Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG CUNG ỨNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ

2.1.1. Quyền cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử và yêu cầu bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử

Thứ nhất: quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, mà cụ thể là quy định về nội dung hoạt động ngân hàng giao dịch bằng phương tiện điện tử, như sau: hoạt động ngân hàng giao dịch bằng phương tiện điện tử là các hoạt động được quy định tại

Chương III Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tại Chương III Luật các Tổ chức tín dụng; không áp dụng trong việc phát hành hối phiếu và các giấy tờ có giá khác. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Theo quy định tại chương III về hoạt động của ngân hàng nhà nước thì Luật ngân hàng hiện hành được thống nhất quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử trong văn bản hợp nhất luật ngân hàng năm 2022 bao gồm 31 điều phân bổ trong 6 mục cụ thể. Gọi là các chế định trong hoạt động của ngân hàng nhà nước, tại Mục 1 có tiêu đề thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia với 6 điều cơ bản quy định về Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; tái cấp vốn; lãi suất; tỷ giá hối đoái; dự trữ bắt buộc; nghiệp vụ thị trường mở. Những quy định này thể hiện rõ quy định cho phép về tái cấp vốn, lãi suất và tỷ giá hồi đoái cũng như quy định những định nghĩa để thống nhất chung trong cách hiểu trong chính sách thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Tại mục 2 phát hành tiền giấy và tiền kim loại đưa ra cách hiểu về đơn vị tiền, quy định về phát hành tiền giấy, tiền kim loại cũng như thiết kế, in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu hủy tiền; Xử lý tiền rách nát, hư hỏng; Thu hồi, thay thế tiền; tiền mẫu, tiền lưu niệm; ban hành, kiểm tra nghiệp vụ phát hành tiền. Tại mục 3, pháp luật xây dựng 3 điều riêng biệt điều chỉnh hoạt động cho vay, bảo lãnh và tạm ứng cho ngân sách. Đối với họat động thanh toán và ngân quỹ tại mục 4, Quốc hội quy định: mở tài khoản và thực hiện giao dịch trên tài khoản; tổ chức, quản lý, vận hành, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia; dịch vụ ngân quỹ; đại lý cho Kho bạc Nhà nước. Tại mục 5, quy định về quản lý ngoại hối và hoạt động thương mại cũng thừa nhận quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử với 4 điều luật riêng biệt với các nội dung cơ bản sau đây: nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối; quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước; hoạt động ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước; mua, bán ngoại tệ giữa Dự trữ ngoại hối nhà nước với ngân sách nhà nước. Đối với mục 6 về hoạt động thông tin báo cáo, Luật Ngân hàng cũng quy định rõ về trách nhiệm cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước; nguyên tắc cung cấp thông tin; nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thông tin; bảo vệ bí mật thông tin; thống kê, phân tích, dự báo tiền tệ; hoạt động báo cáo; hoạt động xuất bản.

Đứng ở góc độ luật ngân hàng là văn bản gốc của hoạt động tín dụng của các Tổ chức tín dụng trong việc xác định quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử thì đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tức là văn bản pháp luật ngân hàng cho phép quyền được cung ứng dịch vụ ngân hàng như: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản trong hoạt động ngân hàng của các Tổ chức tín dụng.

Đứng ở góc độ hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ như đã nói trên đây, quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử còn thể hiện trong các chế định tại tại Chương III tổ chức, quản trị và điều hành của Tổ chức tín dụng trong Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành, cụ thể như sau:

Một là: quy định chung về tổ chức, quản trị và điều hành của Tổ chức tín dụng với 13 điều luật riêng biệt, cụ thể là: thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp, hiện diện thương mại; điều lệ; cơ cấu tổ chức quản lý của Tổ chức tín dụng; những trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ; những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ; đương nhiên mất tư cách; miễn nhiệm, bãi nhiệm; đình chỉ, tạm đình chỉ chức danh Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc); quyền, nghĩa vụ của người quản lý, người điều hành Tổ chức tín dụng; trách nhiệm công khai các lợi ích liên qua; hệ thống kiểm soát nội bộ; kiểm toán nội bộ; kiểm toán độc lập. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Hai là: quy định chung đối với Tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn với các nội dung cơ bản như: hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và cơ cấu hội đồng quản trị, hội đồng thành viên; ban kiểm soát và cơ cấu Ban kiểm soát; nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát; quyền, nghĩa vụ của Trưởng Ban kiểm soát; quyền, nghĩa vụ của thành viên Ban kiểm soát; Tổng giám đốc (Giám đốc); quyền, nghĩa vụ của Tổng giám đốc (Giám đốc); tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của Tổ chức tín dụng; chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của Tổ chức tín dụng.

Ba là: Tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, được xây dựng với 14 điều riêng biệt, cụ thể là: các loại cổ phần, cổ đông; quyền của cổ đông phổ thông; nghĩa vụ của cổ đông phổ thông; tỷ lệ sở hữu cổ phần; chào bán và chuyển nhượng cổ phần; mua lại cổ phần của cổ đông; cổ phiếu; đại hội đồng cổ đông; triệu tập Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước; báo cáo kết quả họp Đại hội đồng cổ đông; hội đồng quản trị của Tổ chức tín dụng là công ty cổ phần; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị; quyền, nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị; quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị.

Bốn là: Tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bao gồm có các quy định như: nhiệm vụ, quyền hạn của chủ sở hữu; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên; quyền, nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên; quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên

Năm là: Tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên với ba điều luật cơ bản điều chỉnh: thành viên góp vốn, nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên góp vốn tại điều 70; chuyển nhượng phần vốn góp, mua lại phần vốn góp tại điều 71 và Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên tại điều 72.

Sáu là: Tổ chức tín dụng là hợp tác xã, trong đó quy định cụ thể về tính chất và mục tiêu hoạt động; thành lập Tổ chức tín dụng là hợp tác xã; cơ cấu tổ chức; vốn điều lệ; điều lệ; quyền của thành viên; nghĩa vụ của thành viên; đại hội thành viên; hội đồng quản trị; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị; tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát; Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát; Tổng giám đốc (Giám đốc) ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân; Quyền, nghĩa vụ của Tổng giám đốc (Giám đốc). Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Bảy là: Tổ chức tài chính vĩ mô, được xây dựng với hai nội dung cơ bản đó là: Loại hình tổ chức tài chính vi mô, bao gồm: Tổ chức tài chính vi mô được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của tổ chức tài chính vi mô được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Cũng như về thành viên, vốn góp, cơ cấu tổ chức, địa bàn hoạt động của tổ chức tài chính vi mô. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước quy định việc tham gia góp vốn thành lập tổ chức tài chính vi mô của tổ chức, cá nhân nước ngoài; số lượng thành viên góp vốn; tỷ lệ sở hữu vốn góp, phần vốn góp của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài vào tổ chức tài chính vi mô; giới hạn về cơ cấu tổ chức mạng lưới, địa bàn hoạt động của tổ chức tài chính vi mô.

Tám là: Quy định về chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng thuộc về quyền được cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử theo pháp luật hiện hành. Cụ thể là quy định về quản trị, điều hành:

  • Ngân hàng nước ngoài quyết định cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với pháp luật của nước nơi ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở chính và quy định của Luật này về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ và phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện.
  • Tổng giám đốc (Giám đốc) của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đại diện cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước pháp luật, là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và điều hành hoạt động hằng ngày theo quyền, nghĩa vụ phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
  • Tổng giám đốc (Giám đốc) của chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tham gia quản trị, điều hành Tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế khác và không được đồng thời làm Trưởng văn phòng đại diện tại Việt Nam của ngân hàng nước ngoài.
  • Tổng giám đốc (Giám đốc) của chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật này. Người dự kiến được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc (Giám đốc) chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi bổ nhiệm. Trình tự, hồ sơ chấp thuận Tổng giám đốc (Giám đốc) chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thông báo người được bổ nhiệm thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 51 của Luật này. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
  • Trường hợp một ngân hàng nước ngoài có hai hoặc nhiều chi nhánh hoạt động tại Việt Nam và thực hiện chế độ tài chính, hạch toán, báo cáo hợp nhất thì ngân hàng nước ngoài phải ủy quyền cho một Tổng giám đốc (Giám đốc) chi nhánh chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

