Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ 1996 đến nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. THỦ TỤC XÂY DỰNG, THẨM QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT THEO LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG)

Tuỳ thuộc tầm quan trọng, phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật.; tuỳ thuộc vị trí của cơ quan ban hành mà tương ướng với mỗi loại văn bản Luật 96 quy định một thủ tục khác nhau.

Chúng tôi xin phân tích thủ tục ban hành hai loại văn bản:

Thứ nhất: Luật, Pháp lệnh – loại văn bản có tầm quan trọng và có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp; loại văn bản điển hình về tính đầy đủ, phức tạp cho các văn bản ban hành theo trình tự tập thể.

Thứ hai: Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ – loại văn bản phổ biến trong đời sống pháp lý. có tác động lớn đến cuộc sống, điển hình cho văn bản ban hành theo trình tự cá nhân.

2.1.1. Thủ tục xây dựng, ban hành Luật, Pháp lệnh.

a.Giai đoạn sáng kiến ban hành:

Giai đoạn sáng kiến ban hành là một yêu cầu bắt buộc đối với thủ tục xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh. Giai đoạn này thể hiện ở chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh. Tại phiên họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội sẽ có chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh chung cho toàn khoá. Đồng thời, Quốc hội có chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh cho từng năm nhằm triển khai chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh toàn khoá.

Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh do các chủ thể tại Điều 87. Hiến pháp 1992 đề xuất và đồng thời được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Trong trường hợp dự kiến Luật, Pháp lệnh của Chính phủ thì được gửi thẳng đến UB TVQH. Đối với đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội đưa ra thì Chính phủ phải có trách nhiệm phát biểu ý kiến bằng văn bản về đề nghị đó gửi cho UBTVQH.

Trong dự kiến chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Chính phủ và đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội phải nêu rõ

  • Sự cần thiết ban hành văn bản
  • Đối tượng, phạm vi chính của văn bản
  • Các điều kiện cần thiết cho việc soạn thảo văn bản.

Uỷ ban pháp luật Quốc hội chủ trì phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội tiến hành thẩm tra dự kiến chương trình và đề nghị nói trên. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Căn cứ vào dự kiến chương trình của Chính phủ và đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Uỷ ban pháp luật, UBTVQH lập dự án chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh trình Quốc hội quyết định. Chương trình này có thể được điều chỉnh. Chủ thể đề nghị và thủ tục điều chỉnh chương trình hoàn toàn lặp lại các bước trên.

  • Chuẩn bị.

Thành lập ban soạn thảo (Điều 25)

Việc soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh do ban soạn thảo đảm nhiệm. Ban soạn thảo do cơ quan, tổ chức trình dự án thành lập. UBTVQH thành lập ban soạn thảo trong 3 trường hợp.

  • Dự án do chính UBTVQH trình
  • Dự án liên quan nhiều ngành, lĩnh vực.
  • Dự án do Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trình sẽ được thành lập theo đề nghị của cơ quan, đại biểu trình dự án.

Soạn thảo dự án (Điều 26). Trước khi và trong khi soạn thảo phải thu thập các thông tin về:

  • Tình hình thi hành pháp luật, các văn bản hiện hành có liên quan.
  • Khảo sát thực trạng quan hệ xã hội có liên quan dự án.
  • Các thông tin, tài liệu khác như kinh nghiệm nước ngoài, kinh nghiệm lịch sử.

Sau khi thu thập thông tin, bản soạn thảo chuẩn bị đề cương, biên soạn, chỉnh lý dự án, tiến hành lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan, và có thể tiến hành lấy ý kiến nhân dân theo Điều . 39, 40, 41(Xin xem thêm Chương 3 mục 2 Luận văn). Đây là một quá trình có rẽ nhánh và quy hồi.

Sau khi hoàn thiện bàn dự thảo của dự án Luật, Pháp lệnh ban soạn thảo chuẩn bị tờ trình và các tài liệu liên quan chuyển cho Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để tiến hành thẩm tra Nghị quyết của Quốc hội.

