết các nhóm đối tượng cơ sở y tế có liên quan như theo quy định của Luật Khám, chữa bệnh thì có nhiều loại hình tổ chức hoạt động khám, chữa bệnh với quy mô và tính chất hoạt động khác nhau, do đó tính chất ô nhiễm và mức độ phát sinh nước thải của các loại hình cơ sở khám, chữa bệnh cũng khác nhau. Ngoài ra, có một số chỉ tiêu về ô nhiễm môi trường được quy định trong QCVN 28:2010/BTNMT chưa phù hợp với thực tế và các quy định liên quan vì hầu hết các cơ sở y tế không phát sinh chất thải phóng xạ (trừ một số bệnh viện điều trị ung thư và cơ sở nghiên cứu y học); 3 thông số về vi sinh là Salmonella; Shigella; Vibrio cholerae có tần suất xuất hiện rất ít và không thường xuyên trong các báo cáo quan trắc môi trường của các cơ sở y tế. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Thứ hai, các quy chuẩn chưa đưa ra nội dung quy định về tổng lượng thải. Đây là nội dung quan trọng cần đưa vào các quy chuẩn để làm căn cứ tính toán dự báo khả năng ÔNMT, là cơ sở để tính thuế, phí môi trường đối với cá nhân, tổ chức có hoạt động thải CTYT hoặc khí thải ra môi trường. Quy định về tổng lượng thải cần được được vào nội dung quy chuẩn để phù hợp nội dung quy định tại khoản 2 Điều 117 Luật Bảo vệ môi trường 2014 “Hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong chất thải được xác định căn cứ vào tính chất độc hại, khối lượng chất thải phát sinh và sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải”.

Thứ ba, quy chuẩn kỹ thuật chỉ đưa ra các thông số ô nhiễm và phương pháp xác định các thông số đó mà không có các quy định về thời điểm được phép xả thải hoặc thời điểm vận hành lò đốt CTRYT, thiết bị hấp chất thải lây nhiễm. Quy định về thời điểm sẽ có tác dụng giảm tải cho các nguồn tiếp nhận (nguồn nước, không khí….) vào các giờ cao điểm.

Thứ tư, hiệu quả áp dụng các quy chuẩn còn thấp. Hiện nay ở nước ta vẫn còn nhiều lò thiêu ngoài trời, thủ công dùng để xử lý chất thải nguy hại đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm cũng như thải ra rất nhiều chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe người dân như Furan và kim loại nặng như chì, cadimi…gây mưa axit, hiệu ứng nhà kính, là ÔNMT đất cũng như nước ngầm do tro lò đốt có chứa kim loại nặng độc hại. Hệ thống xử lý nước thải của các bệnh viện được vận hành không đảm bảo đúng quy trình, không thực hiện duy tu, bảo dưỡng thường xuyên nên chất lượng nước thải sau khi xử lý vẫn có chỉ tiêu vượt quy chuẩn môi trường cho phép. Đa số các bệnh viện tuyến huyện không có hệ thống xử lý nước thải, hoặc không đạt chuẩn hoặc xuống cấp nghiêm trọng…

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Các quy định về đánh giá môi trường

So với Luật bảo vệ môi trường 2005, các quy định về đánh giá môi trường nhằm mục đích phòng ngừa ô nhiễm môi trường của Luật Bảo vệ môi trường 2014 rất được coi trọng. Cụ thể:

  • Điều 15 quy định nội dung của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, tại khoản 6 quy định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược phải “đánh giá, dự báo xu hướng tích cực và tiêu cực của các vấn đề môi trường trong trường hợp thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch”.
  • Điều 22 quy định về nội dung chính của báo cáo đánh giá tác động môi trường, tại khoản 4 và khoản 5 quy định báo cáo đánh giá tác động môi trường phải “đánh giá, dự báo các nguồn thải và tác động của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng” và “ đánh giá, dự báo xác định biện pháp quản lý, rủi ro của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng”
  • Việc bảo vệ môi trường đối với bệnh viện và cơ sở y tế cần “có kế hoạch, trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường do chất thải y tế gây ra” ( điểm c khoản 1 điều 72)
  • Nội dung quản lý chất thải nguy hại trong quy hoạch bảo vệ môi trường cần “đánh giá, dự báo nguồn phát thải nguy hại và lượng phát thải” (khoản 1 Điều 94) . Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được quy đinh tại Điều 139 trong đó có nội dung “tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường”

Ngoài các quy định tại Luật Bảo vệ môi trường 2014, theo quy định tại Phụ lục I của Nghị định số 18/2015/NĐ-CP quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường có 02 hạng mục liên quan trực tiếp đến lĩnh vực y tế và chất thải phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đó là: Dự án xây dựng cơ sở khám, chữa bệnh và cơ sở y tế khác có quy mô từ 50 giường bệnh trở lên; Dự án xây dựng cơ sở tái chế, xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại. Tất cả các dự án xử lý CTYT nguy hại đều phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT có hiệu lực từ 01/7/2019 quy định sửa đổi Nghị định 18/2015/NĐ-CP đối với dự án xây dựng cơ sở khám, chữa bệnh và cơ sở y tế

khác phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường là dự án có quy mô từ 100 giường bệnh trở lên. Chủ dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi được cấp phép triển khai dự án. Chủ dự án có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các bước để lập và đảm bảo triển khai các hoạt động như đã nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của Luật BVMT 2014 và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP và sắp tới đây là Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019.

Báo cáo đánh giá tác động môi trường có tác dụng giúp chúng ta kiểm soát, lường trước được những ảnh hưởng tiêu cực của dự án đặc biệt là dự án xử lý chất thải, rang buộc trách nhiệm của chủ đầu tư đối với môi trường, giúp chính quyền và người dân sống xung quanh dự án giám sát tốt hơn những biến đổi của môi trường nơi dự án được triển khai. Như vậy có thể thấy rằng công tác dự báo, đánh giá môi trường nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm môi trường được quy định rất cụ thể trong các văn bản pháp luật thể hiện rõ sự quan tâm đối với công tác này. Tuy nhiên đối với các vấn đề liên quan đến chất thải y tế Luật bảo vệ môi trường mới chỉ có quy định về chất thải nguy hại mà chưa có quy định về khí thải nên chưa có cơ sở đánh giá tác động môi trường của khí thải đối với các lò đốt CTRYT.

2.2. Các quy định về kiểm soát, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chất thải y tế Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Kịp thời phát hiện ô nhiễm môi trường có vai trò quyết định để kiểm soát, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do CTYT. Phát hiện là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong việc theo dõi, thanh tra, kiểm tra phát hiện sự biến đổi của thành phần môi trường do sự thác động của CTYT nhằm ngăn chặn, ONMT xử lý và giảm thiểu ONMT do chất thải y tế.

2.2.1. Các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường y tế

Quan trắc môi trường theo quy định tại khoản 20 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 là “quá trình theo dõi có hệ thống về các thành phần môi trường, các yếu tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin, đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu tới môi trường”. Có thể thấy rằng để kiểm soát ô nhiễm môi trường thì cần đánh giá được hiện trạng môi trường, muốn đánh giá được hiện trạng môi trường thì cần phải tiến hành quan trắc môi trường.

Theo Luật BVMT, các BV phải có trách nhiệm thực hiện việc thu gom, xử lý nước thải y tế đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Phân loại chất thải rắn y tế tại nguồn; thực hiện thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải rắn y tế bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Có kế hoạch, trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường do CTYT gây ra; CTYT phải được xử lý sơ bộ loại bỏ mầm bệnh có nguy cơ lây nhiễm trước khi chuyển về nơi lưu giữ, xử lý, tiêu hủy tập trung; Xử lý khí thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.

Đối với chất thải rắn y tế, phương pháp quan trắc được thực hiện dưới hình thức quan sát trực tiếp; cân, đo số lượng; thu thập số liệu từ sổ sách, chứng từ có liên quan, bảng kiểm, bộ câu hỏi. Phương pháp đánh giá kết quả quan trắc về chất thải rắn y tế căn cứ quy định về phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế tại Quy chế quản lý CTYT ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế (hiện nay áp dụng theo Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT quy định quản lý CTYT).

Đối với nước thải y tế, khí thải lò đốt chất thải rắn y tế, môi trường không khí, kết quả quan trắc phải đảm bảo theo QCVN 28:2010/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế; QCVN 02:2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn y tế; QCVN 05:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh; QCVN 06:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về một số chất độc hại trong không khí xung quanh.

