Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư

Ở Việt Nam, pháp luật về luật sư và hoạt động luật sư đã có từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về Tổ chức đoàn thể luật sư đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, quy định việc duy trì tổ chức luật sư trong đó đã có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Đối với các chế định chính điều chỉnh hành vi của luật sư, bao gồm: Pháp lệnh luật sư năm 1995; Pháp lệnh luật sư năm 2001; Luật luật sư năm 2006; Luật luật sư 2006 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2012. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển và hoạt động của luật sư ở nước ta. Sau đó, Pháp lệnh luật sư năm 2001 và Luật luật sư năm 2006 ban hành với các quy định đầy đủ về hành nghề luật sư, điều kiện gia nhập Đoàn luật sư, đặc biệt chú trọng hơn đến tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với luật sư… tạo điều kiện thuận lợi cho nghề luật sư phát triển. Ngoài các Pháp lệnh và Bộ luật nói trên, các quy định pháp luật còn được hướng dẫn chi tiết tại các Nghị định, thông tư do Chính phủ và Bộ tư pháp thông qua nhằm làm rõ hơn việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống. Tuy nhiên, đây chỉ là các văn bản pháp luật quy định về hành nghề luật sư nói chung chứ không phải là các quy định điều chỉnh vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư, các quy phạm được Nhà nước quy đinh cụ thể về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư được nêu trong các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Xử lý vi phạm hành chính là một trong các lĩnh vực cấu thành nên 4 trách nhiệm pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của đất nước. Do đó, xây dựng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đầu tiên ra đời, cho đến nay đã qua mấy lần sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống các vi phạm hành chính cho phù hợp với tình hình thực tế. Có thể kể đến các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định trong hành nghề luật sư ở Việt Nam như sau:

Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh luật sư năm 2001; Nghị định 76 quy định quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp, trong đó có hoạt động luật sư. Cụ thể, quy định về Hành vi vi phạm quy định trong hoạt động hành nghề của luật sư nằm tại Điều 21 của Nghị định.

Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; nhằm thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/07/2009 quy định về xử phạt các hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Cụ thể, hành vi vi phạm quy định trong hoạt động hành nghề của luật sư quy định tại Điều 24 của Nghị định số 60/2009/NĐ-CP. Đây là những hành vi vi phạm do luật sư, bao gồm cả luật sư đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam thực hiện trong quá trình hành nghề luật sư. Các hành vi này được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở Luật luật sư và có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung mới (27 hành vi) so với 07 hành vi vi phạm theo Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, các hành vi được bổ sung mới là những hành vi liên quan đến trách nhiệm báo cáo của luật sư trong quá trình tổ chức và hoạt động hành nghề cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, các hành vi liên quan đến hoạt động hành nghề của luật sư… Điều 24 Nghị định số 60/2009/NĐ-CP chia làm 4 mức phạt trên cơ sở tính chất của hành vi vi phạm. Theo đó, hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động luật sư được quy định xử lý bằng cách áp dụng hình thức xử phạt tiền (thấp nhất là 500.000 đồng và cao nhất là 30.000.000 đồng), hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/06/2012; cùng Luật Luật sư năm 2006 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012; Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Các nội dung về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư được quy định tại Điều 6 của Nghị định này. Các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong hoạt động luật sư được quy định cụ thể từ Điều 5 đến Điều 8 thuộc Mục 1 Chương II tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp.

Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/08/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Nghị định này đã có hiệu lực từ ngày 01/10/2015 vừa qua.

Từ các dữ liệu nêu trên, ta có thể thấy hiện nay, trải qua nhiều sự thay đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, văn bản pháp luật có hiệu lực điều chỉnh các hành vi và hoạt động của luật sư, cũng như quy định biện pháp xử lý các hành vi vi phạm của luật sư tại thời điểm này là: Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Luật luật sư 2006 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2012; Nghị định 110/2013/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay

2.2.1. Tổ chức quản lý, theo dõi và kiểm tra, giám sát vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Về phía các tổ chức xã hội – nghề nghiệp: Từ khi thành lập cho đến nay, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã không ngừng phát triển và củng cố lực lượng luật sư và ảnh hưởng của luật sư đến đời sống xã hội hàng ngày, khẳng định được vai trò quan trọng của hành nghề luật sư trong con đường đi lên của nước ta. Tính đến thời điểm hiện nay, tất cả 63 tỉnh thành trong cả nước đều đã thành lập Đoàn luật sư. Đoàn Luật sư các tỉnh thành thực hiện nhiệm vụ thông báo, báo cáo về hoạt động luật sư tại địa bàn quản lý cũng như các luật sư thành viên của Đoàn cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam để thống nhất việc phối hợp, đồng bộ quản lý luật sư trên cả nước.

Bên cạnh các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, các cơ quan nhà nước cũng tích cực tham gia vào việc áp dụng pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư. Cụ thể, Sở Tư pháp các nơi đã chủ động ban hành Kế hoạch thanh tra một số tổ chức hành nghề luật sư, đồng thời phối hợp với Ủy ban nhân dân các quận, huyện tiến hành kiểm tra một số tổ chức hành nghề luật sư trên các địa bàn.

Phía các cơ quan nhà nước cũng thiết lập được cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp – cơ quan giúp Ủy ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước đối với hoạt động tư pháp – và chính quyền địa phương, đặc biệt là trong công tác thanh tra, kiểm tra đối với luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn quản lý.

Ủy ban nhân dân các quận, huyện chủ động, phối hợp với Sở Tư pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương. Theo đó, Ủy ban nhân dân quận, huyện đã xây dựng các kế hoạch kiểm tra tổ chức và hoạt động các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương mình. Bắt đầu kể từ năm 2013, định kỳ hàng năm, các Ủy ban nhân dân quận, huyện phải thực hiện việc kiểm tra tổ chức và hoạt động tổ chức hành nghề luật sư ứng với tỷ lệ số lượng tổ chức hành nghề luật sư đang hoạt động tại địa phương mình, đây được xác định là một trong những tiêu chí để nhằm đánh giá thi đua của tư pháp quận, huyện.Trên cơ sở công tác kiểm tra này, các Ủy ban nhân dân quận, huyện sẽ thực hiện chế độ báo cáo cho Sở Tư pháp kết quả kiểm tra tổ chức và hoạt động các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương mình.

Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật là phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp, chịu sự quản lý chỉ đạo toàn diện về tổ chức và hoạt động của Giám đốc Sở Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh. Phòng có nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luâṭ về xử lý vi phaṃ hành chinh́ , cụ thể: Theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra và báo cáo công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính tại địa phương; đề xuất việc nghiên cứu, xử lý các quy định xử lý vi phạm hành chính không khả thi, không phù hợp với thực tiễn hoặc chồng chéo, mâu thuẫn với nhau theo quy định của pháp luật; Phổ biến, tập huấn nghiệp vụ áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của địa phương; Thực hiện thống kê về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi quản lý của địa phương; xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính và tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính tại Bộ Tư pháp. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, trong đó có hành nghề luật sư. Thông qua việc theo dõi tinh hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính; chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, Cục đã có những đóng góp nhất định về việc thống kê, kiểm tra và quản lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực luật sư, chỉ ra được các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam.

Thực tiễn triển khai cho thấy cơ chế phối hợp liên ngành đã phát huy được những tác dụng tích cực, giúp cơ quan chức năng có điều kiện để nắm bắt tình hình tổ chức, họat động, những thuận lợi và khó khăn, vướng mắc của tổ chức hành nghề luật sư để có những giải pháp, kiến nghị thiết thực nhằm giúp nâng cao chất lượng họat động của các tổ chức hành nghề luật sư; cũng như kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai sót, vi phạm từ cơ sở góp phần phòng ngừa các vi phạm tương tự, tránh những hậu quả đáng tiếc cho những cá nhân, tổ chức có nhu cầu được cung cấp dịch vụ pháp lý.

Đồng thời qua đó cũng phát hiện, nhân rộng và khen thưởng những luật sư, tổ chức hành nghề luật sư họat động tốt, đúng quy định pháp luật, giúp các tổ chức này hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.

Sở Tư pháp cũng đã chủ động phối hợp với Đoàn luật sư và Hội luật gia nhằm xây dựng Quy chế phối hợp trong công tác quản lý hành nghề luật sư trên địa bàn của mình quản lý. Theo đó, Quy chế phối hợp này tập trung vào các nội dung cơ bản như: cơ chế thông tin; chế độ báo cáo; giám sát hành nghề luật sư; kiểm tra, thanh tra hành nghề luật sư; biện pháp hỗ trợ hành nghề luật sư; hợp tác quốc tế về luật sư và khen thưởng, xử lý vi phạm trong hành nghề luật sư,…

Cho đến nay, Quy chế phối hợp đã tạo được cơ chế phối hợp hiệu quả, phát huy vai trò của các cơ quan phối hợp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật sư là kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, bảo đảm việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.