Nếu dự án luật, do các cơ quan không phải là UBTVQH trình thì sẽ được thẩm tra sơ bộ để UBTVQH cho ý kiến về dự án. Nếu là dự án Luật, Nghị quyết của Quốc hội do UBTVQH trình hoặc dự án pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH trình để UBTVQH thông qua thì phải được thẩm tra chính thức. Điều 35 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có sự phân biệt giữa thẩm tra sơ bộ và thẩm tra chính thức nhưng cụ thể như thế nào thì chưa có văn bản quy định.

Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án Luật, dự án Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, nhưng tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

  1. Sự cần thiết ban hành.
  2. Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật.
  3. Việc tuân thủ thủ tục trình tự soạn thảo.
  4. Tính khả thi của dự án.

Trình, thảo luận, thông qua: (Điều 45, 46, 47)

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án, Quốc hội có thể xem xét dự án tại một hoặc nhiều kỳ họp của Quốc hội. Trong trường hợp dự án được xem xét tại nhiều kỳ họp của Quốc hội thì trong lần xem xét đầu Quốc hội thảo luận và cho ý kiến về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội dung cơ bản và những vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án .

Sau khi đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án thuyết trình về dự án; đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra, Quốc hội sẽ tiến hành thảo luận.

Đoàn thư ký kỳ họp phối hợp với cơ quan thẩm tra và cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến thảo luận, chỉnh lý, dự án và báo cáo với UBTVQH trước khi trình Quốc hội thông qua.

Quốc hội thông qua dự án Luật bằng cách biểu quyết từng điều, từng chương, nghe đọc toàn văn, sau đó biểu quyết toàn bộ dự án một lần. Tuy nhiên trường hợp sẽ biểu quyết theo phương thức một lần thì chưa có văn bản quy định.

Dự luật được thông qua khi quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Sau đó Chủ tịch Quốc hội ký chứng thức Luật để ghi nhận một đạo luật ra đời.

Đối với pháp lệnh các bước cơ bản giống nhau trình tự xem xét, thông qua Luật. Nhưng nếu dự án luật được thảo luận tại Đoàn, tổ đại biểu Quốc hội trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể thì tất cả các thành viên UBTVQH cùng thảo luận, chủ toạ kết luận sau đó biểu quyết. Ngoài ra pháp lệnh khi được UBTVQH thông qua thì không mặc nhiên có ý nghĩa pháp lý mà có thể bị Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại theo khoản 7. Điều 103 Hiến pháp 1992.

Công bố, truyền đạt Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Luật, Nghị quyết của Quốc hội sau khi thông qua thì Chủ tịch nước phải ra Lệnh công bố trong vòng mười lăm ngày. Đối với Pháp lệnh, một số Nghị quyết của UBTVQH, trong vòng mười lăm ngày Chủ tịch nước phải ký Lệnh công bố hoặc có quyền yêu cầu xem xét lại.

Trong thời gian chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản quy phạm pháp luật được công bố hoặc ký ban hành. Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm gửi văn bản cho Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng ban hành đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tổ chức chính trị xã hội hữu quan, thành phố trực thuộc Trung ương.

Ngoài ra các văn bản nói trên được đưa lên mạng tin học diện rộng của Chính phủ. Văn bản luôn được giữ ở trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ có giá trị như bản gốc (Điều 4 Nghị định 101/Chính phủ đđ )

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Thủ tục xây dựng, ban hành Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ

Trình tự soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 65 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Điều 65. Soạn thảo, ban hành quyết định chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ:

1- Dự thảo quyết định, chỉ thị do Thủ tướng giao và chỉ đạo cơ quan soạn thảo.

2- Cơ quan được giao soạn thảo có trách nhiệm xây dựng dự thảo.

3- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo Quyết định, Chỉ thị, cơ quan soạn thảo gửi lấy ý kiến các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan tổ chức, cá nhân hữu quan.

4- Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản về dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.

5- Cơ quan soạn thảo chỉnh lý dự thảo và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.

6- Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký quyết định, chỉ thị,”

Như vậy, so với trình tự soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tập thể Chính phủ, trình tự soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ có đơn giản hơn và gồm các bước sau đây:

Bước 1: Soạn thảo Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

  • Thủ tướng trực tiếp giao và chỉ đaọ cơ quan soạn thảo
  • Cơ quan soạn thảo xây dựng dự thảo.

Bước 2: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo

Lấy ý kiến Bộ Tư pháp bằng văn bản. Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản và chịu trách nhiêm về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm chậm nhất là 15 ngày, trước ngày trình Thủ tướng Chính phủ gửi đên Bộ Tư pháp hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị bao gồm:

1- Công văn yêu cầu tham gia ý kiên.

2- Tờ trình Thủ tướng về dự thảo.

3- Dự thảo.

4- Bản tổng hợp ý kiến tham gia.

Số lượng hồ sơ gửi tham gia ý kiến ít nhất là 05 bộ.

Chậm nhất là 07 ngày, sau khi nhận được hồ sơ, Bộ Tư pháp tham gia ý kiến bằng văn bản và gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo. (Điều 30, khoản 1,2,3,4,5 NĐ 101/1997/NĐ-CP)

Vai trò, trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ tương tự như trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ.

Bước 3: Xem xét, thông qua

Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm chỉnh lý dự thảo quyết định, chỉ thị để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Hồ sơ trình ký bao gồm:

1- Tờ trình Thủ tướng Chính phủ về dự thảo

2- Dự thảo

3- Bản tổng hợp ý kiến tham gia.

4- Ý kiến tham gia của Bộ Tư pháp

Thủ tướng Chính phủ xem xét và ký quyết định chỉ thị cụ thể là:

Thủ tướng Chính phủ hoặc Phó Thủ tướng thường trực được Thủ tướng uỷ nhiệm, ký quyết định, chỉ thị về xử lý các vấn đề cụ thể này sinh theo lĩnh vực được phân công phụ trách.

Bước 4: Công bố Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Việc công bố quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng Công báo, yết thị và đưa tin văn bản quy phạm pháp luật.

2.2. THỰC TIỄN XÂY DỰNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỪ 01/011/1997 ĐẾN NAY (NGÀY CÓ HIỆU LỰC CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1996).

Luật 96 được ban hành là sự phản ánh và ghi nhận thành luật những thực trạng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trước đó mà chưa làm được vai trò vượt trước. Nó chỉ mới dừng lại ở mức độ ghi nhận một thực trạng chưa thống nhất và có nhiều bất cập trước đó.

Tuy chưa làm được vai trò định hướng, vượt trước cho các quan hệ xã hội, nhưng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 đã đóng vai trò tạo lập hành lang pháp lý; làm cơ sở cho hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như văn bản pháp luật nói chung.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 đã quy định nhiều vấn đề để mang tính nguyên tắc cho hoạt động xây dựng, ban hành như:

  • Trật tự hiệu lực pháp lý, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật.
  • Các cơ quan, tổ chức, công dân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
  • Ngôn ngữ của văn bản quy phạm pháp luật; việc dịch văn bản quy phạm pháp luật ra các dân tộc thiểu số, dịch ra tiếng nước ngoài.
  • Về hiệu lực thời gian, không gian, đối tượng áp dụng.
  • Nguyên tắc về sửa đổi, bổ xung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
  • Chế độ công bố, công khai, thông tin như đăng công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng

Cùng với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996, NĐ 101/CP đã tạo được sự chuyển biến về chất trong hệ thống pháp luật nói chung và trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng. Tính từ năm 1997 đến hết 9/2001, Quốc hội đã ban hành 34 Luật; UBTVQH đã ban hành 40 Pháp lệnh, Chính phủ ban hành hơn 4000 Nghị định và Nghị quyết [15, tr 6].