Hoạt động quan trắc tác động môi trường của các bệnh viện còn được quy định tại một số văn bản khác như:

Nội dung hoạt động quan trắc môi trường được quy định tại Nghị định số 127/2014/NĐ-CP – Quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường, bao gồm: Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

  • Hoạt động quan trắc môi trường bao gồm hoạt động quan trắc tại hiện trường và hoạt động phân tích môi trường.
  • Hoạt động quan trắc tại hiện trường bao gồm lấy mẫu, đo, thử nghiệm, và phân tích các thông số ngay tại hiện trường hoặc bảo quản mẫu, vận chuyển mẫu về để phân tích các thông số tại phòng thí nghiệm.
  • Hoạt động phân tích môi trường bao gồm các hoạt động xử lý mẫu và phan tích các thông số trong phòng thí nghiệm.

Việc thực hiện quan trắc môi trường phải bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng theo Thông tư 24/2017/TT-BTNMT ngày 01/9/2017 của Bộ tài nguyên và môi trường về Quy định kỹ thuật quan trắc môi trường.

Từ các quy định trên có thể thấy rằng pháp luật môi trường đã có những quy định cụ thể về quan trắc môi trường nói chung và quan trắc tác động môi trường từ hoạt động khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện nói riêng, từ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền các cá nhân, tổ chức có liên quan. Trong thời gian qua, hoạt động quan trắc môi trường y tế đã được các BV quan tâm và triển khai thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác BVMT. Phần lớn, các BV đã trang bị đầy đủ các loại dụng cụ để thu gom CTYT và tiến hành thu gom các nhóm chất thải (chất thải thông thường, chất thải nguy hại) với tần suất đảm bảo ít nhất 1 lần/ngày theo quy định của Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT. Đồng thời, các BV cũng thực hiện tốt việc vận chuyển chất thải tới nơi lưu giữ, đảm bảo không đi qua các phòng bệnh, khu lưu bệnh nhân, gây ảnh hưởng tới môi trường. Để xử lý chất thải nguy hại, các BV đều ký hợp đồng với đơn vị có chức năng (được Bộ TN&MT cấp phép) để thực hiện việc vận chuyển và xử lý CTYT nguy hại. Tuy nhiên vẫn còn một số BV chưa trang bị đầy đủ bao bì, thùng đựng CTYT đúng về màu sắc và thiếu biểu tượng theo quy định, đặc biệt ở nhóm chất thải nguy hại không lây nhiễm và CTYT thông thường phục vụ cho mục đích tái chế; một số BV chưa có khu lưu giữ chất thải đạt yêu cầu.Về quan trắc nước thải y tế, hầu hết các BV đã thực hiện đầy đủ tần suất quan trắc và đạt kết quả quan trắc theo QCVN 28:2010/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế. Theo đó, các BV tuyến Trung ương, tỉnh và tư nhân có kết quả nước thải đầu ra khá tốt, tuy nhiên, một số BV ở tuyến huyện có kết quả nước thải đầu ra chưa đáp ứng được yêu cầu của QCVN 28:2010/BTNMT với các thông số không đạt tiêu chuẩn phổ biến là nitrat, COD, BOD5 hoặc Coliforms. Đối với việc quan trắc khí thải lò đốt chất thải rắn y tế, đa phần các BV tuyến TW, tuyến tỉnh và tư nhân đều không đầu tư xây dựng hệ thống lò đốt hoặc đã ngưng vận hành lò đốt; chỉ còn phần lớn các BV ở tuyến huyện vẫn vận hành lò đốt để xử lý chất thải rắn y tế.Các BV tại tất cả các tuyến Trung ương và địa phương đều thực hiện tốt việc QTMT không khí xung quanh BV, đáp ứng đầy đủ về tần suất và đạt kết quả theo quy định tại QCVN 05:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh và QCVN 06:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về một số chất độc hại trong không khí xung quanh. Tuy nhiên vẫn còn một số ít BV tại tuyến huyện và tư nhân chưa thực hiện thường xuyên việc quan trắc môi trường không khí xung quanh. Mặc dù đã đạt được một số kết quả ban đầu đáng khích lệ, tuy nhiên cũng phải nhìn nhận công tác quan trắc môi trường y tế còn một số tồn tại. Nguyên nhân là do thiếu nguồn kinh phí để triển khai thực hiện đầy đủ các nội dung trong quản lý CTYT, BVMT; Cơ sở hạ tầng của các BV đã và đang xuống cấp, chật hẹp so với quy mô khám chữa bệnh nên tạo ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý CTYT; Chi phí vận hành, bảo dưỡng các hệ thống xử lý nước thải y tế, lò đốt chất thải rắn y tế cũng như chi phí thực hiện công tác quan trắc môi trường y tế còn khá lớn, khiến các BV gặp khó khăn trong việc thực hiện đầy đủ công tác quan trắc;

Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, nắm vững các quy định và cách thức vận hành hệ thống xử lý CTYT.

2.2.2. Quy định về nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường của các chủ thể Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Để hạn chế, ngăn chặn được ÔNMT thì các nguồn phát thải vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát. Các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT tác động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu, xử lý CTYT đảm bảo chất lượng môi trường.

Điều 72 Luật BVMT 2014 quy định về BVMT bệnh viện trong đó: khoản 4 điều này quy định “Người đứng đầu bệnh viện, cơ sở y tế có trách nhiệm thực hiện yêu cầu về bảo vệ môi trường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này và quy định pháp luật liên quan.”Về trách nhiệm của chủ nguồn CTNH trong trường hợp phát sinh CTNH được quy định cụ thể trong Điều 7 Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24-4-2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu quy định trách nhiệm của chủ nguồn thải chất thải nguy hại như sau:

  • Đăng ký với Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có cơ sở phát sinh chất thải nguy hại.
  • Có biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải nguy hại; tự chịu trách nhiệm về việc phân định, phân loại, xác định số lượng chất thải nguy hại phải báo cáo và quản lý.
  • Có khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại; lưu giữ chất thải nguy hại trong các bao bì hoặc thiết bị lưu chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý theo quy định.
  • Trường hợp không tự tái sử dụng, tái chế, đồng xử lý, xử lý, thu hồi năng lượng từ chất thải nguy hại tại cơ sở, chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải ký hợp đồng để chuyển giao chất thải nguy hại với tổ chức, cá nhân có giấy phép phù hợp.
  • Chủ nguồn thải chất thải nguy hại có trách nhiệm định kỳ 6 tháng báo cáo về việc lưu giữ chất thải nguy hại tại cơ sở phát sinh với Sở Tài nguyên và Môi trường bằng văn bản riêng hoặc kết hợp trong báo cáo quản lý chất thải nguy hại định kỳ khi chưa chuyển giao được trong các trường hợp sau: a) Chưa có phương án vận chuyển, xử lý khả thi; b) Chưa tìm được chủ xử lý chất thải nguy hại phù hợp. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.
  • Lập, sử dụng, lưu trữ và quản lý chứng từ chất thải nguy hại, báo cáo quản lý chất thải nguy hại (định kỳ và đột xuất) và các hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến công tác quản lý chất thải nguy hại theo quy định.
  • Khi chấm dứt hoạt động phát sinh chất thải nguy hại, phải thông báo bằng văn bản cho Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có cơ sở phát sinh chất thải nguy hại trong thời gian không quá 6 tháng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải từ hoạt động y tế thì “Chất thải lây nhiễm phải được quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt với cấp độ cao nhất trong các cơ sở y tế, bảo đảm không phát tán mầm bệnh gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người”.

Đối với phương án xử lý chất thải y tế nguy hại, khoản 4 Điều 49 của Nghị định quy định các cơ sở y tế căn cứ vào quy hoạch, yếu tố địa lý, điều kiện kinh tế và môi trường để lựa chọn áp dụng một trong các như sau:

  • Cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại tập trung hoặc cơ sở xử lý chất thải tập trung có hạng mục xử lý chất thải y tế;
  • Xử lý chất thải y tế nguy hại theo mô hình cụm cơ sở y tế (chất thải y tế của một cụm cơ sở y tế được thu gom và xử lý chung tại hệ thống, thiết bị xử lý của một cơ sở trong cụm);
  • Xử lý chất thải y tế nguy hại tại hệ thống, thiết bị xử lý trong khuôn viên cơ sở y tế.