2.2.2. Thực trạng các hành vi vi phạm và xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Khi người hành nghề luật sư có hành vi vi phạm sẽ chịu sự điều chỉnh của LLS 2012 và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, bao gồm áp dụng các hình thức kỷ luật và các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.

Chương 8 LLS 2012 nêu các điều khoản quy định về Xử lý kỷ luật luật sư; Giải quyết tranh chấp có liên quan đến hành nghề luật sư giữa khách hàng và luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; Xử lý vi phạm đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Trong đó quy định có tất cả 04 hình thức kỷ luật đối với luật sư, gồm: Khiển trách; Cảnh cáo; Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ 6 tháng đến 24 tháng; hoặc Xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.

Theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Chính phủ thì có 24 hành vi được gọi là hành vi vi phạm trong hành nghề luật sư tại Việt Nam; bổ sung thêm 12 loại hành vi so với Nghị định 60/2009 quy định về lĩnh vực này trước đó. Nghị định 110/2013 cũng quy định về 04 biện pháp xử phạt đối với luật sư có hành vi vi phạm, gồm: Phạt tiền; Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư; Xử phạt bổ sung; Biện pháp khắc phục hậu quả.

Việc áp dụng hình thức nào trong 04 hình thức nêu trên còn tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của luật sư. Quyền xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư thuộc thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, cụ thể là Thanh tra viên Tư pháp đang thi hành công vụ, Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, và Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp, Người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của Cục Bổ trợ tư pháp, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp. Quyền xem xét để ra quyết định kỷ luật luật sư thuộc thẩm quyền của Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư theo đề nghị của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật Đoàn luật sư. Trong trường hợp luật sư bị Đoàn luật sư hay Liên đoàn luật sư xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn thì Đoàn luật sư phải thông báo bằng văn bản với Sở Tư pháp và đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, đề nghị Liên đoàn Luật sư Việt Nam thu hồi Thẻ luật sư. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Cụ thể, việc áp dụng biện pháp xử phạt Phạt tiền có 05 mức phạt được phân chia trong khoảng từ 1.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Cụ thể dành cho các hành vi vi phạm như sau:

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng – 3.000.000 đồng đối với một trong các hành không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không thực hiện việc đăng ký hành nghề với cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp chuyển Đoàn luật sư.

Tùy theo cách thức hoạt động trong hành nghề luật sư của mỗi luật sư mà làm thay đổi nội dung trách nhiệm thông báo của họ đối với khách hàng.

Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý có các quyền Thực hiện dịch vụ pháp lý; Nhận thù lao từ khách hàng; Các quyền khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý có nghĩa vụ: Hoạt động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hành nghề luật sư; Thực hiện đúng những nội dung đã giao kết với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý khác; Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; Chấp hành quy định của pháp luật về thuế, tài chính, thống kê; Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra; Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động: thực hiện dịch vụ pháp lý theo nội dung hợp đồng lao động đã giao kết với cơ quan, tổ chức. Quyền, nghĩa vụ của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động, của cơ quan, tổ chức thuê luật sư được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động, Luật Luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Trong trường hợp đang hoạt động ở Đoàn Luật sư này và muốn chuyển sang Đoàn Luật sư khác thì phải báo với cơ quan có thẩm quyền (Sở Tư pháp nơi có Đoàn Luật sư mà bản thân là thành viên) để thực hiện thủ tục chuyển tên. Cụ thể khi Luật sư chuyển từ Đoàn luật sư này sang Đoàn luật sư khác thì phải làm thủ tục rút tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư mà mình đang là thành viên để chuyển sinh hoạt đến Đoàn luật sư mới và được đổi Thẻ luật sư, đảm bảo công tác quản lý và theo dõi đối với các luật sư hành nghề với tư cách cá nhân được thực hiện triệt để, đúng với thực tế.

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng – 7.000.000 đồng đối với một trong các hành sau: Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên; Thành lập hoặc tham gia thành lập từ hai tổ chức hành nghề luật sư trở lên.

Như đã nói ở trên, quyền và nghĩa vụ của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức thuê luật sư được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động, Luật Luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Trường hợp luật sư đã ký hợp đồng lao động với một cơ quan, tổ chức nào đó mà lại làm việc cho một công ty, tổ chức khác nữa thì sẽ bị xử lý theo Luật lao động với tư cách là người lao động và hành vi này sẽ được coi là tự ý phá bỏ hợp đồng lao động.

Phạt tiền từ 7.000.000 đồng – 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: Sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không đăng ký hành nghề tại cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này; Cho người khác sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam để hành nghề luật sư.

Chứng chỉ hành nghề luật sư, Giấy đăng ký hành nghề luật sư, Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, Giấy chứng nhận người bào chữa là những giấy tờ mang giá trị pháp lý của những người hành nghề luật sư ở Việt Nam. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Chứng chỉ hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. Chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.

Theo quy định của Luật Luật sư thì Chứng chỉ hành nghề luật sư chỉ là một trong những điều kiện để được phép hành nghề luật sư; khi đã có Chứng chỉ hành nghề luật sư còn phải gia nhập Đoàn luật sư và được Liên đoàn luật sư cấp Thẻ luật sư thì mới được phép hành nghề luật sư.

Về Giấy đăng ký hành nghề luật sư, Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam được quy định: Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân phải có hồ sơ đăng ký hành nghề luật sư gửi Sở Tư pháp. Hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân (theo mẫu); Bản sao chứng chỉ hành nghề luật sư, thẻ luật sư của luật sư đăng ký hành nghề (bản sao có chứng thực, hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu); Giấy tờ chứng minh địa điểm giao dịch (Đối với trường hợp thuê, mượn trụ sở thì trong hợp đồng phải ghi cụ thể vị trí, diện tích và mục đích thuê, mượn; trường hợp sử dụng nhà riêng để làm trụ sở thì phải có văn bản xác định cụ thể vị trí, diện tích dùng làm trụ sở) . Tất cả giấy tờ phải thực hiện theo mẫu di chúc quy định tại Thông tư số 02/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/01/2015 Quy định một số mẫu giấy tờ về luật sư và hành nghề luật sư, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/03/2015. Sau khi nhận đủ hồ sơ, Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hành nghề luật sư; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.

Luật sư hành nghề mà không có Giấy đăng ký hành nghề luật sư tức là chưa không đăng ký hành nghề tại cơ quan có thẩm quyền, nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước và tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tức hành nghề trái quy định pháp luật.

Về Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư tùy theo yêu cầu của khách hàng mà thay đổi vai trò của mình khi tham gia tố tụng. Luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Luật sư cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. (Điều 22 LLS 2012)

Dù với vai trò nào, luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng thì đều phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật luật sư. Khi tham gia tố tụng với tư cách như đã nêu ở trên, Luật sư cần xuất trình Thẻ luật sư và Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc của người khác hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.

Hành vi cho người khác sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam để hành nghề luật sư là hành vi tiếp tay cho người khác hành nghề trái pháp luật, thậm chí có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Bởi người có hành vi mượn giấy phép hành nghề luật sư của người khác chắc chắn là người chưa có đủ điều kiện hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề của bản thân người đó đang có vấn đề gì đó. Tuy nhiên, với bất kỳ lý do nào, tham gia các hoạt động với tư cách là luật sư trong khi không có giấy phép hành nghề của chính bản thân người thực hiện là hành vi trái pháp luật, cả người cho mượn và người sử dụng nó đều có lỗi.

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng – 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: Luật sư hành nghề khi chưa được cấp giấy đăng ký hành nghề luật sư; chưa được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc sử dụng giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam của người khác để hành nghề luật sư; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa giả.

Vấn đề sử dụng Giấy đăng ký hành nghề luật sư không phải của mình và hoạt động với tư cách luật sư khi chưa được cấp Giấy phép đã được nêu và phân tích theo Khoản 3 như trên. Để làm rõ hơn các hành vi và việc xử phạt đối với nó, xin phép được nêu ví dụ có thật trong thực tế như sau: Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Ví dụ: Ngày 13/01/2014, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai ra Quyết định số 15/QĐ-STP về việc kiểm tra đột xuất tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Văn phòng luật sư. Qua kiểm tra, Sở đã phát hiện một cá nhân chưa có chứng chỉ hành nghề luật sư là nhân viên được Trưởng chi nhánh văn phòng luật sư Trương Thị Bích Thu ủy quyền quản lý chi nhánh đã thực hiện hành vi “Hành nghề luật sư khi chưa có chứng chỉ hành nghề luật sư”; vi phạm Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của Chính phủ. (1)

Ngày 11/03/2014, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai ra thông báo “Kết quả kiểm tra đột xuất về tổ chức và hoạt động của chi nhánh Văn phòng luật sư”, trên cơ sở đó, Thanh tra Sở Tư pháp đã ra quyết định xử phạt 07 triệu đồng đối với Chi nhánh Văn phòng luật sư Trương Thị Bích Thu. Đồng thời, Sở đã tham mưu Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai quyết định xử phạt hành chính 20 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm nói trên.