Theo phương diện khoa học pháp lý, các nội dung quy định trên đây cho thấy quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử là một sự thống nhất chung từ văn bản luật ngân hàng đến văn bản luật tổ chức, hoạt động của Tổ chức tín dụng. Điều này chứng minh cho sự rất phù hợp với thực tế phát triển chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng hiện nay ở nước ta. Các quy định này đã khẳng định tính nhất quán trong chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế số của quốc gia liên thông với hoạt động mang tính đặc thù của ngành ngân hàng bởi các chủ thể kinh doanh hoạt động tiền tệ ngân hàng là các Tổ chức tín dụng. Mặt khác, trong quy định hiện hành có loại trừ việc phát hành hối phiếu và các giấy tờ có giá khác không thuộc đối tượng áp dụng quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử của Tổ chức tín dụng. Hối phiếu được hiểu là hình thức cho vay ngắn hạn thể hiện qua văn bản mà người hưởng hối phiếu yêu cầu bên phát hành trả cho mình một khoản tiền nhất định. Bên nợ phải hoàn tiền ngay sau khi nhận được hối phiếu của chủ nợ yêu cầu. Khi đã được Ngân hàng chấp nhận và ký hậu thì hối phiếu có thể chiết khấu hoặc thương lượng với giá thấp hơn. Hơn nữa, lãi suất cũng ngắn hạn hơn so với thị trường. Thông thường, thời hạn cao nhất của hối phiếu là 06 tháng và được sử dụng phổ biến trong việc tài trợ thương mại và luân chuyển vốn trong các ngành nông – công nghiệp. Để tài trợ cho thị trường kinh doanh trong nước thì hối phiếu nội địa được phát hành. Còn đối với các giao dịch nước ngoại thương thì áp dụng hối phiếu ngoại thương. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Rõ ràng việc áp dụng quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử của Tổ chức tín dụng theo pháp luật hiện hành rất cụ thể và toàn diện góp phần thực hiện tốt việc chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Thứ hai: quyền yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ NHĐT.

Hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử thường có sự có mặt của 3 chủ thể tham gia, gồm: ngân hàng, Người tiêu dùng và các đối tác liên kết của Ngân hàng. Trong đó, cả 3 chủ thể đều có thể trở thành “cửa ngõ” để tội phạm mạng tấn công. Nhưng, dù xét ở phương diện nào, chủ thể hứng chịu rủi ro cũng là Người tiêu dùng. Một minh chứng đó là, trong khi các Ngân hàng đặc biệt chú trọng đến bảo đảm an toàn an ninh mạng, thì bên đối tác lại không đặt nặng vấn đề này và nhiều trường hợp là không đủ năng lực, hạ tầng về an toàn thông tin. Thực tế, đã có vụ việc Ngân hàng bị tấn công chỉ từ email quảng cáo mà họ đã thuê bên thứ 3 thực hiện. Nếu như để vượt qua hệ thống bảo mật của Ngân hàng, các hacker phải có trình độ nhất định, thì việc tấn công từ Người tiêu dùng dịch vụ Ngân hàng điện tử lại đơn giản hơn nhiều, với mánh khóe không mới là đánh vào lòng tham, sự thiếu hiểu biết của Người tiêu dùng. Nhiều vụ việc xảy ra gần đây chỉ ra, bằng phương thức dụ Người tiêu dùng đăng nhập vào website giả mạo Ngân hàng và khai báo thông tin bảo mật để nhận quà tặng, nhận tiền từ nước ngoài gửi về… Mới đây nhất, Techcombank phát hiện kẻ gian lợi dụng nhu cầu vay tiền của người dân bị mất việc làm, thu nhập giảm sút do đại dịch Covid-19 đã giả mạo là nhân viên Ngân hàng mời chào vay vốn qua hình thức chúng tự nghĩ ra, như thanh lý hồ sơ cho vay. Có thể thấy, nhiều khách hành đã không ý thức được rằng, thông tin cá nhân cũng là tài sản cần được bảo vệ. Vì từ chính những thông tin cá nhân như: số căn cước công dân, số tài khoản Ngân hàng, số điện thoại, hay ngày tháng năm sinh…, mà họ thường dễ dàng để lại trên mạng xã hội, qua các giao dịch mua, bán hàng online đã trở thành chỉ dẫn cho kẻ gian tìm đến lừa đảo.

Trong khi đối tượng tội phạm an ninh mạng có rất nhiều thủ đoạn để tấn công vào các chủ thể tham gia hoạt động tiêu dùng tài chính số với những rủi ro thuộc về Người tiêu dùng, thì các chính sách bảo vệ Người tiêu dùng tài chính lại bộc lộ một loạt những hạn chế, bất cập, cụ thể: Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Một là, còn có “khoảng trống” của khung pháp lý quy định riêng về bảo vệ Người tiêu dùng tài chính. Hiện nay các căn cứ pháp lý đang áp dụng điều chỉnh cho chủ thể khách hàng tiêu dùng tài chính số chủ yếu là: luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2010; một số luật chuyên ngành và văn bản dưới luật thuộc các luật, như: Luật các Tổ chức tín dụng; Luật Chứng khoán, Luật Bảo hiểm. Thêm vào đó, toàn bộ các quy định hiện nay chỉ phù hợp với các giao dịch, dịch vụ truyền thống, mà chưa được tính đến một số phương thức mới, đặc biệt là sự phát triển của kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với đó, hiện nay, Việt Nam chưa có một cơ quan chuyên trách nào theo luật định chịu trách nhiệm về bảo vệ Người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng. Việc phối hợp giữa các cơ quan chuyên ngành liên quan đến tài chính số cũng chưa đầy đủ, dẫn tới việc quản lý, cũng như đầu tư các nguồn lực cần thiết trong công tác bảo vệ Người tiêu dùng tài chính số còn chưa thỏa đáng. Điều này chỉ ra rằng, Người tiêu dùng tài chính chưa được xem là đối tượng yếu thế; vấn đề bảo vệ Người tiêu dùng tài chính số trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế số còn chưa hoàn thiện về mặt pháp lý và cơ chế giám sát thực hiện.

Hai là, công tác giải quyết khiếu nại về bảo mật an toàn thông tin Người tiêu dùng tài chính không thật hiệu quả.

 Theo kết quả thăm dò ý kiến 540 Người tiêu dùng tài chính số ngẫu nhiên trên địa bàn thành phố Hà Nội về nhu cầu hỗ trợ tư vấn pháp lý khách hàng trong các sự cố an toàn thông tin cá nhân của Nhóm nghiên cứu trẻ thuộc Học viên Ngân hàng, có tới 97% khách hàng không khiếu nại về những điều mình không hài lòng, bởi tâm lý ngại va chạm hay mất thời gian cho các thủ tục hành chính giải quyết khiếu kiện.

Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, qua khảo sát hầu hết, việc xử lý các tranh chấp liên quan đến hoạt động tài chính NH theo quy định của các hợp đồng tài chính được xử lý ở cơ quan cuối cùng là tòa án, quy trình tố tụng kéo dài và tốn kém. Bên cạnh đó, cho dù pháp luật Việt Nam đã có các chế tài khá nghiêm khắc với các đối tượng thu thập, sử dụng trái phép các thông tin cá nhân của Người tiêu dùng với mức hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù giam, nhưng hầu như chỉ được áp dụng khi có thiệt hại lớn, trên thực tế, rất ít vụ việc trong lĩnh vực này được xử lý.

Ba là, chi phí đầu tư cho công tác an toàn thông tin khách hàng chưa thỏa đáng.

Để bảo đảm cho dịch vụ Ngân hàng điện tử thông suốt, an toàn, chính xác các NH đã, đang không ngừng đầu tư cho công tác an toàn, bảo mật thông tin. Khảo sát của Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam năm 2020[3] cho thấy, 100% số Tổ chức tín dụng đầu tư các giải pháp an ninh, bảo mật từ cơ bản đến nâng cao, như: tường lửa, hệ thống phát hiện xâm nhập; hệ thống chống virút xác thực đa thành tố; hệ thống phòng, chống thư rác; hệ thống lọc dữ liệu; công nghệ chữ ký số KPI; xác thực sinh trắc học… Tuy nhiên, chi phí đầu tư cho công tác an toàn thông tin nhìn chung vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ (dưới 10%) trong tổng vốn đầu tư cho phát triển sản phẩm, dịch vụ NH số. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Tại điều Điều 41 Luật giao dịch điện tử quy định rõ việc bảo đảm an toàn, bảo mật và lưu trữ thông tin điện tử trong cơ quan nhà nước nhằm mục đích thực hiện quyền yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử, cụ thể là:

  • Định kỳ kiểm tra và bảo đảm an toàn hệ thống thông tin điện tử của cơ quan mình trong quá trình giao dịch điện tử.
  • Bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến giao dịch điện tử, không được sử dụng thông tin vào mục đích khác trái với quy định về việc sử dụng thông tin đó, không tiết lộ thông tin cho bên thứ ba theo quy định của pháp luật.
  • Bảo đảm tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu trong giao dịch điện tử do mình tiến hành; bảo đảm an toàn trong vận hành của hệ thống mạng máy tính của cơ quan mình.
  • Thành lập cơ sở dữ liệu về các giao dịch tương ứng, bảo đảm an toàn thông tin và có biện pháp dự phòng nhằm phục hồi được thông tin trong trường hợp hệ thống thông tin điện tử bị lỗi.
  • Bảo đảm an toàn, bảo mật và lưu trữ thông tin theo quy định.