Việc xử lý chất thải y tế nguy hại được quy định tại khoản 5 Điều 49: “ Ưu tiên lựa chọn các công nghệ không đốt, thân thiện với môi trường và bảo đảm việc xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường;Chất thải lây nhiễm sau khi khử khuẩn thì được xử lý như đối với chất thải thông thường bằng phương pháp phù hợp.

Thông tư 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại đã quy định về danh mục và yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý quản lý chất thải nguy hại. Trong đó Điều 7 của Thông tư quy định về yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý đối với chủ nguồn CTNH như sau:

  • Thực hiện các trách nhiệm theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP với các yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý được quy định.
  • Bố trí khu vực lưu giữ CTNH; lưu giữ CTNH trong các bao bì hoặc thiết bị lưu chứa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý theo quy định tại Phụ lục 2 (A) ban hành kèm theo Thông tư.
  • Yêu cầu khi chuyển giao CTNH: Chỉ ký hợp đồng chuyển giao CTNH với các tổ chức, cá nhân có Giấy phép xử lý CTNH hoặc Giấy phép quản lý CTNH phù hợp;Khi có nhu cầu xuất khẩu CTNH để xử lý ở nước ngoài, chủ nguồn thải CTNH phải tuân thủ Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các CTNH và việc tiêu huỷ chúng (sau đây gọi tắt là Công ước Basel) theo quy định tại Điều 23 Thông tư.
  • Sử dụng chứng từ CTNH mỗi lần chuyển giao CTNH trừ các trường hợp sau: Tự tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH trong khuôn viên cơ sở;Sổ giao nhận chất thải y tế nguy hại được sử dụng thay thế cho chứng từ CTNH trong trường hợp có hướng dẫn trong kế hoạch thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải y tế nguy hại của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.
  • Sau thời hạn 06 (sáu) tháng kể từ ngày chuyển giao CTNH, nếu không nhận được hai liên cuối cùng của chứng từ CTNH mà không có lý do hợp lý bằng văn bản từ phía tổ chức, cá nhân tiếp nhận CTNH thì chủ nguồn thải CTNH báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Tổng cục Môi trường để kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
  • Lập và nộp các báo cáo: định kỳ và đột xuất theo quy định
  • Lưu trữ với thời hạn 05 (năm) năm tất cả các liên chứng từ CTNH đã sử dụng, báo cáo quản lý CTNH và các hồ sơ, tài liệu liên quan để cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu.
  • Áp dụng đồng thời việc kê khai chứng từ CTNH và báo cáo quản lý CTNH trực tuyến trên hệ thống thông tin của Tổng cục Môi trường hoặc thông qua thư điện tử khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền.
  • Phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý theo quy định trong trường hợp tự tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH và đăng ký trong Sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH.

Ngoài quy định đối với chủ nguồn thải CTNH, Thông tư 36/2015/TT- BTNMT còn quy định về yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý đối với chủ xử lý CTNH (Điều 9), bao gồm các nội dung:

  • Chủ xử lý CTNH thực hiện các trách nhiệm theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP

Thực hiện biện pháp quản lý và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hoạt động của phương tiện vận chuyển không chính chủ trong quá trình vận chuyển CTNH; báo cáo Tổng cục Môi trường về việc thay đổi nội dung, gia hạn hoặc chấm dứt hợp đồng bàn giao phương tiện vận chuyển không chính chủ trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày thực hiện việc thay đổi, gia hạn hoặc chấm dứt.

Khi tham gia vận chuyển trong nội địa đối với CTNH vận chuyển xuyên biên giới thì phải phối hợp với chủ nguồn thải CTNH hoặc nhà xuất khẩu đại diện cho chủ nguồn thải CTNH để tuân thủ các quy định của Công ước Basel theo quy định tại Điều 22 Thông tư.

  • Khi có nhu cầu sử dụng các phương tiện vận chuyển đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý quy định tại Phụ lục 2 (B) ban hành kèm theo Thông tư nhưng không được ghi trong Giấy phép xử lý CTNH thì phải có văn bản báo cáo cơ quan cấp phép để được xem xét, chấp thuận. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày làm việc, Tổng cục Môi trường có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
  • Lập các loại báo cáo: Báo cáo quản lý CTNH định kỳ hàng năm; Báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Báo cáo cơ quan cấp phép về các thay đổi đối với cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân sự hoặc các chương trình, kế hoạch trong hồ sơ đăng ký kèm theo Giấy phép xử lý CTNH so với khi được cấp phép.
  • Lập: sổ giao nhận CTNH để theo dõi tên, số lượng, mã CTNH, thời gian, đơn vị chuyển giao hoặc tiếp nhận CTNH với cơ sở xử lý CTNH của mình, bảo đảm khớp với chứng từ CTNH; nhật ký vận hành các hệ thống, phương tiện, thiết bị cho việc xử lý CTNH; sổ theo dõi số lượng, chất lượng, nguồn tiêu thụ của các sản phẩm tái chế hoặc thu hồi từ CTNH; hồ sơ trực tuyến theo dõi hành trình phương tiện vận chuyển bằng GPS (hệ thống định vị toàn cầu) và cung cấp quyền truy cập cho cơ quan cấp phép; cơ sở dữ liệu quan trắc tự động liên tục (nếu có).
  • Trường hợp chủ xử lý CTNH đồng thời là chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt hoặc chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường, việc thực hiện các báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt hoặc chất thải rắn công nghiệp thông thường được tích hợp trong nội dung các báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký về quản lý CTNH.
  • Khi 02 (hai) tổ chức, cá nhân có nhu cầu liên kết trong đó một bên chỉ thực hiện việc vận chuyển CTNH và chuyển giao trách nhiệm xử lý cho bên còn lại (bao gồm cả cơ sở đang vận hành thử nghiệm xử lý CTNH) thì bên chuyển giao hoặc tiếp nhận phải gửi văn bản đề nghị kèm theo hợp đồng đến cơ quan cấp phép để được xem xét, chấp thuận trước khi thực hiện. Trường hợp chấm dứt, thay đổi, bổ sung hoặc gia hạn hợp đồng thì phải có văn bản gửi cơ quan cấp phép để xem xét. Thời hạn cơ quan cấp phép trả lời bằng văn bản là 15 (mười lăm) ngày làm việc. Việc chuyển giao chỉ được thực hiện giữa hai bên theo hợp đồng được cơ quan cấp phép chấp thuận, không được phép chuyển giao CTNH cho bên thứ ba.
  • Áp dụng việc kê khai chứng từ CTNH và báo cáo quản lý CTNH trực tuyến trên hệ thống thông tin của Tổng cục Môi trường hoặc thông qua thư điện tử khi có yêu cầu bằng văn bản của Tổng cục Môi trường.
  • Lưu trữ với thời hạn 05 (năm) năm tất cả các liên chứng từ CTNH đã sử dụng, báo cáo quản lý CTNH và các hồ sơ, tài liệu liên quan. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.
  • Trường hợp thay đổi người đảm nhiệm việc quản lý, điều hành, hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật của cơ sở xử lý CTNH theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP thì người thay thế phải có chứng chỉ quản lý CTNH trong thời hạn 06 (sáu) tháng kể từ ngày thay thế người quản lý, điều hành.
  • Phải vận chuyển CTNH về cơ sở xử lý để xử lý bằng các hệ thống, thiết bị xử lý CTNH đã được cấp phép sau khi tiếp nhận từ chủ nguồn thải CTNH, trừ trường hợp chuyển giao cho cơ sở xử lý CTNH khác.

Bảo đảm các hệ thống, phương tiện, thiết bị vận chuyển, xử lý CTNH (kể cả sơ chế, tái chế, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH) đã được cấp phép và công trình bảo vệ môi trường tại cơ sở xử lý và trạm trung chuyển (nếu có) đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý quy định tại Phụ lục 2 (B) ban hành kèm theo Thông tư trong quá trình vận hành.