Như vậy, có thể thấy từ vụ việc trên cả phía cho phép người chưa có giấy phép hành nghề luật sư và cả cá nhân không có giấy phép hành nghề luật sư đều bị xử lý vi phạm hành chính, tùy vào từng trường hợp và mức độ tham gia, thực hiện các hoạt động pháp lý dưới danh nghĩa luật sư của cá nhân vi phạm mà quyết định mức phạt hành chính. Cụ thể ở vụ việc trên, Văn phòng nơi cho phép người vi phạm thực hiện hoạt động với tư cách luật sư áp dụng Điểm d Khoản 3 Điều 6 Nghị định 110/2013 với mức phạt từ 7.000.000 – 10.000.000 đồng; cá nhân vi phạm áp dụng Điểm c Khoản 4 Điều 6 Nghị định 110/2013 với mức phạt từ 10.000.000 – 20.000.000 đồng.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng – 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: Làm giả chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; Mạo danh luật sư để hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào; Cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước; Sách nhiễu, lừa dối khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; Hành nghề luật sư khi không có chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chưa gia nhập Đoàn luật sư.

Tương tự như hành vi sử dụng giấy tờ, chứng chỉ hành nghề của người khác; hành vi làm giả và sử dụng giấy tờ, chứng chỉ liên quan đến hành nghề luật sư cũng là hành vi vi phạm hành chính. Người làm giả sẽ bị xử phạt 20.000.000 – 30.000.000 đồng; còn người sử dụng nó sẽ bị xử phạt từ 10.000.000 – 20.000.000 đồng.

Mạo danh luật sư để hành nghề luật sư tức là người không phải là luật sư, chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là luật sư, thực hiện và tham gia vào các hoạt động với tư cách là luật sư như: tư vấn pháp lý, đại diện, bào chữa cho khách hàng trong các giao dịch và tranh chấp tại Tòa án,… Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước: là các hành vi mang lỗi cố ý và nhằm mục đích kéo dài thời gian để có lợi cho mình cũng như gây khó khăn đối với các hoạt động của Nhà nước như việc điều tra, xác minh vụ việc, truy tìm chứng cứ của phía cơ quan điều tra,…

Sách nhiễu, lừa dối khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý: đây là các hành vi không chỉ là vi phạm hành chính mà còn có thể dẫn đến trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả đáng kể. Bất cứ khoản tiền nào phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng đã ký kết mà nằm ngoài nội dung hợp đồng đó thì bị coi là khoản thu bất hợp pháp, tùy vào từng trường hợp cụ thể và hậu quả của hành vi mang lại mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xử lý đối với luật sư vi phạm.

Ví dụ: Vụ việc tại thành phố Hồ Chí Minh, bà H. gửi đơn tố cáo luật sư S. nhận tiền nhưng không làm hết trách nhiệm của người được ủy quyền. Nguyên đầu năm 2008, bà cho vay 350 triệu đồng nhưng người vay không trả nên bà tìm đến luật sư S. nhờ hỗ trợ pháp lý. Theo hợp đồng, luật sư S. sẽ làm đại diện theo ủy quyền cho bà, thù lao là 10% giá trị tài sản, tương ứng 35 triệu đồng (luật sư lấy trước 10 triệu đồng, khi có kết quả xét xử sẽ giao đủ 25 triệu đồng). (2)

Sau đó, người vay tiền mang 50 triệu đồng trả cho bà H. nên bà gọi điện thoại báo cho luật sư S. rút bớt số tiền khởi kiện xuống còn 300 triệu đồng. Lúc này luật sư S. ra điều kiện nếu đòi được phải chia đôi số tiền trên nhưng bà không đồng ý. Tiếp đó luật sư S. yêu cầu bà đưa thêm 10 triệu đồng để đóng tạm ứng án phí. Ít lâu sau, thấy không có tin tức gì, bà H. liên tục gọi điện thoại hỏi thăm về tiến độ vụ án thì luật sư S. nói rằng chờ tòa giải quyết. Chờ mãi đến khi hết cả thời hiệu khởi kiện nhưng vẫn không thấy gì, bà H. tìm hiểu thì mới biết luật sư S. chưa đóng tạm ứng án phí. Theo bà H., việc luật sư S. lấy của bà 20 triệu đồng trong gần một năm nhưng không làm hết trách nhiệm như hợp đồng, để bà mất quyền khởi kiện đòi nợ là vi phạm Luật Luật sư và gây thiệt hại lớn cho bà. Bà đã gửi đơn khiếu nại đến Đoàn luật sư thành phố, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Theo đó, có thể thấy hành vi của luật sư này có dấu hiệu vi phạm Điều 9 Luật Luật sư (sách nhiễu lừa dối khách hàng) và Điểm d Khoản 5 Nghị định 110/2013, các cơ quan và chức danh có thẩm quyền có thể xử lý hành vi của luật sư S. với mức phạt hành chính từ 20.000.000 – 30.000.000 đồng và kèm theo các hình thức xử lý khác.

Ví dụ: Ngày 05/07/2015, tin từ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC46), Công an TP.HCM cho biết Cơ quan CSĐT Công an thành phố đang thụ lý điều tra vụ án Thiệu Quang Đạt cùng đồng bọn về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại một văn phòng luật sư trên đường Quang Trung, P.8, Q.Gò Vấp. (3)

Quá trình điều tra ban đầu xác định, trong quá trinh̀ giải quyết môṭ vu ̣án , tại văn phòng luật sư Khánh Trần (số1122/37, Quang Trung, phường 8, quâṇ Gò Vấp ), đối tượng Thiệu Quang Đạt cùng với luật sư Trần Lê Tiến (SN 1979, nguyên quán Hà Tinh̃ , ngụ TP. Hải Phòng) đa ̃đưa thông tin sai sư ̣thâṭ về viêc̣ 3 bị cáo Hoàng Văn Ngọc, Hoàng Văn Bích và Trần Văn Hùng bị oan sai. Đồng thời, luật sư Tiến cùng đồng phạm còn khẳng định rằng 3 bị cáo sẽ đươc̣ tuyên vô tôị, trả tự do trong phiên phúc thẩm ngày 09/12/2013 tại TAND tỉnh Bình Dương . Tin tưởng, anh Nguyễn Văn Thuận (là người thân các bị cáo) tiến hành ký hợp đồng dịch vụ pháp lý và giao 1,2 tỷ đồng để luật sư Trần Lê Tiến tham gia bào chữa cho 3 bị cáo. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền Luật sư Tiến không tham gia thực hiện bào chữa và ôm tiền bỏ trốn.

Vụ việc đã được Đoàn luật sư báo cáo với Liên đoàn luật sư Việt Nam và Sộ tư pháp để yêu cầu xử lý. Sau khi xem xét hồ sơ vụ việc, cơ quan thanh tra Sở tư pháp chuyển hồ sơ cho phía cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố đã có quyết định khởi tố vụ án và được Thanh tra Sở Tư pháp chuyển toàn bộ tài liệu về việc vi phạm hành chính để tiếp tục xử lý vụ việc. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Ngoài biện pháp áp dụng hình thức xử phạt tiền với 05 mức phạt nêu trên, Nghị định còn quy định thêm các hình thức xử phạt vi phạm hành chính khác trong hành nghề luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân có hành vi phạm. Cụ thể như sau:

Hình thức xử phạt Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam từ 06 tháng đến 12 tháng được áp dụng đối với một trong các hành vi sau: Thực hiện dịch vụ pháp lý mà không ký hợp đồng bằng văn bản hoặc ký hợp đồng thiếu một trong các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 26 của Luật luật sư; Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ, việc; Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật; Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của pháp luật.

Thực hiện dịch vụ pháp lý mà không ký hợp đồng bằng văn bản hoặc ký hợp đồng thiếu một trong các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 26 của Luật luật sư: Trong đó quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được làm thành văn bản và có những nội dung chính như sau: Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi phí (nếu có); Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp.

Như vậy, bất cứ hoạt động nào của luật sư trong mối quan hệ với khách hàng đều phải được lập thành văn bản hợp đồng với những điều khoản cụ thể, rõ ràng như đã nêu trên, việc thiếu bất cứ một Điểm nào thuộc các mục trên thì đều bị coi là hợp đồng trái pháp luật, và chính luật sư là người phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc này bởi họ là bên chủ động trong việc xây dựng hợp đồng với khách hàng.

Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ, việc: nhiệm vụ của Luật sư là dựa trên những tình huống, thông tin mà khách hàng cung cấp, Luật sư đưa ra lời khuyên, tiên liệu được rủi ro, đề ra được giải pháp, chỉ dẫn cho khách hàng một hành lang an toàn pháp lý. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Xung đột theo nghĩa nêu trong từ điển là sự va chạm, tranh giành giữa những cá nhân, nhóm người hay tập đoàn người vì những mâu thuẫn đối địch về tư tưởng, ý thức hệ, hoặc về quyền lợi vật chất, …

Việc mâu thuẫn về lợi ích có thể phát sinh sau khi bắt tay vào công việc. Luật sư phải ngừng ngay công việc cho các bên khách hàng khi phát hiện có sự phát sinh đối kháng về quyền lợi giữa các khách hàng này. Một luật sư không thể cùng tư vấn và đồng bảo vệ cho hai bên có quyền lợi đối lập nhau, mâu thuẫn giữa hai bên là đối kháng về lợi ích hợp pháp. Đây không chỉ là quy định pháp luật mà còn là một trong nhưng nguyên tắc riêng của lĩnh vực hành nghề Luật sư – “Nguyên tắc tránh xung đột lợi ích trong tư vấn pháp luật” – mỗi một luật sư có trách nhiệm phải biết và phải thực hiện.

Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật: đây bị coi là hành vi vi phạm bởi nó sẽ tác động xấu đến quá trình xác minh, đánh giá sự việc và kết quả cuối cùng được đưa ra bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Một phán xét của Tòa án có chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc một phần vào hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ công lý. Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ giả và lời khai trái với sự thật là vi phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức liên quan trong vụ việc đang được làm rõ. Luật sư phải lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý. Do đó, việc luật sư – những người được công nhận là có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền Tư pháp, bảo vệ các quyền cơ bản của con người – có hành vi dẫn đến hậu quả xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác là đã đi ngược lại vị trí, vai trò và chức năng của mình đối với xã hội.

Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác: nhìn chung, luật sư khi đã được khách hàng lựa chọn và gửi gắm để giải quyết các vấn đề pháp lý mà mình gặp phải thường chia sẻ và tiết lộ gần như toàn bộ thông tin về vụ việc của mình, trong đó có thể bao gồm cả thông tin đời tư. Những thông tin này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, trong mối quan hệ theo sự việc. Việc luật sư làm lộ ra những thông tin mà khách hàng đã cho mình được biết mà không được sự đồng ý và chấp thuận từ phía khách hàng là vi phạm nghiêm trọng một trong các nguyên tắc hành nghề Luật sư. Nguyên tắc khi gặp gỡ khách hàng của luật sư là tạo được lòng tin với khách hàng, có như vậy khách hàng mới yên tâm bày tỏ hết tâm tư, nguyện vọng để luật sư có thể nắm bắt, nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ khác nhau. Do đó, cần có chế tài quy định về vấn đề này để mỗi người dân có thể yên tâm mỗi khi tìm đến những người có thể giúp đỡ mình về mặt pháp lý, đây cũng là quy định nhằm bảo vệ đời tư cá nhân và bất khả xâm phạm của con người. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của pháp luật: từ lý luận và thực tiễn có thể thấy, luật sư là người tiếp xúc nhiều với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo luật định, cụ thể là những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, bao gồm những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong mỗi vụ việc và các cán bộ, công chức Nhà nước được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động trong quá trình giải quyết các vụ việc. Đây là hành vi tiếp tay cho tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp, việc móc nối quan hệ nhằm thay đổi sự thật hay làm sai lệch trong việc xác minh sự việc sẽ ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan đến vụ việc.

Về Hình thức xử phạt bổ sung, nếu luật sư có hành vi vi phạm tại các khung phạt tiền thì còn bị áp dụng các hình thức xử phạt khác cụ thể như sau: Thứ nhất, Tước quyền sử dụng Chứng Chỉ Hành Nghề Luật sư, Giấy Đăng Ký Hành Nghề Luật sư hoặc Giấy Phép Hành Nghề Luật sư tại Việt Nam từ 01 tháng đến 03 tháng. Thứ hai là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ hủy bỏ tất cả các giấy từ giả này như một biện pháp khắc phục hậu quả. Đối với hành sử dụng số giấy tờ giả này, người vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ nó. Cuối cùng, một số hành vi vi phạm khác thì bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi đã vi phạm.

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

2.3.1. Ưu điểm

2.3.1.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được thể hiện tương đối tập trung, đầy đủ và rõ ràng

Nghiên cứu hệ thống các quy định hiện hành liên quan đến thẩm quyền XPVPHC cho thấy các chức danh có thẩm quyền xử phạt đã được quy định tương đối đầy đủ. Ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực quản lí nhà nước đều có các chức danh được trao thẩm quyền tiến hành hoạt động này. Đó là điều kiện quan trọng bảo đảm phát hiện nhanh chóng và xử lí kịp thời mọi trường hợp phạm, đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc thứ nhất trong xử lí vi phạm hành chính là “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay…”. LXLVPHC và Nghị định 110/2013, Nghị định 67/2015 đã quy định cụ thể về những người có thẩm quyền và trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính đồng thời phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh theo từng hoạt động, từng lĩnh vực và theo mức tiền phạt, điều này giúp cho việc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư dễ dàng hơn.

Thứ nhất, các quy định tại Nghị định 110/2013 đã phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh theo từng hoạt động, từng lĩnh vực và theo mức tiền phạt, trong đó có hành nghề luật sư.

Nghị định quy định thẩm quyền xử phạt cho từng chức danh cụ thể từ Điều 66 đến Điều 70, đó là Chủ tịch Ủy ban nhân các cấp, thanh tra Bộ Tư pháp; thanh tra sở Tư pháp; Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Chi cục trưởng cơ quan thi hành án dân sự các cấp; Trưởng phòng Thi hành án dân sự cấp quân khu; chấp hành viên thi hành án dân sự; người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được uỷ quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản; Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Chánh toà chuyên trách Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Chánh toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao.

Nghị định cũng quy định chi tiết về thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp để bảo đảm phù hợp với tinh thần Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Về mức phạt tiền của từng chức danh có thẩm quyền xử phạt, căn cứ thẩm quyền và mức phạt tiền tối đa đối với từng lĩnh vực được quy định tại Điều 24 LXLVPHC, Nghị định đã cụ thể hóa mức phạt tiền của từng chức danh trong từng lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt. Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền về mức phạt này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân trong hành nghề luật sư. Đồng thời, căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định về quản lý nhà nước tại các văn bản pháp luật có liên quan, Điều 72 của Nghị định đã phân định rõ ràng thẩm quyền xử phạt của từng chức danh để đảm bảo phù hợp với lĩnh vực được quy định tại các Chương của Nghị định.

Thứ hai, có sự phân hóa rõ ràng trong các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ ràng trong LXLVPHC là căn cứ quan trọng và điều kiện thuận lợi để quy định cụ thể trong các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước. Các quy định về cơ bản đã bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật quy định về thẩm quyền xử phạt. Việc quy định thêm chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số đạo luật đã phần nào đáp ứng đòi hỏi của quản lí nhà nước, kịp thời trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lí chuyên ngành cho các chức danh mà LXLVPHC chưa quy định. Có thể thấy rõ sự phân hoá trong các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Người giữ chức vụ cao hơn được trao thẩm quyền rộng hơn; thẩm quyền của chủ tịch uỷ ban nhân dân được quy định tương đối toàn diện hơn các chức danh hoạt động trong từng ngành hoặc lĩnh vực quản lí cùng cấp; mức tiền phạt trong các lĩnh vực quản lí khác nhau cũng được quy định khác nhau cho phù hợp với đặc thù của lĩnh vực. Nhìn chung, các quy định hiện hành đi theo hướng trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính gắn với thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra (trừ các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ở cấp thấp). Điều đó góp phần quan trọng trong việc giáo dục, răn đe người vi phạm, bảo đảm khắc phục hậu quả của vi phạm đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp người có thẩm quyền xử phạt đỡ lúng túng trong việc xác định vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong đánh giá kết quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung cũng như xác định trách nhiệm của cấp dưới trong những vụ việc cụ thể.

Thứ ba, pháp luật cũng quy định cụ thể về những người có thẩm quyền và trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính.

Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã quy định cụ thể về những người có thẩm quyền và trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính, gồm 02 nhóm: người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định mà đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và công chức, viên chức đang thi hành công vụ, nhiệm vụ cũng có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Nghị định cũng quy định cụ thể từng lĩnh vực mà người có thẩm quyền lập biên bản vừa theo cấp hành chính từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và tới cấp trung ương lại vừa theo lĩnh vực quản lý ngành. Điều này giúp bảo đảm nguyên tắc mọi vi phạm hành chính được phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời qua đó bảo đảm tính khả thi của Nghị định. Đồng thời, việc giới hạn người có thẩm quyền lập biên bản là công chức, viên chức đang thi hành công vụ, nhiệm vụ còn có ưu điểm là tránh được khả năng lập biên bản vi phạm hành chính tràn lan, thuận tiện cho công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính.