Theo báo cáo của Bộ Tư pháp ngày 16/10/2001: “Bản tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành về việc thực hiện Nghị định 101/CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996”, trong 5 năm thi hành Nghị định 101/CP các bộ, ngành đã có những thành tựu đáng kể trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

  • Bộ Y tế: đã xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 25 văn bản; phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan ban hành 32 thông tư, nghị quyết liên tịch.
  • Bộ Giao thông vận tải: đang tổ chức triển khai soạn thảo 4 dự án luật; đã soạn thảo và trình Chính phủ ban hành 12 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 3 quyết định, chỉ thị; ban hành 130 quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ.
  • Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường: từ năm 1998 – 2000 triển soạn thảo 1 dự án luật, 5 dự án pháp lệnh, nhiều dự thảo nghị định, quyết định, chỉ thị và các văn bản của Bộ.
  • Bộ Kế hoạch và Đầu tư: đã xây dựng 3 dự án luật, 4 nghị quyết, 21 dự thảo nghị định, 82 dự thảo quyết định và ban hành hơn 130 quyết định, chỉ thị, thông tư, thông tư liên tịch.
  • Bộ Thương mại: soạn thảo 7 dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại.
  • Ban Biên giới Chính phủ: soạn thảo 2 dự án luật, 1 nghị định, 2 chỉ thị (trong đó 1 chỉ thị là phối hợp soạn thảo); 2 chỉ thị, 8 quy chế và một số công văn hướng dẫn của Ban.
  • Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: soạn thảo 1 dự án luật, 2 dự án pháp lệnh, 5 nghị định, 41 quyết định, 14 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành 846 văn bản theo thẩm quyền.
  • Thanh tra Nhà nước: soạn thảo 1 dự án luật, 2 pháp lệnh, 3 nghị định.
  • Uỷ ban Thể dục, Thể thao: soạn thảo 1 dự án pháp lệnh, 1 nghị định, 1 quyết định và hàng loạt quyết định, chỉ thị, thông tư…
  • Uỷ ban Dân tộc và Miền núi: tổng số văn bản soạn thảo, tham gia ý kiến là trên 180 văn bản.
  • Bộ Giáo dục và Đào tạo: soạn thảo 1 luật, 1 nghị quyết, 5 nghị định, 10 quyết định và 1 chỉ thị.
  • Tổng cục bưu điện: 1 dự án pháp lệnh, 1 nghị định, 2 quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
  • Tổng cục Thống kê: soạn thảo 1 dự án luật, 2 dự thảo nghị định.
  • Cục Hàng không dân dụng Việt nam: soạn thảo 4 nghị định (đã được ban hành 3), 1 quyết định.
  • Kiểm toán Nhà nước: ban hành 13 văn bản theo thẩm quyền.
  • Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước: soạn thảo 3 nghị định.
  • Bộ Quốc phòng: soạn thảo 306 văn bản, trong đó có 1 dự án luật, 1 pháp lệnh, 4 nghị định, 1 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của Bộ ban hành. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.
  • Bảo hiểm xã hội Việt Nam: soạn thảo 169 văn bản.
  • Tổng cục Hải quan: soạn thảo, tham gia soạn thảo, xây dựng khoảng 200 văn bản, trong đó có dự án Luật Hải quan.
  • Bộ Công an: soạn thảo 234 văn bản trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
  • Bộ Tài chính: Năm 1998 (soạn thảo 7 dự án luật, 4 dự án pháp lệnh, 22 dự thảo nghị định, 12 quyết định, 6 chỉ thị; 86 thông tư và trên 100 quyết định, chỉ thị của Bộ trưởng), năm 1999 (soạn thảo 1 luật, 2 pháp lệnh, 12 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; ban hành 145 thông tư, 155 quyết định của Bộ trưởng), năm 2000 (một số luật theo chương trình, 1 nghị quyết của UBTVQH, 1 pháp lệnh, 8 nghị định, 7 quyết định, 2 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành 109 thông tư, 9 thông tư liên tịch, 180 quyết định, 10 chỉ thị của Bộ trưởng).
  • Thông tấn xã Việt Nam: hàng năm ban hành trên 10 văn bản.
  • Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: soạn thảo 2 dự án luật, 1 pháp lệnh, 46 nghị định, quyết định.
  • Bộ Công nghiệp: đã soạn thảo trình ban hành 2 nghị định, 3 quyết định, 2 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; đang soạn thảo 1 luật, 8 nghị định, 1 quyết định và 1 chỉ thị.
  • Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ: đã soạn thảo trình ban hành 2 dự án pháp lệnh, 14 nghị định, 1 nghị quyết Chính phủ, 22 quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
  • Tổng cục Địa chính: soạn thảo 1 dự án luật, 1 nghị quyết, 5 dự thảo nghị định.
  • Bộ Xây dựng: soạn thảo 1 nghị quyết của UBTVQH, 3 nghị định và nhiều văn bản của Bộ.