Bên cạnh đó, việc bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ trong giao dịch điện tử cũng là một trong nhưng quyền yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử mà pháp luật đang điều chỉnh. Tại điều 44 Luật giao dịch điện tử cũng thể hiện rõ việc bảo đảm an ninh, an toàn trong giao dịch điện tử.

Việc bảo vệ thông điệp dữ liệu, cụ thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân không được thực hiện bất kỳ hành vi nào gây phương hại đến sự toàn vẹn của thông điệp dữ liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Tại Điều 46 Luật giao dịch điện tử cũng quy định về vấn đề bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử thể hiện việc yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử:

  • Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử.
  • Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài ra, quyền yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử cũng được thể hiện rõ tại điều 47 về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ mạng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Điều kiện cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử của tổ chức tín dụng Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Về điều kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng tại Điều 5 Nghị định 35/2007/NĐ-CP, như sau:

Thứ nhất: tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau: được cung cấp dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật, có địa điểm, mạng truyền thông, thiết bị truyền thông, các phương tiện điện tử bảo đảm tính toàn vẹn và an toàn thông tin, đáp ứng yêu cầu khai thác, kiểm soát, xử lý, sử dụng, bảo quản và lưu trữ chứng từ điện tử; có đội ngũ cán bộ đủ trình độ, khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng.

Chúng ta có thể hiểu khái niệm “dịch vụ ngân hàng” chung nhất theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS): dịch vụ ngân hàng là nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, chuyển tiền và thanh toán thẻ, séc,…, bảo lãnh và mua các công cụ thị trường tài chính, phát hành chứng khoán, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, dịch vụ thanh toán và bù trừ, cung cấp và chuyển giao. Nghĩa là Tổ chức tín dụng tham gia cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử thì được cung cấp dịch vụ ngân hàng bao gồm: nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, chuyển tiền và thanh toán thẻ, séc,…, bảo lãnh và mua các công cụ thị trường tài chính, phát hành chứng khoán, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, dịch vụ thanh toán và bù trừ, cung cấp và chuyển giao. Có cơ sở hạ tầng truyền thông và có thiết bị truyền thông cũng như các phương tiện điện tử bảo đảm tính toàn vẹn và an toàn thông tin liên quan đến các dữ liệu điện tử. Ngoài ra yếu tố đội ngũ nhân viên, cán bộ có trình độ cao, khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật công nghệ cũng như nghiệp vụ ngân hàng. Rõ ràng quy định của pháp luật hướng đến yếu tố điều kiện kinh doanh trong hoạt động ngân hàng của tổ Tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử trước hết phải có ngành nghề kinh doanh mà pháp luật đã cho phép, tiếp theo là phải có sự đầu tư về cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động Ngân hàng điện tử và cuối cùng là điều kiện về con người có trình độ cao về kỹ thuật điện tử và nghiệp vụ chuyên môn ứng dụng trong công nghệ số

Cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau: cam kết thực hiện các quy trình về giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định; có chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật; xác lập phương thức gửi, nhận chứng từ điện tử với tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử.

Cam kết thực hiện các quy trình về giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định, đây là quy định bắt buộc đối với tổ chức, cá nhân, cơ quan sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Tức là bản thân chủ thể tham gia phải xây dựng bản cam kết quy trình về giao dịch điện tử trên cơ sở tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định. Nếu không cam kết thực hiện các quy trình về giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định thì Cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng vi phạm điều kiện sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Vấn đề đặt ra ở đây là giả sử ngân hàng thương mại cổ phần không thực hiện đúng cam kết quy trình giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định thì bị chế tài xử lý như thế nào cho thỏa đáng? Đó là những câu hỏi lớn đang bỏ ngỏ, thiết nghĩ cần bổ sung vào quy định xử phạt vi phạm hành chính trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng không đáp ứng điều kiện “Cam kết thực hiện các quy trình về giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định” quy định tại điểm a khoản 2 điều 5 Nghị định 35/2007/NĐ-CP.

Đối với điều kiện có chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật, đây cũng là quy phạm pháp luật bắt buộc. Tại điều 7 Nghị định 35/2007/NĐ-CP có quy định về chữ ký điện tử như sau:

  • Chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng bao gồm chữ ký số và các loại chữ ký điện tử khác theo quy định của pháp luật.
  • Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền thoả thuận, lựa chọn sử dụng loại chữ ký điện tử, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quy định về việc sử dụng chữ ký điện tử trong những hoạt động ngân hàng cụ thể.

Thực tế hiện nay các hình thức SMS, OTP, Token OTP, sinh trắc học, định danh người dùng bằng phương thức điện tử (eKYC)… được sử dụng tương đối phổ biến trong giao dịch điện tử. Nhất là trong lĩnh vực ngân hàng ba loại chữ ký điện tử này dược áp dụng khá phổ biến. Chữ ký điện tử và chữ ký số ngày nay đang được sử dụng khá phổ biến trong tất cả các giao dịch điển tử với những lợi ích đặc biệt mà chúng mang lại. Chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử. Về căn bản, chữ ký số cũng giống như chữ viết tay vậy. Dùng nó để cam kết lời hứa của mình và điều đó không thể rút lại được. Chữ ký số không sẽ không phải sử dụng giấy mực, nó gắn đặc điểm nhận dạng của người ký vào bản cam kết. Khái niệm về “Chữ ký điện tử” là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video…) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử. Xuất phát từ thực tế, chữ ký điện tử cũng cần đảm bảo các chức năng: xác định được người chủ của một dữ liệu nào đó: văn bản, ảnh, video, … dữ liệu đó có bị thay đổi hay không. Kiểm tra pháp lý đối với chữ ký điện tử. Khi một chữ ký điện tử trên hợp đồng hay văn bản bị nghi ngờ thì chữ ký đó phải vượt qua một số kiểm tra trước khi có thể xử tại tòa án. Các điều kiện này có thể thay đổi tùy theo quy định của pháp luật, thậm chí trong một số trường hợp văn bản không có chữ ký (telex, fax…). Tại một số nước, các bước yêu cầu cho chữ ký điện tử bao gồm: cung cấp thông tin cho người yêu cầu về tính pháp lý của chữ ký điện tử; các yêu cầu về phần cứng, phần mềm; các lựa chọn ký và chi phí (nếu có); xác thực các bên để nhận diện rủi ro kinh doanh và yêu cầu; đưa toàn bộ văn bản ra xem xét (các bên có thể phải điền số liệu); yêu cầu các bên xác nhận sự tự nguyện ký vào văn bản; đảm bảo các văn bản được xem xét không bị thay đổi từ khi ký; cung cấp cho các bên các văn bản gốc pháp lý để lưu giữ. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Vấn đề quan trọng cần được xem xét là sự giả mạo (giả mạo chữ ký và giả mạo sự chấp nhận). Tòa án phải giả định rằng sự giả mạo là không thể thực hiện. Tuy nhiên, đối với chữ ký điện tử thì việc làm giả là không quá khó khăn. Thông thường, các ngân hàng thường phải dựa trên các phương tiện khác để kiểm tra chữ ký điện tử chẳng hạn như gọi điện trực tiếp cho người ký trước khi giao dịch, dựa trên các quan hệ truyền thống hay không dựa hoàn toàn vào các văn bản dưới dạng điện tử. Đây là các thông lệ trong hoạt động ngân hàng nên được áp dụng trong bất kỳ môi trường nào vì sự giả mạo cũng là một vấn đề thường xảy ra trong môi trường kinh doanh truyền thống. Chữ ký điện tử cũng như chữ ký truyền thống đều không đủ khả năng ngăn chặn hoàn toàn việc làm giả.

2.2. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

2.2.1. Nhận tiền gửi trực tuyến

Theo điều 19 Thông tư 48/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của NNNN Việt Nam quy định về tiền gửi tiết kiệm, đối với việc thực hiện nhận, chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng phương tiện điện tử, như sau:

  1. TCTD hướng dẫn thủ tục nhận, chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng phương tiện điện tử thông qua tài khoản thanh toán của người gửi tiền tại Tổ chức tín dụng phù hợp với quy định tại Thông tư này, quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, về phòng, chống rửa tiền và các quy định của pháp luật có liên quan đảm bảo việc nhận, chi trả tiền gửi tiết kiệm chính xác, an toàn tài sản cho người gửi tiền và an toàn hoạt động cho Tổ chức tín dụng.
  2. TCTD phải đảm bảo lưu giữ đầy đủ các thông tin liên quan đến việc nhận, chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng phương tiện điện tử để đáp ứng yêu cầu của người gửi tiền trong việc tra soát, kiểm tra và giải quyết tranh chấp.

Ngày nay, Ngân hàng điện tử đang dần trở thành xu thế với sự phát triển mạnh mẽ.