2.3.1.2. Các quy định về hình phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp

Đối với hình phạt chính: nhiều hành vi vi phạm hành chính quy định trong Nghị định số 60/2009/NĐ-CP cũ còn chung chung, chưa làm rõ được mức độ của hành vi vi phạm từ ít nghiêm trọng, nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng do đó có những tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính ở nhiều mức độ nguy hại cho xã hội khác nhau nhưng đều cùng chịu một mức phạt tiền giống nhau. Do đó, mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng trong Nghị định trước đó còn thấp, chưa đủ sức răn đe nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân. Khắc phục tình trạng trên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã tăng mức phạt đối với các hành vi phạm cho phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tránh tình trạng mức phạt không tương xứng với các khoản thu từ các hợp đồng dịch vụ của các tổ chức công chứng, luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu giá… Nghị định số 110/2013/NĐ-CP cũng quy định phân biệt rõ mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức. Đồng thời, đề cao tính nghiêm khắc và răn đe của pháp luật, Nghị định cũng quy định một số trường hợp sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt chính là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ, thẻ có thời hạn từ 06 tháng đến 24 tháng.

Việc quy định các hình thức xử phạt chính như trên cũng là một trong những ưu điểm của Nghị định 110 so với Nghị định 60 trước đó, điều này có ý nghĩa quan trọng, vừa bảo đảm tính bình đẵng giữa các tổ chức với tổ chức, cá nhân với cá nhân hoạt động trong cùng một lĩnh vực đồng thời bảo đảm tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân là đối tượng bị xử phạt. Qua đó tác động tích cực đối với việc bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của những công dân tham gia vào hoạt động tư pháp, góp phần mang lại hiệu quả ngày càng cao đối với lĩnh vực tư pháp, là hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân tuân thủ pháp luật nghiêm minh. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Đối với hình phạt bổ sung: Hình thức xử phạt bổ sung được quy định là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ, thẻ có thời hạn hoàn toàn phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Có thể thấy, mặc dù mới qua 3 năm triển khai thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, song đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, góp phần đảm bảo tính pháp quyền của thế chế. Tuy nhiên, quá trình thực thi đã bộc lộ những bất cập, nhất là việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, công tác báo cáo thống kê và một số văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời. Sau đây xin nêu lên mặt hạn chế của pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay

2.3.2. Hạn chế

2.3.2.1. Một số quy định pháp luật chưa rõ ràng, chồng chéo gây lúng túng cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng

Việc quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt hiện nay chủ yếu được tiến hành theo phương pháp liệt kê. Ưu điểm của phương pháp này là chỉ ra cụ thể những người có thẩm quyền xử phạt và các hình thức xử phạt, các biện pháp hành chính khác mà họ được quyền áp dụng. Đó là bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và tránh hiện tượng tuỳ tiện trong xử phạt. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có điểm yếu của nó bởi mỗi khi có cơ quan quản lí chuyên ngành mới được thành lập lại xuất hiện nhu cầu bổ sung chức danh có thẩm quyền xử phạt.

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định chưa phân rõ theo từng hành vi của các chức danh mà chủ yếu quy định lại nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Các quy định hiện hành về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chưa thực sự gắn thẩm quyền xử phạt của các chức danh với hành vi hoặc nhóm hành vi nhất định. Hạn chế này khiến các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong những ngành có phạm vi quản lí bao gồm nhiều lĩnh vực rất lúng túng trong xác định thẩm quyền trong vụ việc cụ thể. Trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính theo hướng xây dựng các bộ quản lí đa ngành, đa lĩnh vực thì hạn chế này càng thể hiện rõ. Việc soạn thảo nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực được giao cho cơ quan quản lí nhà nước theo ngành, lĩnh vực chủ trì và hệ quả đương nhiên là nhiều nghị định chỉ quy định thẩm quyền xử phạt cho các chức danh trong phạm vi ngành, lĩnh vực tương ứng, không có những quy định về phân định thẩm quyền cũng như về thẩm quyền của các chức danh thuộc ngành, lĩnh vực khác mà hoạt động quản lí có liên quan chặt chẽ với nhau và đòi hỏi sự phối hợp thường xuyên. Cụ thể trong lĩnh vực luật sư, Nghị định 110/2013/NĐ-CP là một trong số những Nghị định có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong 05 lĩnh vực khác nhau bao gồm: bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến quá tải về số lượng vụ việc trong một số ngành, lĩnh vực và khó khăn trong việc phối hợp giữa các chức danh có thẩm quyền xử phạt thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Trong các quy định về thẩm quyền xử phạt của các chức danh cấp cơ sở cũng có những điểm bất cập. Các chức danh cấp cơ sở – những người trực tiếp thi hành công vụ – là lực lượng đông đảo nhất và hoạt động thường xuyên nhất trong lĩnh vực kiểm tra, phát hiện vi phạm nhưng thẩm quyền xử phạt của họ được quy định rất thấp. Thẩm quyền xử phạt của các chức danh cấp cơ sở được quy định quá thấp và phần lớn trong số họ không được áp dụng hình thức phạt bổ sung cũng như biện pháp khắc phục hậu quả nên những vụ việc phải chuyển lên cấp trên vì vượt quá thẩm quyền chiếm tỉ lệ khá cao. Riêng đối với lực lượng thanh tra chuyên ngành thì bất cập còn thể hiện rõ hơn. Một số quy định mức phạt thấp nhất đã cao hơn mức mà thanh tra viên chuyên ngành có quyền áp dụng nên họ không được xử phạt mà chỉ có thể áp dụng biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm.

Theo Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định Thủ trưởng các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Bên cạnh đó, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ lại chưa quy định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các chức danh trên.

Thực tế Thanh tra viên Tư pháp khi đang thi hành công vụ cũng rất khó thực hiện được thẩm quyền xử phạt với hình thức phạt tiền. Bởi lẽ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 67 Nghị định 110, Thanh tra viên Tư pháp chỉ có thể phạt tiền đến 500.000 đồng với hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp trong khi các hành vi vi phạm hành chính quy định trong Nghị định đều có mức tiền phạt cao hơn thẩm quyền xử phạt của Thanh tra viên Tư pháp.Việc giải quyết vụ việc phải chuyển lên cho cấp trên của họ. Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến quá tải công việc cho chánh thanh tra cấp bộ, cấp sở.

Thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính còn gặp khó khăn do một số nội dung quy định chưa đầy đủ, chưa tính hết mọi khía cạnh có thể nảy sinh khi áp dụng. Ví dụ, LXLVPHC quy định việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thể có thời hạn hoặc không thời hạn nhưng không quy định rõ trong những trường hợp nào thì được tước quyền không thời hạn và trong những trường hợp nào thì chỉ có thể tước quyền có thời hạn. Đối với biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, việc áp dụng cũng gặp khó khăn tương tự.

Vấn đề xác định thẩm quyền xử phạt và thực hiện các quy định về xác định thẩm quyền xử phạt cũng không đơn giản. Trong một số trường hợp rất khó xác định thẩm quyền do có những hành vi vi phạm có thể thuộc nhiều lĩnh vực quản lí nhà nước.

2.3.2.2. Về hình thức chế tài hành chính Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Các quy định về hình thức chế tài hành chính và thực tế thực hiện các quy định đó trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính hiện nay đang nảy sinh những bất cập và vướng mắc làm hạn chế đến hiệu lực và hiệu quả của công tác này và đòi hỏi sớm được khắc phục đó là:

Thứ nhất, về các hình thức phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện. Đây là hình thức phạt truyền thống. Do trên thực tiễn việc áp dụng hình thức phạt này so với phạt tiền là rất ít cũng như do nhận thức coi nhẹ hình thức này cho rằng nó không đạt mục đích của chế tài nên có nhiều ý kiến đang muốn đưa ra khỏi hệ thống chế tài phạt hành chính. Tuy nhiên, mục đích của xử phạt hành chính không phải nhằm mục tiêu chính là trừng trị đối với người vi phạm mà cái chính là nhắc nhở, giáo dục việc tôn trọng và chấp hành trật tự quản lí nhà nước.

Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo sẽ làm cho người vi phạm thấy được sự nghiêm minh cũng như độ lượng của pháp luật mà trở nên cẩn trọng tự giác chấp hành pháp luật hơn. Nhiều khi phạt cảnh cáo có hiệu quả hơn phạt tiền tràn lan. Tuy nhiên, hiện tại việc quy định cơ sở cũng như đối tượng áp dụng phạt cảnh cáo trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính chưa rõ ràng dẫn đến khó vận dụng.