Trong 5 năm thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 và Nghị định 101/CP, số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm sau cao hơn năm trước với chất lượng ngày càng tốt hơn. Nội dung của các văn bản ngày càng phong phú, đa dạng, bao quát được hầu hết các lĩnh vực cơ bản, quan trọng của xã hội.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được xem là cỗ máy cái cho hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp tác động đối với hệ thống pháp luật toàn quốc gia. Nhưng do nhiều điều kiện khách quan, chủ quan khác nhau mà cỗ máy đó được chế tạo không phải là đa năng mà chỉ giải quyết một phạm vi công việc nhỏ hẹp nên thực tiễn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua còn nhiều bất cập.

Phạm vi điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn chật hẹp. Chưa quy định thẩm quyền, hình thức ban hành văn bản pháp luật của HĐND, UBND các cấp, các cơ quan trực thuộc.

Quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị Quyết, Nghị định và công tác thẩm tra, thẩm định. Quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị Quyết, Nghị định cần phải được bổ xung hoàn thiện theo hướng quy định rõ hơn trách nhiệm các cơ quan tham gia vào công tác lập dự kiến chương trình. Công tác tổ chức nghiên cứu, khảo sát tình hình liên quan dự án. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Chưa quy định rõ chủ thể tiến hành, phạm vi, kết quả nghiên cứu, khảo sát. Cần phải giải trình, bảo vệ đề án trước một hội đồng liên ngành. Căn cứ vào kết quả giải trình trước hội đồng liên nghành, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định việc đưa văn bản vào chương trình. Hiện nay, công tác lập dự kiến chương trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết chưa được chú trọng. Dẫn đến hiện tượng các luật, pháp lệnh được ban hành rất nhiều trong thời gian qua nhưng số “luật sống” thì rất ít [13, tr 6].

Cùng với việc lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa khoa học như trên thì công tác thẩm định, thẩm tra còn sơ sài; mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc và bắt đầu thực hiện tốt việc kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp. Nhưng quá trình thẩm định còn thiếu tính chuyên môn, chưa tiếp cận sát với thực tiễn nên đưa ra nhiều văn bản pháp luật thiếu tính khả thi thậm chí gây phản ứng khá mạnh mẽ từ nhân dân, các cơ quan nhà nước liên quan, các phương tiện thông tin đại chúng.

Ví dụ: Văn bản của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển quy định về việc đăng ký dự thi tuyển sinh đại học hệ chính quy cho năm học 2002-2003 gây phản ứng từ các trường đại học đặc biệt là Trường cao đẳng sư phạm Hà Nội, các trường dân lập… từ phía các học sinh, qua phóng sự bình luận của Đài truyền hình Hà Nội.

Trong thời gian qua chúng ta đã vượt qua thời kỳ “khủng hoảng thiếu luật”. Vì vậy, đã đến lúc kết thúc thời kỳ “thử, sai, sửa” nếu không chúng ta sẽ bước sang thời kỳ “khủng hoảng thừa luật chết” và nhân dân phải chịu chi phí cao cho những thử nghiệm của các nhà lập pháp. Vì vậy, chất lượng thẩm định cần đặc biệt được chú trọng.