Có thể nói rằng các quy định về ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn CTYT gây ÔNMT đã quy định cụ thể trách nhiệm của chủ nguồn thải, chủ xử lý chất thải. Tuy nhiên chưa có quy định nào quy định nội dung thế nào là ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn CTYT gây ÔNMT nên chưa có cách hiểu thống nhất đảm bảo tính thực thi của pháp luật đối với nội dung này.Ý thức chấp hành pháp luật về ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn CTYT gây ÔNMT của các chủ thể chưa cao. Trên thực tế đối với chất thải rắn y tế nguy hại, hầu hết các cơ sở y tế đã bố trí túi nilon, hộp an toàn và các xô, thùng để phục vụ công tác thu gom, phân loại. Về cơ bản công tác thu gom, phân loại chất thải y tế trong đó có chất thải rắn y tế nguy hại đã đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc bố trí túi nilon, hộp an toàn đảm bảo theo quy định còn chưa đầy đủ hoặc túi nilon, hộp an toàn chưa đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật, tại một số cơ sở còn có hiện tượng để chất thải có tính nguy hại không đúng với dụng cụ, thiết bị thu gom theo quy định hoặc có lẫn chất thải nguy hại với chất thải thông thường/chất thải nguy hại khác loại. Một số bệnh viện chưa thực hiện đúng quy định như vụ việc Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nôi) bị báo chí phản ánh việc các loại rác thải y tế như dây truyền, bơm tiêm… vẫn còn vương máu bệnh nhân được nhân viên xử lý bằng các thiết bị thô sơ, dập, cắt, ngâm tẩy… rồi bán ra ngoài thị trường vào tháng 01/2016.

Nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường của các chủ thể chủ yếu tập trung ở các bệnh viện lớn, ở các bệnh viện quy mô nhỏ hoặc các trạm y tế vấn đề này chưa được thực hiện đảm bảo đúng quy định. Nước ta hiện có hơn 11.000 trạm y tế tuyến xã , khác với đặc thù của các BV là tập trung vào hoạt động khám và điều trị, các trạm y tế xã đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, thực hiện chuỗi hoạt động dự phòng cho toàn bộ cộng đồng trên địa bàn, bên cạnh đó, vẫn đảm nhiệm vai trò là cơ sở khám chữa bệnh với trung bình 11-12 lượt bệnh nhân mỗi ngày. Tất cả các hoạt động trên đều phát sinh CTRYT với khối lượng, chủng loại khác nhau, nhưng phổ biến nhất là chất thải lây nhiễm sắc nhọn và chất thảo thông thường. Lượng CTRYT phát sinh trung bình tại mỗi trạm y tế là 1,5kg/ngày, trong đó có 0,3kg là chất thải nguy hại, thấp hơn nhiều so với tại các BV huyện và các BV tuyến tỉnh/thành phố và trung ương. Tuy ít như vậy nhưng tính chất nguy hại của chất thải y tế là giống nhau, hơn nữa, nếu nhân khối lượng này với con số hơn 11.000 trạm y tế trong cả nước thì lượng chất thải này rất cần được quan tâm. Trạm y tế xã phường, cũng như bất kỳ cơ sở y tế nào, cần thiết phải có kế hoạch cụ thể, phân công người phụ trách và có các hoạt động theo dõi, kiểm tra, báo cáo, cũng như có mục chi tài chính cho hoạt động này. Song, không có trạm y tế nào tham gia nghiên cứu thực hiện đầy đủ các nội dung trên.

Mới đây nhất, thông tin về việc đổ trộm chất thải y tế ra đường giao thông khiến cho dư luận hết sức bất bình. Cụ thể vào những ngày đầu tháng 6/2019 người dân xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) rất bức xúc khi phát hiện một lượng lớn rác thải y tế bị đổ trộm trên địa bàn, gây ô nhiễm môi trường. Trước hành vi thiếu ý thức gây tác động rất nguy hại đến môi trường, người dân yêu cầu cơ quan chức năng truy tìm ra đối tượng đổ trộm. Tại hiện trường, nhiều bao tải đã bị vỡ, chủ yếu đựng chai lọ thủy tinh, kim tiêm và nhiều vỏ chai thuốc bằng nhựa được đổ bên lề đường. Những bao còn nguyên bên trong cũng chứa một lượng lớn rác thải là dụng cụ y tế đều còn gắn nhãn mác, chỉ cần một cơn mưa sẽ mang hết xuống khe suối.

2.3. Các quy định về khắc phục ô nhiễm, cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Phục hồi môi trường đề cập đến việc loại bỏ ô nhiễm hoặc chất gây ô nhiễm từ môi trường như môi trường đất, nước dưới đất, trầm tích hay mặt nước. Khắc phục ô nhiễm, cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do CTYT là hoạt động giảm thiểu tác động của ô nhiễm do CTYT đến môi trường, con người và nâng cao chất lượng môi trường tại khu vực môi trường bị ô nhiễm. Khu vực môi trường bị ô nhiễm được phân loại theo 3 mức độ gồm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 105 Luật BVMT 2014).

Cách xác định khu vực bị ÔNMT được Luật BVMT 2014 quy định tại khoản 1 Điều 106 như sau:

  • Xác định phạm vi, giới hạn của khu vực môi trường bị ô nhiễm;
  • Xác định mức độ ô nhiễm, đánh giá rủi ro;
  • Xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các bên liên quan;
  • Các giải pháp xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;
  • Xác định các thiệt hại đối với môi trường làm căn cứ để yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải bồi thường.

Bên cạnh đó Luật cũng đã quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức là chủ nguồn thải và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khắc phục ô nhiễm, phục hồi cải thiện môi trường tại Điều 107. Theo đó chủ nguồn thải có các trách nhiệm:

  • Một là phải có phương án cải tạo, phục hồi môi trường khi tiến hành các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường;
  • Hai là tiến hành biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường khi gây ô nhiễm môi trường;
  • Ba là trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường mà không tự thỏa thuận được về trách nhiệm thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phối hợp với tổ chức, cá nhân có liên quan làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.

Đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức điều tra, xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm trên địa bàn, hằng năm báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường. Còn Bộ Tài nguyên và môi trường có các trách nhiệm sau: Quy định tiêu chí phân loại khu vực ô nhiễm môi trường; hướng dẫn thực hiện hoạt động cải tạo, phục hồi môi trường; kiểm tra xác nhận hoàn thành khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; điều tra, đánh giá và tổ chức thực hiện các hoạt động khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường đối với các khu vực bị ô nhiễm liên tỉnh; trường hợp môi trường bị ô nhiễm do thiên tai gây ra hoặc chưa xác định được nguyên nhân thì bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm huy động nguồn lực để tổ chức khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường.

Trên cơ sở Luật BVMT 2014, ngày 12/10/2016 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành, Thông tư số 30/2016/TT-BTNMT về quản lý, cải tạo và phục hồi môi trường khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu áp dụng đối với cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến cải tạo và phục hồi môi trường khu vực bị ô nhiễm thuộc trách nhiệm xử lý của Nhà nước. Thông tư quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 107 Luật BVMT 2014. Bên cạnh đó, Thông tư còn có các phụ lục như danh mục và mức độ nguy hại của các chất gây ô nhiễm; hướng dẫn về điều tra, đánh giá sơ bộ, chi tiết và phân loại khu vực có khả năng bị ÔNMT. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng, xác định phương hướng, mục tiêu đến năm 2020, ngày 01/10/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1788/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020 (gọi tắt là Quyết định 1788). Kế hoạch nêu rõ các đối tượng gây ÔNMT nghiêm trọng trong đó có các bệnh viện.Theo Quyết định 1788, trong danh sách các cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng có 172 cơ sở y tế, trong đó 10 cơ sở y tế còn tồn đọng từ Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải hoàn thành việc xử lý trước ngày 31/12/2015. Cũng theo Quyết định trên, trong giai đoạn 2016 – 2020 cần tiếp tục xử lý 118 cơ sở y tế (các bệnh viện tuyến huyện) gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Kế hoạch xác định mục tiêu rà soát, phát hiện và tập trung xử lý triệt để, dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên phạm vi cả nước; hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật về xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phấn đấu đến năm 2020 không còn cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Sau gần 4 năm triển khai thực hiện, tính đến tháng 6/2017 đã có 57/172 cơ sở (chiếm 32,5%) được cấp chứng nhận hoàn thành xử lý triệt để ÔNMT nghiêm trọng theo quy định; 56/172 cơ sở (chiếm 33,7%) đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải và đang làm thủ tục ra khỏi Danh mục gây ÔNMT nghiêm trọng; 7/172 cơ sở (chiếm 4%) đã được phê duyệt các hạng mục đầu tư xây dựng, cải tạo hệ thống xử lý CTYT; 40/172 cơ sở (chiếm 23%) đang triển khai dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý CTYT nhằm khắc phục tình trạng ÔNMT nghiêm trọng; 12/172 cơ sở (chiếm 7%) chưa triển khai đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý CTYT theo quy định. Nhìn chung, nhiều địa phương đã chủ động và tích cực bố trí nguồn kinh phí đầu tư cho các cơ sở y tế xây dựng hệ thống xử lý chất thải và đến nay đã hoàn thành việc xử lý các cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng, đạt 100% yêu cầu theo quy định như Phú Thọ (7 đơn vị), Thanh Hóa (5 đơn vị), Cao Bằng (6 đơn vị)…