Nhiều sản phẩm được ra mắt mang lại tính tiện ích cho người sử dụng. Trong đó, sản phẩm gửi tiết kiệm online là một trong những dịch vụ được khách hàng quan tâm nhất. Tại khoản 13 điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành định nghĩa về Nhận tiền gửi thống nhất chung trong cách hiểu là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

Tổ chức, cá nhân hoàn toàn có thể mở sổ tiết kiệm trực tuyến mà không cần đến quầy giao dịch. Một ví dụ cụ thể tại ngân hàng Agribank có thể thấy thực tiễn hình thức gửi tiết kiệm online, như sau: đại diện cho hơn 2300 điểm giao dịch điện tử trực tuyến trên app sử dụng dịch vụ Agribank internet banking trên phạm vi toàn quốc, khách hàng có thể đăng ký gửi tiền tiết kiệm online với câu hỏi tôi có thể gửi tiền tiết kiệm online trên Agribank internet banking như thế nào? Quy trình 7 bước mà ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam triểu khai thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử của Tổ chức tín dụng: Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Bước 1: Đăng nhập vào ứng dụng Agribank E-Mobile Banking/Agribank Internet Banking/hoặc đưa thẻ vào CDM.

  • Bước 2: Trên màn hình chính chọn Tiền gửi trực tuyến.
  • Bước 3: Nhấn chọn Mở tài khoản tiết kiệm.
  • Bước 4: Nhập số tiền cần gửi và chọn kỳ hạn mong muốn. Chọn “Hình thức gia hạn” để lựa chọn các thức gian hạn nếu Người tiêu dùng muốn cuối kỳ hạn (Tự động gia hạn gốc, tự động gia hạn gốc lãi, tự động tất toán khi đến hạn).
  • Bước 5: Ấn “Tôi xác nhận đã đọc, hiểu rõ Điều kiện và điều khoản để mở tài khoản trực tuyến” sau đó chọn “Tiếp tục”.
  • Bước 6: Kiểm tra thông tin tài khoản cẩn thận, ấn “Tiếp tục”
  • Bước 7: Hệ thống tạo tài khoản và hoàn thành giao dịch. Trên màn hình hiện lên Danh sách tài khoản tiết kiệm mở thành công. Tại đây, Người tiêu dùng có thể theo dõi tiến độ của tài khoản.

Bảng 2.1. So sánh gửi tiết kiệm trực tuyến với gửi tiết kiệm tại ngân hàng

Từ bảng so sánh trên, Người tiêu dùng có thể thấy rằng việc gửi tiết kiệm online có những ưu điểm nổi bật hơn hình thức gửi trực tiếp tại ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm trực tuyến được chuyển hẳn vào ngân hàng và được giữ an toàn tại đó.

Tiền gửi trực tuyến của Agribank có kỳ hạn lãi sau từ 01 đến 24 tháng. Để khuyến khích khách hàng có thêm nhiều trải nghiệm dịch vụ ngân hàng số, Agribank miễn phí mở, đóng tài khoản Tiền gửi trực tuyến.

Dưới góc độ thực tiễn, nhận tiền gửi tiết kiệm Online có thực sự an toàn? Ngân hàng VPBank đã triển khai các bước nhằm bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng góp phần nâng cao hiêu quả thực tiễn trong việc thi hành pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Đứng ở góc độ Người tiêu dùng thì gửi tiết kiệm từ lâu đã là hình thức đầu tư an toàn, được đa số người Việt Nam tin tưởng để sinh lời từ khoản tiền nhàn rỗi. Trong đó, hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm Online đã và đang trở thành xu hướng mới cho người gửi tiền. Tại ngân hàng VPBank đa số người dùng, tiết kiệm Online vẫn còn là khái niệm mới mẻ, và không ít người có câu hỏi: “Gửi tiết kiệm Online có an toàn hay không?”. Tiết kiệm Online là hình thức tiết kiệm hiện đại, mà Người tiêu dùng không cần phải đến ngân hàng để làm thủ tục gửi hay rút tiết kiệm. Thay vào đó, toàn bộ quá trình do Người tiêu dùng tự thao tác qua Ngân hàng điện tử trên điện thoại di động hoặc máy tính. Toàn bộ quá trình không có sự can thiệp của nhân viên ngân hàng, mà do hệ thống tự động thực hiện qua nhiều lớp xác thực và bảo mật. Để gửi tiết kiệm Online, khách hàng cần chuyển tiền sẵn có từ tài khoản thanh toán sang một tài khoản tiết kiệm Online. Khi đáo hạn, tiền gốc và lãi sẽ được gửi lại về tài khoản thanh toán của Người tiêu dùng.

Đứng ở góc độ bảo vệ Người tiêu dùng, câu hỏi gửi tiết kiệm online hay là nhận tiền gửi online có an toàn không? Một số trường hợp Người tiêu dùng gửi tiền tiết kiệm truyền thống mặc dù đã nhận được sổ tiết kiệm, nhưng khi kiểm tra mới biết sổ bị giả mạo, tiền cũng không vào hệ thống ngân hàng. Trường hợp khác, một số cán bộ ngân hàng giả mạo hồ sơ để rút tiền từ sổ tiết kiệm của Người tiêu dùng một cách bất hợp pháp. Vậy với hình thức gửi tiết kiệm Online, người gửi tiền không cầm trong tay chứng từ nào thì độ an toàn tới đâu? Trên thực tế, vì lệnh giao dịch gửi / rút với tiết kiệm Online do chỉ có thể do chính Người tiêu dùng thực hiện nên các giao dịch tiết kiệm Online không thể bị giả mạo bởi con người. Khi khách hàng gửi tiết kiệm Online, tài khoản tiết kiệm được ghi nhận vào hệ thống và ngân hàng lập tức gửi email / SMS xác nhận cho Người tiêu dùng. Để rút tiền, Người tiêu dùng cần nhập mật khẩu dùng một lần (OTP) gửi về điện thoại di động mà chỉ Người tiêu dùng biết. Toàn bộ quá trình này không thể bị giả mạo, khiến tiết kiệm Online vô cùng an toàn. Như vậy ngân hàng VPBank có một lượng khách hàng lớn tham gia giao dịch trực tuyến gửi tiền đã chứng minh được thực tế thi hành pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ HNĐT. Vấn đề đặt ra ở VPBank là nhận tiền gửi tiết kiệm online không có sổ vật lý hay chứng từ nào, bởi vì, Người tiêu dùng gửi tiết kiệm Online sẽ nhận được SMS / Email xác nhận từ hệ thống. Đồng thời, Người tiêu dùng được tạo một danh mục tài khoản tiết kiệm trên Internet banking để kiểm tra số dư và lãi bất cứ lúc nào. Đây là chứng minh quan trọng nhất cho tình trạng tiền gửi của Người tiêu dùng. Riêng tại VPBank, Người tiêu dùng gửi tiết kiệm Online có thể ra chi nhánh gần nhất để lấy xác nhận số dư tài khoản tiết kiệm bất cứ lúc nào. Giấy xác nhận này có giá trị không khác gì sổ vật lý để làm các hồ sơ chứng minh thu nhập, làm tài sản đảm bảo vay vốn, xin cấp visa du lịch. Nắm bắt tâm lý Người tiêu dùng trong việc nhận gửi tiền tiết kiệm trực tuyến, VPBank đang thể hiện trách nhiệm của mình là làm thế nào để biết tiền gửi tiết kiệm của Người tiêu dùng đang an toàn trong hệ thống. Đây là câu hỏi rất đầy băn khoăn của Người tiêu dùng mà quá trình thi hành pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong việc nhận tiền gửi tại ngân hàng VPBank quan tâm nhất. Ví dụ như: Hệ thống ngân hàng đã ghi nhận sổ tiết kiệm của Người tiêu dùng hay chưa? Sổ tiết kiệm vẫn đang an toàn trên hệ thống? Số dư và lãi của sổ tiết kiệm tích lũy được đang là bao nhiêu?. Với VP Bank, người gửi tiền có thể truy cập Internet banking để kiểm tra xem tài khoản tiết kiệm đã được ghi nhận vào hệ thống chưa, và kiểm tra số dư / tiền lãi bất cứ khi nào. Người tiêu dùng hoàn toàn có thể yên tâm về tình trạng tài khoản tiết kiệm của mình. Thực tế, không chỉ với tiết kiệm Online, mà VPBank cho phép Người tiêu dùng kiểm tra cả tình trạng sổ tiết kiệm gửi tại quầy qua Internet banking. Do đó, VPBank khuyến khích 100% khách hàng gửi tiết kiệm nên mở Internet banking để kiểm soát tài khoản tiết kiệm của mình[5]. Thực tế nhiều băn khoăn của Người tiêu dùng khi giao dịch với VPBank trong thời gian qua đều biểu lộ thái độ cụ thể trong những trường hợp ngân hàng cần phải bảo vệ Người tiêu dùng ở khâu nhận tiền gửi tiết kiệm là nếu bị mất điện thoại hoặc lộ thông tin Internet Banking thì liệu có bị mất tiền không?