Tiến độ thẩm định còn chậm, do nhiều nguyên nhân: chất lượng dự án, dự thảo gửi thẩm định còn thấp; kỹ thuật soạn thảo chương, mục, điều khoản chưa khoa học, ngôn ngữ diễn đạt thiếu chính xác; đội ngũ chuyên viên thẩm định còn mỏng, thiếu hiểu biết về chuyên môn thuộc lĩnh vực mà văn bản pháp luật đang cần thẩm định trong khi đó thiếu “cơ chế mở” để mời các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn từ các tổ chức, cơ quan khác nhau tham gia thẩm định.

Chưa có quy định cụ thể về quyền hạn của các cơ quan, tổ chức tham gia trong quá trình thẩm định cũng như chịu trách nhiệm cá nhân hay tập thể về kết quả thẩm định sai.

Vai trò của các Uỷ ban của Quốc hội trong quá trình lập pháp .

Nhiệm vụ quyền hạn của các Uỷ ban của Quốc hội trong quá trình soạn thảo, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh chưa được làm rõ. Về lâu dài Quốc hội phải làm tròn bổn phận lập pháp của mình, không thể đẩy công việc soạn thảo và thẩm định của mình cho Chính phủ mà chủ yếu là Bộ Tư pháp như hiện nay. Vì vậy các Uỷ ban của Quốc hội phải được tổ chức một cách khoa học hơn. Song song với việc chuyên nghiệp hoá Quốc hội thì các Uỷ ban phải đặc biệt tăng cường tính chuyên môn bên cạnh tính đại diện (Article 37, Russian Constitution 1993). Mỗi Uỷ ban sẽ bao gồm các đại biểu am hiểu về lĩnh vực tương ứng và đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau về vấn đề tương ứng.

Ví dụ: Uỷ ban về thuế sẽ bao gồm các đại biểu am hiểu về thuế và có đại biểu đại diện cho người sử dụng thuế và người đóng thuế. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Hiện nay, thời gian thảo luận tại phiên họp toàn thể thường ngắn và việc thông qua các đạo luật tại phiên họp toàn thể rất đơn giản, do tính nhất nguyên về lợi ích của các đại biểu trong quốc hội không có gì phải tranh cãi, do trình độ đại biểu thấp không am hiểu để thảo luận. Khi các đại biểu làm đúng bổn phận đại diện và bảo vệ lợi ích cho cử tri thuộc các nhóm lợi ích đối lập nhau thì quá trình thảo luận sẽ không đơn giản như hiện nay mà sẽ gay go, phức tạp, kéo dài, theo tinh thần “mất một ít được một ít” (Give alitle get alitle).

Hiện nay, Hiến pháp và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thảo luận tại các đoàn đại biểu Quốc hội, các tổ đại biểu Quốc hội nhưng ý nghĩa pháp lý của kết quả thảo luận chưa được làm rõ. Việc bảo lưu ý kiến của các đại biểu chiếm thiểu số trong Quốc hội nên được quy định và cần phải công khai các ý kiến và danh sách các đại biểu đó để cử tri biết họ có đại diện, và bảo vệ tốt lợi ích của mình không, họ có thực hiện các lời hứa mà trong chiến dịch vận động tranh cử đã đưa ra hay không.

Việc cọ xát lợi ích tại phiên họp toàn thể của Nghị viện các nước tư bản rất căng thẳng và kéo dài. Để rút ngắn thời gian thảo luận tại phiên họp toàn thể nhưng vẫn bảo đảm chất lượng thảo luận thì các uỷ ban của nghị viện được quy định vai trò rất quan trọng. Sau khi một dự luật được đưa ra lần thứ nhất trước Nghị viện thì nó được đánh số và chuyển cho uỷ ban liên quan. Uỷ ban sẽ tiến hành họp nghe thuyết trình về dự luật lần thứ nhất, sau đó các thành viên có thể nghiên cứu, tìm kiếm các căn cứ để cho việc thông qua hay phủ quyết dự luật. Sau một khoảng thời gian nhất định thì Uỷ ban sẽ tiến hành phiên họp toàn thể. Qua phiên họp toàn thể, dự luật có thể bị loại bỏ hoặc được lên lịch để đưa ra Nghị viện thảo luận thông qua [28, tr 9].