Bên cạnh đó, một số địa phương đang tập trung nguồn lực cho các CSYT triển khai các dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý CTYT nhằm đẩy nhanh tiến độ xử lý như ĐắkLắk có 18 cơ sở, trong đó 8 cơ sở đang triển khai dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý CTYT, 8 cơ sở đang làm thủ tục ra khỏi danh sách ÔNMT nghiêm trọng, 2 cơ sở chưa triển khai đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý chất thải theo quy định; Nam Định có 16 cơ sở, trong đó 2 cơ sở đã được phê duyệt dự án đầu tư xử lý chất thải, 13 cơ sở đang triển khai dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý CTYT nhằm khắc phục tình trạng ÔNMT nghiêm trọng, còn 1 cơ sở chưa triển khai đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý chất thải theo quy định. Tuy nhiên vẫn còn một số địa phương chưa có cơ sở nào ra khỏi danh sách gây ÔNMTNT như Sơn La có 14 cơ sở; Tây Ninh 9 cơ sở; An Giang 9 cơ sở, Đắc Nông 7 cơ sở…Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 xử lý triệt để các cơ sở y tế gây ÔNMT nghiêm trọng thì đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt được kết quả. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Như vậy, Luật BVMT 2014 đã có các quy định về phục hồi hiện trạng môi trường nhằm góp phần phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do ÔNMT gây ra. Tuy nhiên như chúng ta đã biết ÔNMT do CTYT và những thiệt hại do nó gây ra tác động đến môi trường và con người có những đặc thù riêng của nó, vì vậy khi pháp luật chưa có quy định riêng về phục hồi môi trường bị ô nhiễm do CTYT thì việc áp dụng các quy định chung về phục hồi môi trường trên để giải quyết vấn đề ÔNMT do CTYT là rất khó và hiệu quả không cao.

2.4. Các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tê

Tính đến năm 2018, cả nước có 1.365 bệnh viện (chưa kể các bệnh viện quân đội do Bộ Quốc phòng quản lý), với tổng số 253.447 giường bệnh theo kế hoạch; 339.313 giường bệnh theo thực kê và gần 590.000 cán bộ y tế. Hằng năm, các cơ sở này đã khám trên 160 triệu lượt người và điều trị nội trú cho trên 28 triệu lượt người. Trung bình mỗi ngày một ngày lượng chất thải y tế của các bệnh viện lên tới 400 – 500 tấn, trong đó khoảng 10% là chất thải nguy hại. Cùng với đó, cả nước cũng có trên 120.000m³ nước thải y tế cần được xử lý. Theo quy định về xử lý rác thải y tế do được Bộ Y tế ban hành thì các chất thải y tế phải được các bệnh viện, doanh nghiệp và cơ quan có chức năng tiến hành tiêu hủy và xử lý an toàn. Tuy nhiên, cả nước mới chỉ có khoảng 60% số bệnh viện có công trình xử lý nước thải y tế, còn lại là chủ yếu xử lý sơ bộ bằng hóa chất, bể phốt, bể tự hoại rồi xả thẳng vào hệ thống thoát nước chung nên không bảo đảm an toàn. Đối với chất thải rắn, 90% bệnh viện thu gom hàng ngày, 67% bệnh viện xử lý bằng lò đốt than bùn hoặc công nghệ đốt khác, 32,2% xử lý bằng lò thủ công hoặc chôn lấp trong bệnh viện. Thống kê cho thấy, hiện cả nước mới chỉ có gần 200 lò đốt rác thải y tế chuyên dụng, trong đó có 2 xí nghiệp đốt rác tập trung tại Hà Nội và TPHCM, còn lại là các lò đốt rác cỡ trung bình và cỡ nhỏ. Số lò đốt rác thải y tế này mới chỉ phục vụ cho khoảng 450 bệnh viện và cơ sở y tế. Do đó, trong khoảng 500 tấn chất thải y tế mỗi ngày thì chỉ có 1/3 được đốt bằng lò đốt hiện đại, đảm bảo an toàn môi trường. Số rác thải rắn còn lại được tiêu hủy bằng lò thủ công, chôn trong khuôn viên bệnh viện, hoặc thải trực tiếp ra bãi rác chung, nơi có đông dân cư sinh sống và không ít được tuồn bán ra ngoài để tái chế. Đây thực sự là những mối nguy đe dọa môi trường và cuộc sống của người dân.

Pháp luật khi được ban hành luôn quy định chế tài áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật để đảm bảo pháp luật được thực thi. Trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi 04 loại trách nhiệm là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Tùy từng trường hợp mà cá nhân, tổ chức vi phạm có thể chịu các trách nhiệm pháp lý khác nhau, nhưng đối với một hành vi vi phạm một cá nhân không phải chịu quá 3 loại trách nhiệm pháp lý. Đối với pháp luật BVMT, Điều 160, Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định: “Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, gây nhiễm suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác, có trách nhiệm khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại và xử lý theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan”

2.4.1. Các quy định về thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật môi trường y tế Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định khá rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong tổ chức thanh tra việc thực hiện pháp luật môi trường. Theo đó Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường có trách nhiệm “Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường , giải quyết khiếu nai, tố cáo, kiến nghị liên quan đến bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật” (Khoản 9 Điều 141).

Điều 6 Nghị định số 35/2009/NĐ-CP được chính phủ ban hành ngày 07/4/2009 về tổ chức của Thanh tra Tài nguyên môi trường, các cơ quan thanh tra, kiểm tra gồm:

  • Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường
  • Thanh tra Tổng cục môi trường
  • Thanh tra Sở tài nguyên và Môi trường

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan khác trong việc thực hiện quyền thanh tra và phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Còn Bộ trưởng Bộ Y tế có trách nhiệm “chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm, hoạt động mai táng, hỏa tang; tổ chức thống kê nguồn thải, đánh giá mức độ ô nhiễm, xử lý chất thải của bệnh viện, cơ sở y tế và hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý.” (điểm e khoản 2 Điều 142 Luật BVMT 2014)

Đối với UBND cấp tỉnh có trách nhiệm “kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp luật có liên quan; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan giải quyết các vấn đề môi trường liên tỉnh” (điểm g khoản 1 điều 143). Và đối với trách nhiệm của UBND cấp huyện có trách nhiệm: “Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp luật có liên quan” (điểm e khoản 2 điều 143 Luật BVMT 2014). Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Quyết định số 86/QĐ-BYT ngày 08 tháng 01 năm 2018 của Bộ y tế quy định về chức năng nhiệm vụ Cục Quản lý môi trường y tế đã quy định nhiệm vụ bảo vệ môi trường của Cục quản lý môi trường Bộ Y tế đã có quy định “Kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý chất thải y tế, bảo vệ môi trường trong cơ sở y tế.”

Đối tượng thanh tra, kiểm tra về CTYT là các tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến CTYT trên lãnh thổ Việt Nam. Nói cách khác, đối tượng của thanh tra, kiểm tra về môi trường là các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT ví dụ như bệnh viện, trung tâm y tế, cơ sở sản xuất dược phẩm…

Tại Chương VII Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 quy định về quản lý chất thải rắn đã quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm quản lý chất thải rắn: Thanh tra môi trường các cấp thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về quản lý chất thải rắn. Nội dung, hình thức và phương thức hoạt động thanh tra môi trường được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 65/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường (nay là Nghị định số 53/2009/NĐ-CP ngày 07/4/2009 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường

Từ những quy định trên cho thấy pháp luật môi trường quy định khá cụ thể về công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về CTYT. Từ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường đến Bộ Y tế và UBND các cấp. Nhiều vụ việc được phát hiện và kịp thời xử lý qua công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về CTYT.