Để gửi tiết kiệm Online tại một ngân hàng nào đó mà cụ thể là VPBank thì trước hết Người tiêu dùng cần phải có một tài khoản thanh toán và phải đăng ký dịch vụ Ngân hàng điện tử (Internet Banking) tại chính ngân hàng. Ví dụ: Người tiêu dùng đang có tài khoản thanh toán tại ngân hàng VPBank, có thể gửi tiết kiệm trực tuyến trên VPBank Online bằng cách:

  • Bước 1: Đăng nhập ứng dụng VPBank Online hoặc Website http://online.vpbank.cm.v chọn “Tiết kiệm”;
  •  Bước 2: Chọn “Mở Tiết kiệm trực tuyến”; Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
  •  Bước 3: Chọn loại tiết kiệm phù hợp và nhập thông tin;
  • Bước 4: Hoàn thành.

2.2.2. Sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản

Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Theo khoản 1 điều 1 thông tư 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 sửa đổi bổ sung một số điều thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19 tháng 8 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về việc thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán, quy định tại điều 13a, như sau:

Thứ nhất: Thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán giữa ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng phải bao gồm tối thiểu các nội dung sau đây: số văn bản (nếu có), thời điểm (ngày, tháng, năm) lập thỏa thuận; tên ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tên chủ tài khoản, họ và tên người đại diện hợp pháp của chủ tài khoản (nếu chủ tài khoản là tổ chức), họ và tên người đại diện theo pháp luật của chủ tài khoản; các nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên; quy định về phí; việc cung cấp thông tin và hình thức thông báo cho chủ tài khoản biết về: số dư và các giao dịch phát sinh trên tài khoản thanh toán, việc tài khoản thanh toán bị tạm khóa, phong tỏa và các thông tin cần thiết khác trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán; các trường hợp tạm khóa, ngừng tạm khóa và phong tỏa, chấm dứt phong tỏa tài khoản thanh toán, trong đó có trường hợp tạm khóa, phong tỏa tài khoản thanh toán khi phát hiện có sai lệch hoặc có dấu hiệu bất thường giữa các thông tin nhận biết khách hàng với các yếu tố sinh trắc học của khách hàng trong quá trình mở và sử dụng tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử quy định tại điểm c khoản 2 Điều 14a Thông tư nêu trên; phạm vi sử dụng, hạn mức giao dịch qua tài khoản thanh toán và các trường hợp tạm dừng, từ chối thực hiện lệnh thanh toán của chủ tài khoản; việc sử dụng tài khoản thanh toán để chi trả các khoản thanh toán thường xuyên, định kỳ theo yêu cầu của chủ tài khoản hoặc việc ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thu các khoản nợ đến hạn, quá hạn, tiền lãi và các chi phí phát sinh trong quá trình quản lý tài khoản và cung ứng các dịch vụ thanh toán; việc thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn, bảo mật trong sử dụng tài khoản thanh toán; phương thức tiếp nhận đề nghị tra soát, khiếu nại; thời hạn xử lý đề nghị tra soát, khiếu nại và việc xử lý kết quả tra soát, khiếu nại; các trường hợp đóng tài khoản thanh toán và việc xử lý số dư còn lại  khi thực hiện đóng tài khoản thanh toán; n) Trường hợp các chủ thể đứng tên mở tài khoản chung chưa có văn bản theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 12 thì trong thoả thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán phải có nội dung về việc quản lý và sử dụng tài khoản thanh toán chung của các chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Thứ hai: Trường hợp sử dụng hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện: a) Niêm yết công khai hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung về  mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại địa điểm giao dịch hợp pháp thuộc mạng lưới hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và đăng tải trên trang thông tin điện tử, phần mềm ứng dụng giao dịch trực tuyến trên Internet, điện thoại di động (nếu có) của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung cho khách hàng biết trước khi tiến hành việc mở tài khoản thanh toán cho khách hàng và có xác nhận của khách hàng về việc đã được ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp đầy đủ thông tin.”. Như vậy việc mở tài khoản và sử dụng thanh toán giữa ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng phải bao gồm tối thiểu các nội dung phù hợp với thực tiễn, trong đó bảo đảm đầy đủ các thông tin giữa khách hàng và Tổ chức tín dụng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.

Đối với việc mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử, tại điều 14a thông tư của ngân hàng nhà nước cũng quy định: Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Một là: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện mở tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử phải xây dựng, ban hành, công khai quy trình, thủ tục mở tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử phù hợp với quy định tại Điều này, pháp luật về phòng, chống rửa tiền, pháp luật về giao dịch điện tử, các quy định pháp luật liên quan về đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin khách hàng và an toàn hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm tối thiểu các bước như sau: Thu thập thông tin về hồ sơ mở tài khoản thanh toán theo quy định tại khoản 1, 4, 5 Điều 12, khoản 1 Điều 13 Thông tư này; Thực hiện kiểm tra, đối chiếu và xác minh thông tin nhận biết khách hàng; Cảnh báo cho khách hàng về các hành vi không được thực hiện trong quá trình mở và sử dụng tài khoản thanh toán được mở bằng phương thức điện tử; Cung cấp cho khách hàng nội dung thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều 13a Thông tư này và thực hiện giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán với khách hàng; Thông báo số hiệu, tên tài khoản thanh toán, hạn mức giao dịch qua tài khoản thanh toán và ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản thanh toán cho khách hàng.

Hai là: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyết định biện pháp, hình thức, công nghệ để nhận biết và xác minh khách hàng phục vụ việc mở tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử; chịu trách nhiệm về rủi ro phát sinh (nếu có) và phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu sau: Có giải pháp, công nghệ để thu thập, kiểm tra, đối chiếu, đảm bảo sự khớp đúng giữa thông tin nhận biết khách hàng, dữ liệu sinh trắc học của khách hàng (là các yếu tố, đặc điểm sinh học gắn liền với khách hàng thực hiện định danh, khó làm giả, có tỷ lệ trùng nhau thấp như vân tay, khuôn mặt, mống mắt, giọng nói và các yếu tố sinh trắc học khác) với các thông tin, yếu tố sinh trắc học tương ứng trên giấy tờ tùy thân của khách hàng quy định tại khoản 1 Điều 12 Thông tư này hoặc với dữ liệu định danh cá nhân được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bởi Tổ chức tín dụng khác hoặc bởi tổ chức được cung ứng dịch vụ định danh và xác thực điện tử; Có biện pháp kỹ thuật để xác nhận việc khách hàng đã được định danh đồng ý với các nội dung tại thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán; Xây dựng quy trình quản lý, kiểm soát, đánh giá rủi ro, trong đó có biện pháp ngăn chặn các hành vi mạo danh, can thiệp, chỉnh sửa, làm sai lệch việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng trước, trong và sau khi mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; biện pháp để kiểm tra, xác minh thông tin nhận biết khách hàng đảm bảo khách hàng thực hiện giao dịch trên tài khoản thanh toán được mở bằng phương thức điện tử là chủ tài khoản thanh toán đó. Trường hợp phát hiện có rủi ro, sai lệch hoặc có dấu hiệu bất thường giữa các thông tin nhận biết khách hàng với các yếu tố sinh trắc học của khách hàng hoặc phát hiện giao dịch đáng ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải kịp thời từ chối hoặc dừng giao dịch, tạm khóa hoặc phong tỏa tài khoản thanh toán và tiến hành xác minh lại thông tin nhận biết khách hàng. Quy trình quản lý, kiểm soát rủi ro phải thường xuyên được rà soát, hoàn thiện dựa trên những thông tin, dữ liệu cập nhật trong quá trình cung ứng dịch vụ; d) Lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chi tiết theo thời gian đối với các thông tin, dữ liệu nhận biết khách hàng trong quá trình khách hàng mở, sử dụng tài khoản thanh toán, như: thông tin nhận biết khách hàng; các yếu tố sinh trắc học của khách hàng; âm thanh, hình ảnh, bản ghi hình, ghi âm; số điện thoại thực hiện giao dịch; nhật ký giao dịch. Các thông tin, dữ liệu phải được lưu trữ an toàn, bảo mật, được sao lưu dự phòng, đảm bảo tính đầy đủ, toàn vẹn của dữ liệu để phục vụ cho công tác kiểm tra, đối chiếu, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Thời gian lưu trữ thực hiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Ba là: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn cứ điều kiện công nghệ để đánh giá rủi ro, xác định phạm vi sử dụng và quyết định áp dụng hạn mức giao dịch qua tài khoản thanh toán của khách hàng mở bằng phương thức điện tử nhưng phải đảm bảo tổng hạn mức giá trị giao dịch (ghi Nợ) qua các tài khoản thanh toán của khách hàng đó không vượt quá 100 triệu đồng/tháng/khách hàng.