Điều kiện áp dụng phạt cảnh cáo được quy định chung chung trong LXLVPHC và các nghị định sau đó đều ghi lại giống như bộ luật mà không quy định một cách chi tiết cụ thể. Vi phạm lần đầu thì có thể hiểu được nhưng thế nào là vi phạm nhỏ, có tình tiết giảm nhẹ thì chưa được giải thích. Các quy định chung chung này dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng truy cứu trách nhiệm hành chính tại các văn bản xử phạt trong từng lĩnh vực. Đấy là chưa kể nhiều văn bản hướng dẫn thi hành lại tự đưa ra điều kiện khác như “chưa gây hậu quả và chưa đến mức cần phải phạt tiền” càng làm cho vấn đề rối thêm.

Trong phạt tiền, điều quan trọng là phải phân định rõ khung tiền phạt. Các mức phạt tiền đối với các vi phạm hành chính cụ thể được quy định trong luật và các nghị định hiện tại nhìn chung còn rất chung chung, chưa cụ thể. Ở LXLVPHC 2012 chỉ mới quy định mức phạt tiền tối đa áp dụng cho các lĩnh vực quản lí nhà nước (5 nhóm lĩnh vực), còn ở các nghị định mặc dù có kê ra các hành vi vi phạm và mức phạt nhưng mức độ phân loại cũng chưa cụ thể và mức phạt từ tối thiểu đến tối đa là khá xa. Quy định như vậy rõ ràng là gây khó khăn cho việc áp dụng khi truy cứu trách nhiệm hành chính.

Điều này dễ gây ra sự tùy tiện trong việc quyết định mức xử phạt. Có những hành vi vi phạm hành chính như nhau, cùng thời điểm song ở các địa điểm khác nhau và người xử lí khác nhau sẽ có mức phạt khác nhau. Cần thiết phải chia nhỏ khung phạt tiền để áp dụng thống nhất và đúng đắn hơn. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Điều kiện và đối tượng áp dụng hình thức phạt tiền cũng chưa được quy định rõ và hợp lí. Theo quy định thì phạt cảnh cáo áp dụng đối với vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và mọi vi phạm của người vị thành niên từ 14 đến 16 tuổi còn lại là phạt tiền. Vậy phân biệt thế nào giữa các vi phạm hành chính nhỏ và lớn để mà phạt cảnh cáo hay phạt tiền? Một số điểm về tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ cũng chưa được rõ và cũng không thống nhất giữa các văn bản.

Thứ hai,về hai hình thức phạt: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính: LXLVPHC 2012 hiện hành quy định: “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề”. Tuy nhiên, vi phạm nghiêm trọng đến mức độ nào thì tước quyền đó và khi nào thì có thời hạn, khi nào thì không thời hạn lại chưa được các văn bản của Chính phủ quy định cụ thể. Chính “điểm trống” này đang tạo ra hành vi tùy tiện và không công bằng trong truy cứu trách nhiệm hành chính; hình thức phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để phạm hành chính cũng cần được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn trên tinh thần của xử phạt hành chính là không nên có các biện pháp thái quá không tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm hành chính, với nguyên tắc không tịch thu toàn bộ, phải để cho người vi phạm có điều kiện sinh sống để tránh sự áp dụng tràn lan, đôi khi lạm dụng, tùy tiện như vẫn thấy.

Thứ ba, về các biện pháp khắc phục hậu quả: Về bản chất đây là các biện pháp kèm theo các hình thức phạt chính và bổ sung. Pháp lệnh quy định biện pháp khắc phục và trao cho Chính phủ khả năng quy định những biện pháp khác. Bản thân các biện pháp này đã là rất chung, cần được cụ thể hơn nữa. Song trong các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không quy định cụ thể hơn nội dung trong LXLVPHC.

Thứ tư, về số lượng và hình thức các chế tài: Hệ thống hình thức xử phạt vi phạm hành chính hiện tại còn quá hẹp về số lượng và loại hình chưa đủ để có thể đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính.

Trong các hình thức được quy định tại Mục 1 Chương I Phần thứ 2 của LXLVPHC gồm 09 hình thức, biện pháp thì chỉ có 05 hình thức là mang tính chất xử phạt còn 04 biện pháp khắc phục hậu quả chỉ mang ý nghĩa giải quyết hậu quả. Cần thiết phải mở rộng các hình thức chế tài đó. Kinh nghiệm nước ta và kinh nghiệm các nước cho thấy còn có nhiều hình thức xử phạt hành chính hiệu quả mà ta cần nghiên cứu vận dụng.

Thứ năm, về việc quy định hai hình thức phạt bổ sung: Hai hình thức phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính chỉ được áp dụng cùng với hình thức phạt chính trên thực tế là không phù hợp. Nhiều trường hợp, đối tượng vi phạm bỏ chạy nên không áp dụng được hình phạt chính, từ đó cũng không thể áp dụng hình thức phạt bổ sung được. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

2.3.2.3. Một số hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng và thiếu căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính

Trong lĩnh vực luật sư, Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định một số hành vi vi phạm quy định về hành nghề luật sư như “cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước”, … nhưng lại chưa mô tả được hành vi vi phạm cụ thể, rõ ràng. Điều này dẫn đến những tranh luận và khó thống nhất trong việc ra quyết định xử phạt.

Bên cạnh đó, quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 7 Nghị định 110 về hành vi “không lập, quản lý, sử dụng các loại sổ sách, biểu mẫu về tổ chức và hoạt động luật sư” hiện tại không còn phù hợp với pháp luật luật sư.

Ngoài ra, một số hành vi vi phạm xảy ra nhiều trên thực tế nhưng chưa được Nghị định 110 đề cập đến nên không có cơ sở xử phạt như: Không ký hợp đồng bằng văn bản khi thực hiện dịch vụ pháp lý, không lập hóa đơn cho khách hàng khi thanh lý hợp đồng, không thông báo cho Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động, không thông báo cho Đoàn luật sư về việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động…

2.3.2.4. Bất cập về quyền giải trình của người vi phạm

Thứ nhất, cá nhân, tổ chức nếu bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc phương tiện sử dụng trong vi phạm hành chính sẽ không được quyền giải trình là sự bất hợp lý, gây thiệt thòi rất lớn cho những đối tượng bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện phạm hành chính. Trong nhiều trường hợp, thậm chí nhiều tang vật phương tiện còn có giá trị lớn hơn gấp nhiều lần so với số tiền bị xử phạt.

Thứ hai, với quy định hành vi VPHC mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn sẽ tạo ra hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất là Chỉ khi hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính thì mới có quyền giải trình; Cách hiểu thứ hai là Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung cũng có quyền giải trình.

Nếu như cách hiểu thứ nhất thì chỉ có một số rất ít trường hợp mà hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính mới có quyền giải trình.

Nếu theo cách hiểu thứ hai thì có rất nhiều trường hợp người VPHC có quyền giải trình. Đây là những hành vi vi phạm rất phổ biến nên nếu nhiều người vi phạm cùng muốn thực hiện quyền giải trình của mình thì các cơ quan nhà nước sẽ không thể đủ nhân lực, cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Thứ ba, thủ tục giải trình khó áp dụng trong thực tiễn một số lĩnh vực, cụ thể cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp, người có thẩm quyền xử phạt phải tổ chức phiên giải trình trực tiếp và có trách nhiệm nêu căn cứ pháp lý và tình tiết, chứng cứ liên quan đến hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả dự kiến áp dụng đối với hành vi vi phạm. Quy định này khó có tính khả thi vì thực tiễn các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là ở các thành phố trực thuộc trung ương có số lượng công việc rất nhiều, các vụ việc xử phạt VPHC cũng nhiều nên khó có thể sắp xếp tổ chức thực hiện phiên giải trình trực tiếp trong một khoảng thời gian quá ngắn.

Quy định này cũng chưa phù hợp với thực tế trong trường hợp người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch UBND cấp tỉnh, sau đó ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh, lúc này Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh (không thể ủy quyền lại việc xử lý vi phạm hành chính cho người khác) không thể đảm bảo vừa giải quyết công việc quản lý vừa trực tiếp giải trình với những nội dung chi tiết như trên.

Vì vậy hiện nay, một số địa phương đã quy định trong trường hợp này người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch UBND tỉnh có quyền ủy quyền cho người khác thay mặt Chủ tịch UBND tỉnh tổ chức phiên giải trình nhằm đảm bảo cho các phiên giải trình nhanh chóng, kịp thời. Quy định này có thể hiểu “người khác” đây không chỉ là Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

2.3.3.1. Bất cập trong cơ chế quản lý luật sư

Về công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với tổ chức hành nghề, đối với luật sư cũng còn nhiếu điều bất cập.