Ngày 8-9-2016, tổ công tác Phòng Cảnh sát môi trường (Công an tỉnh Hòa Bình) phối hợp Công an huyện Đà Bắc tổ chức kiểm tra thực tế tại BV Đa khoa Đà Bắc. Quá trình kiểm tra đã phát hiện tại khu vực phía sau Khoa Ngoại của BV có một hố đất lớn, bên dưới hố có nhiều túi ni-lông chứa đựng nhiều vật thải nghi là chất thải y tế. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, yêu cầu lãnh đạo BV Đa khoa Đà Bắc giữ nguyên hiện trạng, đồng thời cung cấp hồ sơ liên quan việc quản lý, xử lý chất thải y tế. Sau đó, Phòng Cảnh sát môi trường phối hợp các cơ quan chức năng làm việc với lãnh đạo BV đa khoa Đà Bắc và tiếp tục khai quật vị trí chôn lấp chất thải y tế. Tổng số chất thải y tế được phát hiện dưới hố chôn lấp là 71 bao, tương đương 1.335 kg.

Tháng 10/2016 Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp Công an tỉnh Bắc Ninh thành lập đoàn kiểm tra đột xuất công tác bảo vệ môi trường đối với các cơ sở thu gom, tái chế chất thải trên địa bàn xã Văn Môn. Xét thấy hành của chủ thu gom chất thải có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, cần điều tra, xét hỏi nhiều đối tượng để xử lý nghiêm, lãnh đạo các ngành: Tài nguyên và Môi trường, Công an và Y tế tỉnh Bắc Ninh thống nhất để Công an tỉnh chủ trì điều tra, xác minh. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy: Bãi tập kết chất thải y tế có diện tích 1.800 m2 tại thôn Quan Độ là của Công ty TNHH Bảo Ngọc (Công ty Bảo Ngọc). Tại thời điểm kiểm tra, xác minh, chất thải bao gồm: chai, lọ thủy tinh, ống truyền dịch, bơm kim tiêm… để lộ thiên, không có tường bao, mái che, nền không được xây chống thấm… Đoàn kiểm tra đã tiến hành lấy mẫu giám định đối với chất thải nêu trên để tiến hành phân tích, đánh giá mức độ nguy hại; đồng thời tiến hành bốc dỡ lượng chất thải 90.280 kg đưa về lưu giữ và niêm phong tại Công ty TNHH Môi trường VK, tại xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, để xử lý theo quy định.Theo hồ sơ thu thập được, Công ty Bảo Ngọc đã ký hợp đồng thu gom chất thải từ 12 cơ sở y tế, BV đa khoa trong và ngoài tỉnh. Cụ thể gồm: BV Đa khoa Nông nghiệp, ở huyện Thanh Trì (TP Hà Nội); BV Hữu Nghị Hà Nội; BV Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí (TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh); BV Sản – Nhi tỉnh Quảng Ninh (TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh); BV Đa khoa tỉnh Quảng Ninh; BV Đa khoa tỉnh Hòa Bình; BV Đa khoa tỉnh Phú Thọ; BV A Thái Nguyên; BV C Thái Nguyên; BV Sản-Nhi Bắc Giang; BV Đa khoa tỉnh Bắc Ninh; BV Quân y 110 (TP Bắc Ninh). Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, Luật Thanh tra 2010 có quy định về thanh tra chuyên ngành theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra chuyên ngành không chỉ được tiến hành bởi Thanh tra bộ, Thanh tra sở, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành còn được giao cho cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, đó là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở; Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra độc lập; Khi tiến hành thanh tra, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được xử phạt phạm hành chính và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật còn tại Luật BVMT 2014 các quy định về thanh tra chưa thực sự rõ ràng Điều này là nguyên nhân dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng. Ngoài ra Luật BVMT 2014 vẫn chưa có quy định riêng về thanh tra, kiểm tra môi trường các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT và không có khó khăn gì để nhận thấy rằng kết quả của công tác thanh tra đối với việc thực hiện pháp luật về môi trường nói chung và thanh tra, kiểm tra về môi trường các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT nói riêng vẫn chưa phản ánh một cách thực chất, đầy đủ các hành vi làm ô nhiễm của các tổ chức, cá nhân gây ra. Trên thực tế, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng thường đều do báo chí và nhân dân phát hiện, và khi dư luận bức xúc nóng bỏng rồi thanh tra mới vào cuộc. Công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng địa phương chưa được thực hiện thường xuyên.Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác BVMT còn hạn chế, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cũng là nguyên nhân dẫn tới kết quả của công tác thanh tra đối với việc thực hiện pháp luật về môi trường nói chung và thanh tra, kiểm tra về môi trường các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT, cơ sở xử lý chất thải y tế nói riêng chưa đạt kết quả theo yêu cầu.

2.4.2. Trách nhiệm hành chính

Trách nhiệm hành chính là một dạng của trách nhiệm pháp lý được áp dụng trong hoạt động quản lý – hoạt động hành chính nhà nước theo quy định của luật hành chính. Đó là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi phạm hành chính.Do đó trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết và theo quy định của pháp luật) đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do chất thải y tế. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Luật BVMT 2014 chỉ quy định về xử phạt vi phạm hành chính do hành làm ô nhiễm môi trường với nội dung mang tính nguyên tắc, ví dụ như tại khoản 2 Điều 104 của Luật quy định cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Hiện nay xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ở nước ta được áp dụng theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016  của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Nghị định 155/2016/NĐ-CP đã quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Đối với xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT tuy chưa có văn bản riêng quy định nhưng đây là vấn đề liên quan đến môi trường và các hành vi vi phạm đều tác động trực tiếp đến môi trường nên các chủ thể vi phạm trong lĩnh vực này sẽ bị áp dụng các quy định xử lý vi phạm hành chính tương ứng của Luật xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 155/2016/NĐ-CP. Theo đó hình thức xử phạt hành chính do vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung khác. Ngoài các hình thức xử phạt chính và bổ sung, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ-CP.

Để nghiên cứu nội dung các hình thức xử phạt hành chính, trước tiên cần xác định các hành vi vi phạm liên quan tới kiểm soát ÔNMT do CTYT sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm những hành vi nào? Theo quy định Nghị định 155/2016/NĐ-CP thì những hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:

  • Vi phạm các quy định về thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường
  • Vi phạm các quy định về thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường
  • Vi phạm các quy định về đề án bảo vệ môi trường
  • Vi phạm các quy định về xả nước thải có chứa các thông số môi trường thông thường vào môi trường
  • Vi phạm các quy định về xả nước thải có chứa các thông số môi trường nguy hại vào môi trường
  • Vi phạm các quy định về thải bụi, khí thải có chứa các thông số môi trường thông thường vào môi trường
  • Vi phạm các quy định về thải bụi, khí thải có chứa các thông số môi trường thông thường vào môi trường
  • Vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường đối với chủ nguồn thải chất thải nguy hại
  • Vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động vận chuyển chất thải nguy hại
  • Vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động xử lý chất thải nguy hại

Các hình thức xử phạt chính bao gồm cảnh cáo và phạt tiền. Hình thức cảnh cáo: “được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.” (Điều 22 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Đây là hình thức xử phạt nhẹ nhất đối với các hành vi vi phạm hành chính trong kiểm soát ÔNMT do CTYT có mục đích nhắc nhở để hướng các chủ thể phạm tới việc xử sự đúng theo quy định của pháp luật. Hình thức phạt tiền được áp dụng với hầu hết các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm soát ÔNMT do CTYT. Mức phạt đối với hình thức phạt tiền được quy định như sau: “Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt”. (khoản 4 Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Và theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ-CP: “Phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức”. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Các hình thức phạt bổ sung trong xử phạt vi phạm hành chính đối với lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT bao gồm tước quyền sử dụng có thời hạn đối với các loại giấy chứng nhận, giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn theo quy định của pháp luật; tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT. Các hình thức phạt bổ sung và biện pháp khác được áp dụng kèm theo hình phạt chính nếu pháp luật có quy định. Tùy theo mức độ, tính chất của hành vi vi phạm cá nhân, tổ chức có thể bị áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Những quy định trên là cơ sở pháp lý để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT. Thời gian qua, với sự nổ lực của các cơ quan chức năng trong phát hiện và kịp thời xử lý vi phạm hành chính các hành vi làm ô nhiễm môi trường đã mang lại nhiều kết quả tích cực, đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Có thể kể đến như:

Ngày 26/6/2017, Đoàn kiểm tra của Sở Tài nguyên – Môi trường Ninh Bình đã kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính đối với dự án bệnh viện sản nhi Ninh Bình và phát hiện dự án này thiếu báo cáo đánh giá tác động môi trường. Sau đó, Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường Ninh Bình đã có đề nghị UBND tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính đối với chủ đầu tư dự án Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình. UBND tỉnh Ninh Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ đầu tư là Ban quản lý Dự án đầu tư xây dựng công trình Dân dụng và Công nghiệp tỉnh Ninh Bình với số tiền 400 triệu đồng. Quyết định nêu rõ, dự án Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình đã vi phạm quy định tại Điểm d, Khoản 5, Điều 11, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ. Đồng thời, đình chỉ hoạt động xây dựng đối với dự án điều chỉnh, bổ sung đầu tư xây dựng Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Ninh Bình trong thời gian 60 ngày. Được biết, sau khi bị xử phạt 400 triệu đồng, chủ đầu tư dự án bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình cũng đã hoàn tất hồ sơ trình Bộ Tài nguyên – Môi trường và Hội đồng của Bộ cũng đã về thẩm định ĐTM đối với dự án.