Bốn là: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyết định áp dụng hạn mức giao dịch qua tài khoản thanh toán mở bằng phương thức điện tử cao hơn hạn mức quy định tại khoản 3 Điều này đối với một trong các trường hợp sau: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng giải pháp cuộc gọi ghi hình (video call) để thực hiện thu thập, kiểm tra, xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong quá trình mở tài khoản thanh toán đảm bảo hiệu quả như quy trình nhận biết, xác minh thông tin khách hàng qua phương thức gặp mặt trực tiếp; giải pháp video call phải đáp ứng tối thiểu các yêu cầu sau: đảm bảo an toàn, bảo mật; độ phân giải cao; tín hiệu liên lục; cho phép tương tác âm thanh, hình ảnh với khách hàng theo thời gian thực để đảm bảo nhận diện người thật; lưu trữ toàn bộ dữ liệu âm thanh, hình ảnh hoặc bản ghi hình, ghi âm trong quá trình mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng công nghệ để kiểm tra, đối chiếu đặc điểm sinh trắc học của khách hàng với dữ liệu sinh trắc học công dân thông qua cơ sở dữ liệu căn cước công dân; Sau khi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thực hiện việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua gặp mặt trực tiếp chủ tài khoản; Các giao dịch chuyển tiền để gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn bằng phương thức điện tử cho chính chủ tài khoản tại ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó; Các trường hợp ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được chủ động trích Nợ tài khoản thanh toán của khách hàng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Thông tư này.

Năm là: Việc mở tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử quy định tại Điều này không áp dụng đối với tài khoản thanh toán chung, khách hàng cá nhân là người nước ngoài và các đối tượng quy định tại điểm b, c, d khoản 1 Điều 11 Thông tư này.

Xét về phương diện pháp luật điều chỉnh việc sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản trong hoạt động ngân hàng có thể nhận thấy Người tiêu dùng luôn được bảo vệ tối đa. Trách nhiệm cung ứng dịch vụ điện tử ngân hàng là các Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quy định rõ ràng, cụ thể bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong đó có bên sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là khách hàng.

2.2.3. Những bất cập, hạn chế trong thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Thứ nhất: Tổ chức tín dụng chưa quan tâm giải quyết nhanh chóng, kịp thời khi quyền lợi Người tiêu dùng bị xâm phạm.

Trong giai đoạn từ năm 2015 cho tới cuối năm 2022, lĩnh vực cho vay tín dụng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử liên tục có tốc độ tăng trưởng cao, trung bình 20%/năm, đạt quy mô 646.000 tỷ đồng, phục vụ 20 triệu lượt khách hàng trên cả nước. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, dư địa tăng trưởng của thị trường tài chính tiêu dùng vẫn rất lạc quan với mức tăng trưởng 25% – 30%/năm trong những năm sắp tới.

Tuy nhiên, các hành vi xâm phạm quyền lợi của Người tiêu dùng đang có xu hướng tăng cả về quy mô và mức độ phức tạp có khả năng gây ảnh hưởng, thậm chí là nghiêm trọng tới quyền lợi của Người tiêu dùng. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển bền vững trong lĩnh vực này, vấn đề bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng cần được xác định là một trong những nội dung quan trọng và xuyên suốt trong thị trường tài chính tiêu dùng.

Theo báo cáo từ Cục Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng, Bộ Công Thương (Cục CT&BVNTD) cho biết trong những năm gần đây, số lượng khiếu nại của Người tiêu dùng chủ yếu tập trung vào nhóm chủ thể là công ty tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Đối với hành vi xâm phạm quyền lợi Người tiêu dùng xử lý còn rất phiến diện.

Theo khiếu nại, phản ánh của Người tiêu dùng, các hành vi xâm phạm quyền lợi Người tiêu dùng chủ yếu tập trung vào một số hành vi sau: Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Một là: Cung cấp thông tin không chính xác, đầy đủ, rõ ràng, gây nhầm lẫn cho Người tiêu dùng.

Theo khiếu nại của Người tiêu dùng, nhân viên tư vấn thường cung cấp không đầy đủ thông tin hoặc thông tin sai lệch, gây nhầm lẫn cho Người tiêu dùng. Ví dụ, khi tư vấn, nhân viên cam kết mức lãi suất chỉ từ 1-2%/tháng. Thực tế, mức lãi suất thể hiện trên hợp đồng là 6%/tháng. Trong thời gian gần đây, có hiện tượng nhân viên tư vấn mạo danh tên của ngân hàng để giới thiệu dịch vụ cho vay. Thực tế, sau khi kiểm tra hợp đồng đã ký kết, Người tiêu dùng mới nhận thấy khoản vay là do công ty tài chính cung cấp với mức lãi suất khá cao.

Hai là: Không cung cấp hợp đồng cho Người tiêu dùng tại thời điểm ký kết.

Nhiều khiếu nại của Người tiêu dùng cho rằng, tại thời điểm ký kết hợp đồng, nhân viên thường hối thúc Người tiêu dùng nhanh chóng ký mà không để Người tiêu dùng đọc, nghiên cứu kỹ nội dung hợp đồng. Sau khi ký kết hợp đồng cho vay tín dụng, nhân viên từ chối giao bản hợp đồng gốc để Người tiêu dùng lưu giữ hoặc không cho phép Người tiêu dùng sao chụp hợp đồng.

Trong những trường hợp này, nhân viên tư vấn thường lấy lý do phải chuyển hợp đồng về ngân hàng để lấy dấu, hẹn sẽ chuyển theo đường bưu điện cho Người tiêu dùng sau.

Ba là: Không ghi nhận, không giải quyết, kéo dài thời gian giải quyết yêu cầu của Người tiêu dùng.

Khi có tranh chấp phát sinh, Người tiêu dùng gặp nhiều khó khăn trong quá trình phản ánh và làm việc với đơn vị tài chính. Ví dụ, việc gọi điện tới tổng đài điện thoại của công ty thường tốn nhiều tiền cước, lời thoại hướng dẫn dài dòng, khó hiểu; nhân viên tổng đài không ghi nhận nội dung khiếu nại, dẫn tới, khi lần sau gọi lại, Người tiêu dùng mất thêm thời gian để trình bày vụ việc…Nhiều trường hợp Người tiêu dùng không thể chứng minh được thời điểm gửi khiếu nại tới công ty do hình thức liên lạc qua điện thoại không được ghi nhận đầy đủ. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Bốn là: Đe dọa, quấy rối Người tiêu dùng khi nhắc, thu hồi nợ.

Báo cáo hoạt động năm 2017 của Cơ quan Bảo vệ tài chính tiêu dùng của Mỹ (Consumer Financial Protection Bureau cho thấy, khiếu nại về hành vi thu hồi nợ vẫn tiếp tục là nhóm hành vi bị khiếu nại nhiều nhất với số lượng là 84.500 khiếu nại, trong đó, 39% khiếu nại liên quan đến việc thu hồi nợ nhầm, 22% liên quan đến cách thức liên hệ để thu hồi nợ, các hành vi khác bao gồm việc đe dọa, lừa dối Người tiêu dùng để thu hồi nợ.

Tại thị trường tài chính tiêu dùng Việt Nam trong những năm gần đây cũng đang ghi nhận số lượng lớn khiếu nại của Người tiêu dùng liên quan đến hành vi thu hồi nợ của các bên liên quan, trong đó, phổ biến là việc người đi vay, bạn bè, người thân của người đi vay liên tục nhận được các cuộc gọi, tin nhắn có nội dung đe dọa, quấy rối, làm phiền.

Các hành vi nêu trên đều được xem là có dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Vì vậy, khi phát hiện hoặc khi gặp phải các tình huống tương tự, NTD cần cảnh giác, đồng thời, chủ động phản ánh tới các cơ quan nhà nước để được tư vấn và hỗ trợ giải quyết.

Năm là: Gói dịch vụ cho vay tiêu dùng 0% lãi suất.

Thời gian gần đây, các đơn vị cho vay kết hợp với các đơn vị bán hàng triển khai loại hình cho vay mới, trong đó, có nhiều ưu điểm cho Người tiêu dùng nhưng đồng thời, cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu như Người tiêu dùng không được cảnh báo, cung cấp đầy đủ thông tin. Cụ thể, khi có nhu cầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ, Người tiêu dùng sẽ được nhân viên giới thiệu gói tài chính hỗ trợ 0% lãi suất, Người tiêu dùng chỉ phải trả góp tiền gốc hàng tháng. Trong tình huống đó, nếu Người tiêu dùng không nhận định đầy đủ về tổng giá trị khoản vay, về các điều kiện đi kèm khi vay và chỉ tập trung vào mức tiền trả góp hàng tháng (thường là không lớn) thì rất dễ đi đến quyết định vay tiền để mua sắm. Với những trường hợp này, thường chỉ khi xảy ra tranh chấp thì Người tiêu dùng mới nhận thẫy những bất cập hoặc sự không phù hợp của khoản vay với năng lực tài chính của bản thân.