Ngoài ra còn những bất cập lớn như việc lấy ý kiến nhân dân, công bố các văn bản quy phạm pháp luật sẽ được phận tích ở Chương 3.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Các quy định điều chỉnh hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã giải quyết được những vấn đề cơ bản như thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương. Thủ tục xây dựng và ban hành nói chung, đặc biệt là thủ tục xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như luật, nghị định được quy định khá chi tiết và khoa học. Cùng với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996, NĐ 101/CP đã tạo được sự chuyển biến về chất trong hệ thống pháp luật nói chung và trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng. Tính từ năm 1997 đến hết 9/2001, Quốc hội đã ban hành 34 Luật; UBTVQH đã ban hành 40 Pháp lệnh, Chính phủ ban hành hơn 4000 Nghị định và Nghị quyết [15, tr 6]. Hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng, Bộ trưởng đã được ban hành trong thời kỳ này. Trong 4 năm thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 và Nghị định 101/CP, số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm sau cao hơn năm trước với chất lượng ngày càng tốt hơn. Nội dung của các văn bản ngày càng phong phú, đa dạng, bao quát được hầu hết các lĩnh vực cơ bản, quan trọng của xã hội.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được xem là cỗ máy cái cho hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp tác động đối với hệ thống pháp luật toàn quốc gia. Nhưng do nhiều điều kiện khách quan, chủ quan khác nhau mà cỗ máy đó được chế tạo không phải là đa năng mà chỉ giải quyết một phạm vi công việc nhỏ hẹp nên thực tiễn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua còn nhiều bất cập như:

Phạm vi điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn chật hẹp. Chưa quy định thẩm quyền, hình thức ban hành văn bản pháp luật của HĐND, UBND các cấp, các cơ quan trực thuộc.

Quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị Quyết, Nghị định và công tác thẩm tra, thẩm định. Quy trình lập chương trình dự kiến chương trình xây dựng luật pháp lệnh còn chưa cụ thể hoá nên dẫn đến hình thức, làm luật theo kế hoạch mà không cần chờ các quan hệ xã hội phát triển một cách chín muồi, hoặc ngược lại do sự xơ cứng trong trong việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nên dẫn đến những lĩnh vực cần đến sự can thiệp của Nhà nước nhiều hơn lại chưa có luật điều chỉnh. Công tác thẩm tra, thẩm định về các mặt kinh tế, xã hội chưa có các chuyên gia giỏi, hoặc có chuyên gia giỏi nhưng bị các lợi ích khác che lấp, hoặc không có sự kiểm tra chéo giữa các thông tin, quan điểm khác nhau nên đã cho ra đời những văn bản quy phạm pháp luật gây tác hại cho xã hôị.

Vai trò của các Uỷ ban của Quốc hội trong quá trình lập pháp chưa được đánh giá đúng mức dẫn đến chưa phát huy hết vai trò của các uỷ ban này dẫn đến hiện tượng “làm văn tập thể” hay các hiện tượng tương tự làm giảm hiệu quả, lãng phí thời gian của phiên họp toàn thể, đặc biệt trong điều kiện Quốc hội chỉ họp một năm hai lần như ở Việt Nam hiện nay. Hoặc một số hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội rất quan trọng nhưng chưa được luật hoá, dẫn đến khó kiểm soát, có thể biến phiên họp toàn thể thành hình thức, chỉ biểu quyết những việc đã được các uỷ ban sắp xếp trước. Luận văn: Thực trạng pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993