Tháng 11 năm 2016, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3066/QĐ-XPVPHC, xử phạt đối với Bệnh viện Đa khoa thành phố Buôn Ma Thuột do ông Y Lâm Niê, Giám đốc bệnh viện. Theo Quyết định, Bệnh viện thành phố Buôn Ma Thuột đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 2 lần đến dưới 5 lần trong trường hợp thải lượng nước thải từ 80m3/ngày đến dưới 100 m3/ngày. Hình thức xử phạt hành chính với số tiền 250 triệu đồng. Ngoài ra, Bệnh viện đa khoa thành phố Buôn Ma Thuột phải xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường trước khi thải ra môi trường chậm nhất là đến ngày 31-12-2016, báo cáo kết quả thực hiện về Sở Tài nguyên và Môi trường để kiểm tra, giám sát. Buộc Bệnh viện đa khoa thành phố Buôn Ma Thuột chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường theo định mức, đơn giá đã được phê duyệt trong trường hợp xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về nước thải với số tiền 1.836.000 đồng. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Ngày 28/05/2018 Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình đã lập biên bản vi phạm hành chính số 19/ BB-VPHC đối với Bệnh viện Việt Nam-Cu Ba –Đồng Hới về lĩnh vực Bảo vệ môi trường, với các hành vi cụ thể như sau: Xả nước thải có chứa các thông số môi trường thông thường vào môi trường, vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 1,5 lần đến dưới 3 lần (lưu lượng xả thải 350m3/ ngày đêm) cụ thể: Chỉ tiêu BDD5 vượt 1,56 lần chỉ tiêu; Amoni vượt 2,6 lần vi phạm quy định tại khoản 3 điều 13, nghị định số 155/2016/NĐCP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT.

Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xử phạt phạm hành chính đối lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT cho thấy một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trong điều kiện hiện nay:

Thứ nhất đó là việc xác định hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân phạm các quy định kiểm soát ô nhiễm môi trường như xả thải vượt quy chuẩn gây ô nhiễm môi trường không phải dễ dàng bởi hoạt động ngày càng tinh vi mà việc quản lý, giám sát, theo dõi để phát hiện, xử lý các vi phạm của chính quyền cơ sở cũng chưa thực sự tốt; hoạt động tuyên tuyền, kêu gọi các đoàn thể xã hội, người dân tham gia giám sát, phát hiện các trường hợp vi phạm chưa hiệu quả…

Thứ hai quy định về mức phạt là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức so với những lợi ích mà các chủ thể vi phạm có được do vi phạm hoặc những thiệt hại mà các chủ thể gây ra cho môi trường và sức khỏe con người là chưa tương xứng, chưa đủ sức răn đe nên dẫn đến chủ thể vi phạm có thể tái phạm nhiều lần.

Thứ ba, trong các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có biện pháp buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả (điểm d khoản 2 Điều 86) và khoản 1 Điều 58 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định:  “biện pháp cưỡng chế, thẩm quyền, nội dung, trình tự, thủ tục và tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và một số vãn bản luật liên quan khác, chưa có quy định cụ thể đối với biện pháp buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Điều này đã kéo theo khó khăn, lung túng trong việc ban hành quyết định cưỡng chế của cơ quan có thẩm quyền, vì trong quyết định cưỡng chế phải ghi rõ biện pháp cưỡng chế được áp dụng.

Thứ tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 155/2016/NĐ-CP chưa có quy định về cơ chế phối hợp, cũng những trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành liên quan trong phối hợp thực hiện các quyết định cưỡng chế thi hành các quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Ví dụ như tại điểm a khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính có quy định biện pháp “Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm”, để thi hành biện pháp này cần có sự phối hợp của cơ quan, tổ chức nơi quản lý, chi trả lương, thu nhập của chủ thể vi phạm như ngân hàng, bảo hiểm xã hội, kho bạc…..Nếu không có quy định cơ chế phối hợp thì cơ quan ban hành quyết định cưỡng chế sẽ gặp nhiều khó khăn để thi hành quyết định như việc trong một số trường hợp, ngân hàng không cung cấp tài khoản với lý do phải bảo mật thông tin khách hàng. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Thứ năm, về quy định trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường,thẩm quyền xử phạt của các cơ quan quản lý nhà nước theo các quy định trong Luật khác với các Nghị định liên quan và giữa các Nghị định cũng không thống nhất. Cụ thể như sau: Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định thẩm quyền xử phạt của rất nhiều cơ quan và cá nhân, trong đó có cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường, thanh tra Bộ và Sở Tài nguyên và Môi trường, thanh tra Bộ và Sở Y tế, thanh tra Bộ và Sở Lao động-Thương binh-Xã hội, v.v… Tại điều này còn quy định thẩm quyền xử phạt của thủ trưởng rất nhiều cơ quan, trong đó có Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế là cơ quan trực tiếp quản lý môi trường ngành y tế. Nghị định 72/2010/NĐ-CP có quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an, Bộ TN&MT và Ủy ban Nhân dân các cấp trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường. Nghị định số: 179/2013/NĐ-CP về xử lý vi phạm trong lĩnh vực BVMT chỉ quy định thẩm quyền xử phạt của Ủy ban nhân dân các cấp, công an và thanh tra chuyên ngành môi trường. Điều 159 Luật BVMT 2014 đã quy định nhiệm vụ của thanh tra BVMT các cấp: Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật trên phạm vi cả nước. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường đối với cơ sở, dự án, công trình thuộc phạm vi bí mật nhà nước về quốc phòng, an ninh Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật trên địa bàn.

Thứ sáu, đối với các hình thức xử phạt bổ sung trong xử phạt vi phạm hành chính, có quy định đình chỉ hoạt động có thời hạn, quy định này là không thể áp dụng trong xử phạt vi phạm hành chính đối với lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT bởi liên quan đến hoạt động của các cơ sở y tê, cơ sở xủ lý chất thải y tế thì không thể đình chỉ hoạt động.

2.4.3.Trách nhiệm dân sự Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự.Trên phạm vi thế giới, hiện đang tồn tại song song 2 quan niệm khác nhau về thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường:Một là, thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường chỉ gồm thiệt hại đối với các yếu tố môi trường tự nhiên, như hệ động vật, thực vật, đất, nước, không khí… mà không bao gồm thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Hai là, thiệt hại về môi trường không chỉ bao gồm các thiệt hại đến chất lượng môi trường mà còn cả thiệt hại về sức khỏe, tài sản của cá nhân do ô nhiễm môi trường gây nên. Ở nước ta tính từ thời điểm Luật BVMT 2005 được ban hành, thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường được xác định theo quan niệm thứ hai. Việc xác định thiệt hại do ÔNMT được quy định tại Điều 163 Luật BVMT 2014“Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gồm: Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.”

Đối với thiệt hại môi trường do chất thải y tế thì pháp luật BVTM và các văn bản liên quan chưa quy định cụ thể nội dung cũng như cách xác định thiệt hại môi trường do CTYT để làm căn cứ bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên kiểm soát ÔNMT do chất thải y tế là một bộ phận của pháp luật môi trường vì vậy các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do chất thải y tế gây thiệt hại nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Luật BVMT 2014 và Bộ Luật Dân sự 2015.