Thứ hai: Việc tuân thủ và phát huy hiệu quả các quy định của NNNN Việt Nam trong thiết lập tiêu chuẩn để cung ứng dịch Ngân hàng điện tử.

NNNN đã ban hành Quyết định số 35/2006/QĐ-NHNN ngày 31/7/2006 của Thống đốc quy định về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng điện tử. Dựa trên quyết định này, NNNN đã yêu cầu các Tổ chức tín dụng được cấp phép hoạt động Ngân hàng điện tử phải xây dựng chính sách quản lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng điện tử của tổ chức mình dựa trên các nguyên tắc đưa ra trong quyết định để đảm bảo giám sát chặt chẽ các rủi ro có thể xảy ra trong giao dịch với Người tiêu dùng, với bên cung cấp dịch vụ mạng Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

NHĐT và các sự cố có thể phát sinh cũng như thiết lập các biện pháp sẵn có để kiểm soát và khắc phục sự cố kịp thời. Quyết định số 35 cũng yêu cầu các tổ Tổ chức tín dụng này phải lập quy định nội bộ về quản lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng điện tử và báo cáo định kỳ 6 tháng một lần lên Ngân hàng NNNN. Ngược lại, phía NNNN (Cục Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Cục Công nghệ tin học) cũng sẽ tiến hành thanh tra đột xuất để kiểm tra việc tuân thủ Quyết định 35 của các tổ chức này.

Đồng thời, trước nguy hại của vi-rút mạng và tin tặc mạng đến dịch vụ, NHNN lại tiếp tục ban hành Thông tư số 21/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên mạng Internet. Trước đó, NNNN đã đưa ra Thông tư 29/2011/TT-NHNN ngày 21/9/2011 của NNNN Việt Nam quy định về đảm bảo an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet.. Do đó, Thông tư 21 đã kế thừa và cập nhật nhiều nội dung để nhấn mạnh nghĩa vụ cũng như hướng dẫn thiết lập hệ thống bảo mật thông tin khách hàng khi Tổ chức tín dụng sử dụng Internet để cung ứng dịch vụ tài chính của mình. Cụ thể, Thông tư 21 đã yêu cầu các Tổ chức tín dụng liên tục quản trị, bảo trì, cập nhật hạ tầng máy chủ cùng phần mềm hệ thống Internet banking một cách định kỳ và mã hóa dữ liệu theo thuật toán mã hóa phù hợp để đảm bảo chế độ “Mật” cho thông tin của Người tiêu dùng. Thông tư 29 cũng đòi hỏi các Tổ chức tín dụng quản lý nhật ký truy cập hệ thống Internet banking hàng tháng nhằm phòng ngừa những truy cập bất thường hoặc bất hợp pháp diễn ra và hướng dẫn Người tiêu dùng một cách chi tiết về cách thức tự bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng dịch vụ Internet banking của tổ chức đó. Báo cáo về việc quản lý cung cấp dịch vụ Internet banking định kỳ hàng năm và báo cáo đột xuất khi sự cố phát sinh cũng được quy định tại Thông tư 21.

Sau khi các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật các Tổ chức tín dụng cũng như Luật NNNN hiện hành được công bố, các ngân hàng thương mại cũng chủ động cập nhật, hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin hiện có như xây dựng các chương trình tường lửa “firewall”, các chương trình phần mềm phòng chống mã độc (Anti-Malware), chương trình phần mềm chống thất thoát các dữ liệu thông tin NTD khi thông tin đi qua các trạm trung gian an ninh để bảo đảm yêu cầu NNNN đề ra về giữ bí mật thông tin Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính như Internet banking, thanh toán thẻ, Ngân hàng điện tử… của tổ chức mình. Một số ngân hàng lớn như Vietinbank, Vietcombank, BIDV,… cũng đã tự thiết lập Chiến lược An toàn thông tin cho hệ thống công nghệ thông tin nhằm chủ động nhận biết và đánh giá những rủi ro tiềm ẩn và đưa ra các giải pháp để giảm thiểu, loại trừ rủi ro thất thoát dữ liệu Người tiêu dùng. Dù vậy, các vụ tin tặc tấn công những năm gần đây ngày càng có tổ chức và sử dụng công nghệ mã hóa ngày càng tinh vi khiến việc bảo mật khó có thể tuyệt đối. Hơn nữa, hệ thống Tổ chức tín dụng Việt Nam vẫn chưa có sự đầu tư đồng bộ, toàn diện về bảo mật thông tin cũng như bảo mật công nghệ thông tin khiến hệ thống bảo mật khi đưa vào sử dụng vẫn còn lỗ hổng. Vì vậy, tăng cường giám sát chặt chẽ việc thực thi các văn bản pháp luật của các Tổ chức tín dụng thông qua các đợt thanh tra định kỳ dưới sự phối hợp của Cục Công nghệ tin học và Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng là một giải pháp để đảm bảo bảo mật công nghệ thông tin của các Tổ chức tín dụng được giữ vững. Đồng thời, sau các cuộc thanh tra, giám sát cùng kiểm tra định kỳ của 2 cơ quan này, NNNN nên công bố kết quả giám sát việc thực thi quy định về công nghệ thông tin cũng như đưa ra đánh giá mức độ bảo mật thông tin của Người tiêu dùng từ các Tổ chức tín dụng và chỉ rõ các Tổ chức tín dụng đang có sai phạm hoặc chưa tuân thủ đầy đủ quy định. Với giải pháp này, các Tổ chức tín dụng sẽ có ý thức hơn trong việc đảm bảo an toàn công nghệ thông tin và bảo mật thông tin Người tiêu dùng khi cung ứng dịch vụ tài chính để giữ chữ “tín” trên thị trường tài chính. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Song song với biện pháp nâng cao công nghệ ngân hàng, các Tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng chủ động công khai chính sách bảo mật thông tin Người tiêu dùng trên trang chủ điện tử và có những cam kết bảo mật thông tin Người tiêu dùng trên các hợp đồng cung ứng dịch vụ tài chính của mình. Dù vậy, nhiều ngân hàng cũng chưa có thông báo bằng lời với những giải thích cặn kẽ về nghĩa vụ của ngân hàng trong bảo mật thông tin Người tiêu dùng khi khách hàng tham gia vào dịch vụ tài chính của ngân hàng mà chỉ quy định rõ trong văn bản hợp đồng mà khách hàng đã ký kết. Nhiều khách hàng với tính chủ quan và kiến thức tài chính hạn hẹp có thể chưa nắm rõ quyền được bảo mật thông tin của mình và xem nhẹ vấn đề này khi ký kết hợp đồng. Phổ cập dân trí về tài chính cho người dân có thể là một biện pháp tốt để tăng cường nhận thức và sự cẩn trọng của khách hàng khi thực hiện giao dịch thông qua các dịch vụ tài chính của Tổ chức tín dụng Việt Nam. Ở các nước phát triển như Úc, Mỹ, Pháp…, Chính phủ luôn tài trợ thiết lập một kênh chương trình giáo dục tài chính với những kiến thức tài chính cơ bản và thông tin cần thiết về các dịch vụ tài chính hiện có của quốc gia họ nhằm phổ cập kiến thức cơ bản cho công dân ở mọi lứa tuổi và có nhận thức hơn về nghĩa vụ của mình khi tham gia sử dụng dịch vụ tài chính từ các Tổ chức tín dụng. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Chế tài xử phạt, trách nhiệm và nghĩa vụ mỗi bên khi thiệt hại do rò rỉ thông tin Người tiêu dùng vẫn chưa được quy định chi tiết. Mục 13 về vi phạm quy định về chế độ thông tin, báo cáo của Nghị định 96/2014/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng cũng chưa đề cập đến vi phạm khi để lộ thông tin khách hàng hoặc gây thiệt hại cho khách hàng do lỗi của NHTM. Thêm vào đó, các thông tư như Thông tư số 29/2011/TT-NHNN, Thông tư 36/2012/TTNHNN, Thông tư số 20/2016/TT-NHNN, Thông tư 47/2014/TT-NHNN, chưa đề cập đến việc xử phạt hay những biện pháp xử lý khi các Tổ chức tín dụng vi phạm hoặc làm sai những gì đã quy định và hướng dẫn. Hơn nữa, nếu văn bản pháp luật của Ngân hàng nhà nước có đề cập thì chỉ dừng ở mức khá chung, chưa đi vào chi tiết. Ví dụ như Thông tư 02/2001/TT-NHNN cũng chỉ quy định nếu thông tin khách hàng bị lộ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều 28 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 cũng chỉ quy định, NNNN sẽ thu hồi Giấy phép hoạt động trong trường hợp “TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quyết định xử lý của Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng” mà chưa đề cập chi tiết về xử lý vi phạm khi bảo mật thông tin khách hàng bị xâm phạm do lỗi bên Tổ chức tín dụng. Điều 47 về xử lý vi phạm của Thông tư số 31/2015/TT-NHNN mới chỉ đề cập “Các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định tại Thông tư này, tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật”. Chính sự quy định chế tài chưa cụ thể đã khiến cho các tổ chức sai phạm thường ít chịu trách nhiệm khi việc chứng minh thiệt hại từ khách hàng do lộ thông tin còn nhiều khó khăn. Do đó, việc quy định một khung pháp lý xử phạt đủ mạnh như mức độ vi phạm, mức phạt, mức độ bồi thường, trong trường hợp Tổ chức tín dụng để lộ bí mật thông tin khách hàng hoặc không tuân thủ đầy đủ các văn bản quy phạm về công nghệ thông tin dù cố ý hay vô ý là cần thiết để bổ sung cho Nghị định 96/2014/NĐ-CP và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan của Ngân hàng nhà nước như Điều 14 của văn bản hợp nhất Luật các Tổ chức tín dụng 2017 và Điều 47 của Thông tư số 31/2015/TT-NHNN. Và số tiền phạt có được sẽ được sung vào ngân sách Nhà nước để hỗ trợ hoạt động công quyền của Nhà nước.