Thứ nhất, về công tác quản lý, kiểm tra, giám sát: Quy định về phân cấp quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư chưa thật sự mang tính triệt để, chưa xác định đầy đủ, cụ thể nhu cầu quản lý về luật sư và hành nghề luật sư của chính quyền địa phương (cấp Thành phố, cấp huyện và cấp xã) như: chưa phân cấp cho địa phương thực hiện công tác kiểm tra việc đặt tên gọi của các tổ chức hành nghề luật sư, giải quyết các thủ tục hành chính chấm dứt hoạt động tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, một số nội dung về quản lý nhà nước đối hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư; chưa quy định cụ thể việc phân cấp quản lý nhà nước đối với luật sư và hành nghề luật sư giữa cấp tỉnh và cấp huyện. Cụ thể:

Thẩm quyền thực hiện việc kiểm tra hành nghề luật sư thuộc Sở Tư pháp; còn Tố chức xã hội nghề nghiệp của luật sư – Đoàn luật sư không phải là cấp trên của các tổ chức, cá nhân hành nghề Luật sư nên chỉ có quyền giám sát.

Cụ thể, tại Điểm h, khoản 2, Điều 25 của Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật luật sư đã quy định Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “Thực hiện kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư theo thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xử phạt vi phạm hành chính đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư theo thẩm quyền.”

Theo quy định pháp luật hiện hành, Sở Tư pháp được UBND Thành phố uỷ quyền, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với luật sư và nghề luật sư. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ chính các cán bộ quản lý này lại không thông thạo về nghề luật sư thì việc kiểm tra và áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với luật sư sẽ kèm theo nhiều khó khăn, bất cập, không loại trừ việc xử phạt sai. Do đó, việc kiểm tra này thực chất chỉ mang tính hình thức, ít có tác dụng, dẫn đến việc bỏ sót và xử phạt sai không phải chỉ dừng lại ở con số nhỏ. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Cơ chế tự quản kết hợp với quản lý nhà nước chưa có quy định cụ thể.

Uỷ ban nhân dân là cơ quan duyệt quyết định thành lập ra Đoàn luật sư nhưng lại ít quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho Đoàn luật sư hoạt động.Việc các cán bộ địa phương lỏng lẻo trong quản lý người hành nghề Luật sư và không phối hợp với Đoàn Luật sư địa phương, không kiểm tra các hoạt động và quyết định của Đoàn Luật sư không phải là hiếm gặp. Dẫn đến Đoàn Luật sư ở các địa phương gặp rất nhiều khó khăn trong việc giám sát, xem xét đơn thư tố cáo đối với các luật sư có hành vi vi phạm pháp luật. Hơn nữa, cho đến nay Sở Tư pháp vẫn chưa được bổ sung biên chế chuyên trách để làm công tác xử lý vi phạm hành chính (nhiệm vụ này hiện được giao cho Phòng văn bản pháp quy thực hiện).

Đối với các Sở, ngành nhiệm vụ theo dõi công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính giao cho Phòng Pháp chế phụ trách. Đối với cấp huyện, hầu hết các huyện, thị xã chưa bố trí công chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho phòng Tư pháp mà chỉ giao công chức kiêm nhiệm. Đối với cấp xã chỉ giao công chức Tư pháp – Hộ tịch kiêm nhiệm dẫn đến công tác này hiệu quả chưa cao.

Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính là nhiệm vụ mới, phức tạp, lần đầu tiên triển khai thực hiện. Do vậy với vị trí là cơ quan cấp dưới, UBND tỉnh, UBND cấp huyện, xã; Phòng Tư pháp chưa có điều kiện để chủ động thực hiện nhiệm vụ mà phải thực hiện nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của cơ quan cấp trên. Trong khi đó, việc triển khai thực hiện các nội dung quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa có tiền lệ, bài học để rút kinh nghiệm. Vì vây, trong điều kiện chưa có chỉ đạo nhất quán của các cơ quan cấp trên thì việc triển khai nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính rất khó thực hiện nhanh, mạnh. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Thứ hai, về vấn đề giáo dục, tuyên truyền và vận động luật sư: Thực tế cho thấy hiện nay, các chương trình học tập và bồi dưỡng của Đoàn luật sư không bao gồm các nội dung thiết thực, cấp thiết và gần với đời sống hàng ngày.

Hàng năm, Liên đoàn Luật sư Việt Nam nói chung và các Đoàn Luật sư nói riêng, chỉ tổ chức một vài cuộc hội thảo nhưng lại rất ít gặp những hội thảo mà nội dung thảo luận là về những vấn đề cơ bản trong hành nghề Luật sư, như: hành vi, đạo đức hay lối sống của luật sư; việc luật sư phải là người đi đầu trong việc tuân thủ pháp luật trong đời sống, đặc biệt là vi phạm hành chính – loại vi phạm diễn ra hàng ngày trong cuộc sống.

Còn có những cuộc hội thảo lại có nội dung rất tẻ nhạt, không cung cấp cho người nghe những điều hữu ích, nhiều nơi người tham dự chỉ có mặt một vài giờ đầu rồi bỏ về, dẫn đến việc tiêu tốn chi phí và thời gian không cần thiết.

Điều này cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng cho chính những người đi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác lại không được các cơ quan đại diện cho luật sư và cơ quan nhà nước chú trọng, dễ dàng hình thành tâm lý sai lệch cho những người hành nghề Luật sư khi họ nắm bắt được các quy định pháp luật nhiều hơn so với những người dân khác, việc lừa đảo, chiếm đoạt tài sản hay vi phạm các vấn đề về đạo đức là điều khó tránh khỏi.

2.3.3.2. Bất cập về quy định pháp luật

Nhìn chung, một số quy định của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa rõ ràng, gây lúng túng, khó khăn trong quá trình thực hiện, chưa được hướng dẫn kịp thời như: biểu mẫu giấy đề nghị đăng ký hoạt động và giấy đăng ký hoạt động; việc hành nghề của luật sư; việc chuyển Đoàn Luật sư; thu hồi giấy đăng ký hoạt động trong trường hợp tổ chức hành nghề luật sư không hoạt động tại trụ sở đã đăng ký trong thời hạn 6 tháng liên tục;… Điều này gây không ít khó khăn cho các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý hành nghề Luật sư. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về mức phạt đối với hình thức Phạt tiền: theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 24 LXLVPHC 2012 có nêu “Mức phạt tiền tối đa” trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp đối với cá nhân là “Phạt tiền đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, qua thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư cho thấy, mức phạt tối đa này trong nhiều trường hợp còn thấp để đảm bảo được mục đích răn đe, phòng ngừa cho các vi phạm hành chính về sau.

Đối với nhiều đối tượng vi phạm còn nhẹ, mức xử phạt vi phạm hành chính cần phải quyết liệt để không đến tình trạng tái phạm, lách luật hay vi phạm các hành vi trái pháp luật khác. Bởi mục đích của hình thức phạt tiền là nhắc nhở về hành vi vi phạm, nếu cơ chế pháp lý ở hình thức này còn quá nhẹ và không thực thi nghiêm khắc, việc người vi phạm xem thường pháp luật là kết quả hiển nhiên. Khi cảm thấy vi phạm lần đầu hay ở mức đó mà hình phạt còn nhẹ, dễ dàng dẫn đến các hành vi vi phạm tiếp theo cùng mức độ vi phạm tăng dần. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Thứ hai, đi kèm với xử phạt hành chính còn có các biện pháp cưỡng chế thi hành án cũng gặp nhiều bất cập trong thực tiễn.

Mặc dù hiện nay Chính phủ đã ban hành văn bản pháp luật quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC, tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề khó thực hiện trong thực tế đối với công tác này. Vì trên thực tế, rất nhiều hành vi vi phạm hành chính là các hành vi nhỏ lẻ, nên khi bị phát hiện, xử lý thì mức phạt tiền có thể sẽ là rất nhỏ. Như vậy, không phải cứ có bất kỳ trường hợp nào không chấp hành nghiêm túc quyết định xử phạt thì cũng phải tiến hành cưỡng chế, vì số tiền phải thu là rất nhỏ, trong khi chi phí cưỡng chế sẽ là rất lớn, dù rằng chi phí này người phải chấp hành quyết định xử phạt sẽ phải trả.

Thứ ba, thẩm quyền giải quyết chồng chéo, nhiều văn bản pháp luật, làm cho người dân khi có tố cáo đối với các hành vi vi phạm của luật sư thì khó có thể theo dõi và nắm bắt được trình tự, thủ tục cũng như các hành vi mà người hành nghề Luật sư không được phép thực hiện.