Theo quy định thì cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường do hành vivi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT được xác định bởi 3 yếu tố cấu thành là: có hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại xảy ra trên thực tiễn và xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Khoản 4 Điều 109 Luật BVMT năm 2014: “Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây ra được thực hiện theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan”. Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”. Khoản 2 Điều 13 Nghị định 03/2015/NĐ-CP ngày 06/01/2015 của Chính phủ quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường: “Tổ chức, cá nhân làm môi trường bị ô nhiễm, suy thoái phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với môi trường do mình gây ra, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại cho cơ quan đã ứng trước kinh phí”. Từ các quy định này cho thấy trách nhiệm dân sự do hành vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT chủ yếu là trách nhiệm bồi thường vật chất. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Ô nhiễm môi trường do CTYT đang gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, những hành vi gây ô nhiễm môi trường CTYT vẫn đang được áp dụng các chế tài nhằm nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ môi trường. Đặt ra trách nhiệm bồi thường cũng nhằm bảo vệ quyền lợi những người bị ảnh hưởng bởi việc vi phạm quy định về bảo vệ môi trường gây ra. Tuy nhiên vẫn còn một số vướng mắc khi áp dụng các quy định này trên thực tế như:

Quy định của Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”, theo quy định trên, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại, ngoài việc phải chịu trách nhiệm theo quy định của luật chuyên ngành thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, kể cả chủ thể đó không có lỗi. Còn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 112 của Luật BVMT 2014 thì chủ thể gây sự cố môi trường có trách nhiệm “Bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan”. Cách dẫn chiếu như vậy thì rất khó trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT. Vì vậy pháp luật cần có các quy định mang tính linh hoạt và thống nhất hơn trong lĩnh vực này.

Bộ Luật Dân sự 2015 và Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Nếu áp dụng quy định này cho việc yêu cầu đòi bồi thường trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT là không hợp lý, vì trên thực tế đối với các vi phạm về kiểm soát ÔNMT do CTYT thì ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm không hoàn toàn trùng khớp với ngày phát sinh thiệt hại, ví dụ như thiệt hại đối với người bị ảnh hưởng của chất thải phóng xạ, nhiễm chất độc, chất thải hóa học và dược phẩm…., do vậy cần hướng tới việc quy định thời hiệu khởi kiện gắn với thời điểm thiệt hại thực tế bắt đầu xảy ra.

Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung và kiểm soát ÔNMT do CTYT nói riêng ở nước ta hiện nay đóng một vai trò quan trọng nhằm góp phần làm giảm sự ô nhiễm, suy thoái môi trường. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT là cần thiết.

2.4.4. Trách nhiệm hình sự Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Hiện nay chưa có quy định nào của pháp luật hình sự quy định trực tiếp các nội dung về tội phạm trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT vì vậy đối với các hành vi vi phạm pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự sẽ được điều chỉnh bởi các quy định tại chương XIX của Bộ Luật hình sự 2015. Theo đó những tội danh mà các chủ thể vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ Luật Hình sự 2015 là:

  • Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235)
  • Tội vi phạm về quản lý chất thải nguy hại (Điều 236)
  • Tội vi phạm về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237)

Tùy thuộc vào tội danh cụ thể và mức độ vi phạm mà pháp luật hình sự quy định mức phạt tù và phạt tiền tương ứng. Mức phạt tiền cao nhất là 10.000.000.000 đồng và thấp nhất là 50.000.000đồng. Mức phạt tù cao nhất là 10 năm. Ngoài ra chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định.

Trên thực tế hiện nay chưa có vụ việc vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế được đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối với xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT, các quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này còn có một số bất cập, hạn chế như:

Đối với tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường được quy định tại Điều 237 BLHS 2015 để xử lý hành vi vi phạm quy định về phòng ngừa và vi phạm quy định về ứng phó, khắc phục sự cố môi trường. Trong đó, hành vi vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường sẽ bị xử lý khi để xảy ra sự cố môi trường. Theo quy định tại Khoản 10, Điều 3 Luật BVMT năm 2014: “Sự cố môi trường là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng”. Việc quy định này mang tính định tính và không rõ ràng khi xác định thế nào là “nghiêm trọng”.Do vậy, nếu chỉ quy định như tại Điểm a, Khoản 1, Điều 237 là “để xảy ra sự cố môi trường” đã bị xử lý hình sự thì sẽ không hợp lý và không rõ trường hợp nào sẽ phải xử lý. Sự cố môi trường có thể có nhiều cấp độ khác nhau và theo quy định về tội phạm môi trường là những hành vi nguy hiểm cho môi trường cần phải loại bỏ thì nhất thiết phải xác định được hậu quả trong trường hợp này.

Về chủ thể phạm tội: Lần đầu tiên luật hình sự nước ta quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, tuy nhiên theo quy định tại Điều 75 Bộ Luật Hình sự 2015 thì pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác; Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy định này đã loại bỏ trách nhiệm hình sự đối với các cơ sở y tế khám chữa bệnh, cơ sở xét nghiệm, nghiên cứu dược phẩm nhưng đây lại là những chủ thể chủ yếu vi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT như việc vi phạm các quy chuẩn quốc gia về chất thải y tế; không thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường; vi phạm nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường…Như vậy Bộ Luật Hình sự 2015 chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự về tội gây ô nhiễm môi trường đối với pháp nhân thương mại, điều này làm giảm tính răn đe, ngăn ngừa vi phạm trong kiểm soát ÔNMT do CTYT đối với các pháp nhân mà không phải pháp nhân thương mại.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Như vậy, qua phân tích và đánh giá chúng ta hiểu rõ thêm các quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát ÔNMT do CTYT, Chương 2 của Luận văn đã đề cập và giải quyết các nội dung sau:

Một là, đánh giá thực trạng quy định về phòng ngừa, ngăn chặn phát sinh các nguồn chất thải gây ô nhiễm môi trường thông qua việc phân tích và làm sáng tỏ thực trạng các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường liên quan đến chất thải y tế; phân tích các đề án kiểm soát CTYT đối với các cơ sở y tế, cơ sở xử lý CTYT có nguy cơ gây ÔNMT; các quy định về dự báo, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường và thực tiễn thực hiện các quy định này ở Việt Nam. Các quy chuẩn bao gồm quy chuẩn quốc gia về nước thải y tế, quy chuẩn quốc gia về lò đốt CTRYT, quy chuẩn quốc gia về thiết bị hấp chất thải lây nhiễm. Qua phân tích đã chỉ ra cho đến nay Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về phòng ngừa, ngăn chặn phát sinh các nguồn CTYT gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên,cũng cho thấy rất nhiều quy định hiện nay đã lạc hậu cần phải chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt đến nay, vẫn còn thiếu một số quy chuẩn, như quy chuẩn quốc gia về xử lý chất thải y tế lây nhiễm bằng lò vi sóng; Luật BVMT chưa có quy định về khí thải nên chưa có cơ sở đánh giá tác động môi trường của khí thải đối với các lò đốt CTRYT; các kế hoạch đề án kiểm soát CTYT đối với các cơ sở y tế, cơ sở xử lý CTYT có nguy cơ gây ÔNMT được ban hành nhưng chưa hoàn thành tiến độ theo yêu cầu.

Hai là, phân tích các quy định về kiểm soát, xử lý, giảm thiểu ÔNMT do CTYT bao gồm các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường; thanh tra kiểm tra thực hiện pháp luật môi trường và các quy định về nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn CTYT gây ÔNMT của các chủ thể. Theo đó chỉ ra những bất cập, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Ví dụ như hoạt động quan trắc vẫn còn nhiều tồn tại do thiếu kinh phí, cơ sở hạ tầng không đáp ứng; hoạt động thanh tra chưa phản ánh thực chất các hành gây ô nhiễm do các chủ thể gây ra do Luật BVMT chưa quy định riêng về thanh tra, kiểm tra môi trường các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT; chưa có cách hiểu thống nhất do chưa có quy định như thế nào là ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn CTYT gây ÔNMT.

Ba là phân tích các quy định của pháp luật về khắc phục ô nhiễm, cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do CTYT. Qua phân tích cho thấy Luật BVMT và các quy định pháp luật liên quan đã quy định về phục hồi hiện trạng môi trường nhằm phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do môi trường gây ra, tuy nhiên việc áp dụng các quy định chung của Luật BVMT về phục hồi hiện trạng môi trường là chưa phù hợp vì ÔNMT do CTYT có những đặc thù riêng của nó.

Bốn là phân tích các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT, theo đó chủ thể vi phạm tùy theo mức độ có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm dân sự. Bên cạnh đó cũng phân tích những bất cập trong ban hành và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993