Không ít các trường hợp người có tố cáo, khiếu nại đối với hành vi vi phạm pháp luật của luật sư, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nhưng lại không biết gửi đơn đến đâu và cơ quan, tổ chức nào là nơi giải quyết trực tiếp. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định 110 cũng chưa phân rõ theo từng hành vi của các chức danh mà chủ yếu quy định lại nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật luật sư.

Thứ tư, quy định các hành vi vi phạm hành chính còn trùng lặp, chồng chéo, gây khó hiểu.

Ví dụ, quy định tại Điểm đ Khoản 5 Điều 6 Nghị định 110/2013 “Hành nghề Luật sư khi không có Chứng chỉ hành nghề Luật sư…” với hành “Luật sư hành nghề khi chưa được cấp giấy đăng ký hành nghề luật sư; chưa được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam” tại Điểm a Khoản

Điều 6 Nghị định 110/2013, và hành vi “Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không đăng ký hành nghề tại cơ quan có thẩm quyền…” tại Điểm b Khoản 3 Điều 6 Nghị định 110/2013.

Nên hiểu và phân biệt ba hành vi này như thế nào để áp dụng mức phạt cho đúng là một điều không dễ dàng, đặc biệt với tình hình đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực này còn yếu về kiến thức và chưa được đào tạo đầy đủ, chuyên sâu về lĩnh vực hành nghề luật sư tại Việt Nam. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Ngoài ra, theo quy định thì nhiều hành vi vi phạm hành chính chưa được mô tả cụ thể; phát sinh nhiều hành vi vi phạm mới nhưng Luật cũng chưa điều chỉnh việc quy định hình thức xử phạt,…

Lấy ví dụ như hành vi tại Điểm c Khoản 5 Điều 6 Nghị định 110/2013: “Cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước”. Vậy hành vi như thế nào thì là cố ý, là gây khó khăn, cản trở cho các cơ quan nhà nước lại không được phân tích, hướng dẫn rõ ràng, điều khoản chỉ nêu lên các hành vi một cách chung chung chứ không chú trọng đi sâu vào phân tích lỗi của hành vi người vi phạm thực hiện.

Hay như quy định tại Điểm đ Khoản 6 Điều 6 Nghị định 110/2013: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”.

Theo quy định này thì nếu trong trường hợp sau khi đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, biết được qua thông tin của khách hàng cung cấp là việc khách hàng thực hiện các hành vi trái pháp luật, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì luật sư phải xử lý như thế nào? Nên hay không nên tố cáo hành vi của chính thân chủ mình? Nếu tố cáo thì có bị coi là vi phạm nguyên tắc giữ bí mật thông tin khách hàng hay không?… Và “pháp luật có quy định khác” ở đây là quy định gì?

Tại Điểm a Khoản 1 Điều 6 Nghị định 110 quy định về việc Luật sư không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình khi thực hiện dịch vụ pháp lý. Vậy nếu trong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ghi rõ quyền, trách nhiệm của hai bên nhưng đương sự “tố” luật sư không thông báo, thông báo không đầy đủ thì luật sư có thể bị phạt hay không ? Quy định về việc không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ được hiểu như thế nào? Thông báo bằng hình thức nào, thời gian nào thì bị coi là vi phạm.

Nghị định 110 cũng quy định hành vi vi phạm về bí mật thông tin của khách hàng. Nếu tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề mà không có văn bản đồng ý của khách hàng, luật sư sẽ bị xử phạt hành chính. Nhiều luật sư cho rằng với quy định này, luật sư rất dễ dàng bị phạt, bởi vì trong quá trình hành nghề, thấy vụ án có nội dung, yếu tố pháp lý hay, các luật sư vẫn thường cung cấp cho báo chí mà không yêu cầu khách hàng viết văn bản cho phép.

Như vậy, cần phải hướng dẫn rõ quy định cấm luật sư cung cấp thông tin về vụ việc của khách hàng là không cung cấp cho ai, thời hạn tối đa hay tối thiểu để được cung cấp, hoặc trong trường hợp cung cấp mà không ảnh hưởng quyền lợi khách hàng thì sao? Nếu không quy định sẽ được hiểu là luật sư nhận việc của khách hàng làm xong thì phải giữ bí mật mãi.

Ngoài ra hành vi vi phạm mà giới luật sư còn chưa rõ là quy định tại Điểm e Khoản 6 Điều 6 Nghị định 110, hành vi móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định pháp luật cụ thể là hành vi như thế nào? Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Điểm d Khoản 5 Điều 6 Nghị định 110 quy định về hành vi luật sư sách nhiễu, lừa dối, ép buộc khách hàng đưa thêm tiền hoặc lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, có những luật sư nhận việc xong, thấy có những tình huống mới, phát sinh thêm việc, nên yêu cầu thân chủ trả thêm chi phí, thù lao. Trong tương lai, nếu hai bên thoả thuận được thì không sao, ngược lại thân chủ mà “tố” thì luật sư có thể bị áp dụng hình phạt.

2.3.3.3. Một số nguyên nhân khác

Đã là người hành nghề Luật sư thì hầu hết đều tiếp xúc với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, từ người dân ở vùng sâu vùng xa, ít có kiến thức pháp luật cho đến các cơ quan, tổ chức, các Doanh nghiệp tư nhân nắm vững các quyền và lợi ích mà họ được hưởng một cách chính đáng. Tuy nhiên, đối với thực trạng phổ cập kiến thức pháp luật ở Việt Nam ngày nay, hiểu biết về quy định pháp luật nói chung của người dân còn rất thấp, đại đa số chỉ có những người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp hay các công việc liên quan đến vấn đề pháp lý thì mới năm bắt được các quy định cơ bản. Còn tuyệt đại đa số là không quan tâm và vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc nắm bắt pháp luật để bảo vệ chính bản thân mình không bị xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp.

Việc này không thể không nói đến nguyên nhân xuất phát từ việc tuyên truyền phổ biến pháp luật từ trung ương xuống địa phương hiện này còn yếu kém, hoạt động không hiệu quả, đôi khi gây tác dụng ngược trong trường hợp người đi tuyên truyền không nắm bắt được hết nội dung quy định, không giải thích được luật và không trả lời được các câu hỏi, thắc mắc từ người dân. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Từ đây lại quay về vấn đề đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp của Nhà nước; vấn đề kiểm tra, giám sát hoạt động của từng cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến tuyên truyền, phổ biến, áp dụng pháp luật; đặc biệt là vấn đề đường lối, chính sách phổ cập kiến thức pháp luật, phương thức để đưa pháp luật đến gần với người dân hơn, tạo lập được ý thức tự giác tìm hiểu về các vấn đề pháp lý trong mỗi người dân;…

Ngoài ra, tính hiệu lực trong việc chấp hành các quyết định xử phạt hành chính còn thấp. Nguyên nhân do ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng vi phạm chưa nghiêm túc, trong khi đó chế tài áp dụng khi cưỡng chế vừa thiếu, vừa bất cập. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật trên thực tế thực hiện rất khó khăn.

Trong lĩnh vực hành chính vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà, thiếu minh bạch, nếu thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, luật sư có thể có hành vi thỏa hiệp với tiêu cực, tiếp tay cho cán bộ, công chức thực hiện hành vi hối lộ và tạo điều kiện cho luật sư dễ phát sinh tiêu cực khác trong quá trình hành nghề.

Hệ thống pháp luật của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện nên những quy định thiếu chặt chẽ, thống nhất trong các văn bản pháp luật, chưa kiểm soát chặt chẽ chức năng của những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tố tụng đã tạo ra kẽ hở để các bên có thể tùy nghi áp dụng pháp luật.

Công tác phối hợp giữa các ngành, địa phương trong triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật đôi lúc chưa chặt chẽ; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác theo dõi còn thiếu và yếu, lực lượng cán bộ pháp chế tại các sở ngành và doanh nghiệp còn thiếu, phải kiêm nhiệm; năng lực trình độ nhất là khả năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hay xây dựng một thiết chế thi hành pháp luật còn nhiều bất cập; khả năng tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước còn hạn chế. Công tác xử lý vi phạm hành chính ở một số đơn vị chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức, chưa được cụ thể hóa bằng văn bản của cơ quan, đơn vị mình, chính vì vậy chưa rõ trách nhiệm của cấp, ngành để kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

Qua việc đánh giá thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư ở nước ta hiện nay cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động xử lý vi phạm hành chính đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế, chưa thể hiện được hết trách nhiệm của nhà nước đối với việc quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước và sự kết hợp đồng đều giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư. Những hạn chế, bất cập đó đòi hỏi phải đưa ra được giải pháp khắc phục kịp thời nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư trong thời gian tới.

Sau đây Chương 3 xin đi phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất được đưa ra dựa trên thực trạng pháp luật đã nêu ở chương 2 và nêu lên các biện pháp khắc phục những hạn chế, bất cập trong quản lý luật sư và thực hiện áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993