Thứ ba: Vai trò của các hiệp hội, tổ chức trong việc bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính trong bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Với tư cách là một trong những thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính trong bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ NHĐT, tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng có những vai trò sau:

Một là: thực hiện và bảo đảm cho các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng được tuân thủ và tôn trọng trên thực tế. Hệ thống pháp luật đã quy định đầy đủ các quyền năng cho việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, nhưng nếu không có các tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, khó có thể đảm bảo cho các quy định pháp luật đi vào đời sống và thực thi những quyền năng của Người tiêu dùng. Điều này được chứng minh qua thực tiễn đảm bảo quyền lợi của Người tiêu dùng trong nhiều năm qua, đặc biệt là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng gọi chung là doanh nghiệp) thường nâng cao trách nhiệm bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng hơn khi tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng lên tiếng.

Hai là: tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng như một địa chỉ tin cậy để Người tiêu dùng có thể nhận được sự tư vấn, hỗ trợ và tìm kiếm sự bảo vệ quyền lợi của mình. Trong quan hệ tiêu dùng, một trong những đặc điểm nổi bật là sự yếu thế của Người tiêu dùng so với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ (doanh nghiệp). Để khắc phục phần nào sự bất cân xứng trong quan hệ tiêu dùng, vai trò của tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng rất quan trọng trong việc tiếp thêm “sức mạnh” cho Người tiêu dùng bằng cách: tư vấn pháp lý, đại diện Người tiêu dùng khởi kiện, hỗ trợ tiếp cận với các cơ quan có thẩm quyền,…

Ba là: là tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng có vai trò giám sát sự vận hành của thị trường, giám sát cách ứng xử của các nhà sản xuất, kinh doanh trên thị trường. Thông qua đó, vai trò của tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng giống như cánh tay nối dài của hệ thống các cơ quan nhà nước và là một bộ phận quan trọng trong hệ thống thiết chế bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Các doanh nghiệp có thể không quan tâm đến quyền lợi của một vài Người tiêu dùng đơn lẻ, nhưng với sự hỗ trợ của tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, bản thân các doanh nghiệp buộc phải có những chính sách, hành động tuân thủ pháp luật và tránh xâm phạm đến quyền lợi Người tiêu dùng. Bên cạnh đó, những vi phạm của doanh nghiệp đối với Người tiêu dùng sẽ dễ dàng bị đưa ra xử lý khi đặt dưới sự giám sát của tổ chức bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.

Trong những vai trò trên, đáng chú ý là vai trò của tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng, thông qua việc Hội Bảo vệ Người tiêu dùng đại diện Người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích của Người tiêu dùng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hội Bảo vệ Người tiêu dùng quy định rất rõ 5 nguyên tắc: 1. Tự nguyện, tự quản; 2. Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch; 3. Tự bảo đảm kinh phí hoạt động; 4. Không vì mục đích lợi nhuận. 5. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Hội. Trên cơ sở các nguyên tắc này, vai trò đại diện Người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích của Người tiêu dùng của Hội Bảo vệ Người tiêu dùng trong các vụ việc tranh chấp tiêu dùng đã được Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010 quy định. Đây là một trong những điểm tiến bộ của Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010 so với Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Hội Bảo vệ Người tiêu dùng có quyền đồng thời có trách nhiệm đại diện Người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng. Khi tự mình khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng vì lợi ích công cộng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng có nghĩa vụ sau: Thông báo thông tin về nội dung vụ án theo quy định tại Điều 44 Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; Đảm bảo quyền tham gia vụ án của những Người tiêu dùng có liên quan đến vụ án; Chịu các chi phí phát sinh trong quá trình khởi kiện. Trường hợp tổ chức xã hội đã thực hiện việc khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, các tổ chức xã hội liên quan có quyền và nghĩa vụ phối hợp với tổ chức xã hội đã khởi kiện để thu thập chứng cứ, cung cấp thông tin và các hoạt động khác liên quan đến quá trình tố tụng.

Như vậy, bên cạnh vai trò đại diện Người tiêu dùng khởi kiện trong các tranh chấp tiêu dùng, Hội Bảo vệ Người tiêu dùng còn cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Hội Bảo vệ Người tiêu dùng được quyền độc lập khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, thử nghiệm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo cho Người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thông tin, cảnh báo của mình; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.

Thực tiễn cho thấy, công tác của Hội Bảo vệ Người tiêu dùng tham gia giải quyết tranh chấp giữa Người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có tầm quan trọng vô cùng trong việc bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng. Công tác tư vấn giải quyết khiếu nại là một trong những công tác trọng tâm của Hội Bảo vệ Người tiêu dùng, thu hút sự tham gia của cả hệ thống Hội Bảo vệ Người tiêu dùng từ Trung ương đến địa phương. Với tôn chỉ và mục đích hoạt động vì quyền lợi Người tiêu dùng, việc tham gia giải quyết tranh chấp giữa Người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ đã được Hội hết sức quan tâm, thực hiện nghiêm chỉnh, tận tâm, tận lực. Đặc biệt, Trung ương hội đã duy trì tốt hoạt động của Văn phòng Tư vấn giải quyết khiếu nại cho Người tiêu dùng tại một số địa bàn trọng điểm trên cả nước như Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại các Hội tỉnh, thành công tác này cũng diễn ra liên tục, ngày càng chuyên nghiệp, bám sát với tình hình địa phương. Một số tỉnh đã đưa công tác giải quyết khiếu nại Người tiêu dùng xuống tận các Hội, Chi hội cấp huyện để sát với Người tiêu dùng hơn, thuận tiện hơn cho Người tiêu dùng nông thôn và đạt kết quả đáng khích lệ. Hoặc một số Hội tỉnh duy trì đường dây nóng 24/24 tư vấn giải quyết khiếu nại, tạo điều kiện hết sức thuận tiện và nhanh chóng cho Người tiêu dùng. Theo tổng kết công tác 6 tháng đầu năm 2020 của Hội Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng Việt Nam, cả hệ thống Trung ương Hội và Hội tỉnh, thành đã giải quyết được tổng số 327 vụ, kết quả xử lý thành công 321 vụ, đạt tỷ lệ 98,17%.

Thứ tư: Người tiêu dùng luôn ở thế bị động khi đối mặt với rủi ro phát sinh từ việc sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử.

Một là: Rủi ro lộ thông tin cá nhân. Rủi ro lộ thông tin cá nhân khi thanh toán trực tuyến là tình trạng các thông tin của khách hàng như tên tuổi, ngày tháng năm sinh, số điện thoại, nơi ở, sở thích, thói quen, email, công việc, tài khoản ngân hàng, mối quan hệ… bị rò rỉ ra bên ngoài ngân hàng. Đây là nguyên nhân hàng đầu khiến người dùng e ngại và không biết có nên thanh toán online bằng thẻ tín dụng hay không. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro: Người dùng chủ quan: Nhiều người vẫn chưa có ý thức bảo mật các thông tin trên thẻ ATM hoặc Visa khi thực hiện các giao dịch. Hầu hết đều có thói quen đưa thẻ cho nhân viên thanh toán mà không hề kiểm soát việc quẹt thẻ làm tăng rủi ro lộ thông tin cá nhân.

Bên cạnh đó, để được hưởng chính sách khuyến mãi, một số cửa hàng còn yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin cá nhân như ngày sinh, số điện thoại, tên tuổi hay email. Nếu các hacker khi có được các dữ liệu này có thể sử dụng các kỹ thuật để dò mật khẩu cho các tài khoản…

Hệ thống bảo mật kém: Khi đi mua hàng, nhất là mua sắm trả góp, khách hàng thường phải để lại nhiều thông tin cá nhân như số điện thoại, số căn cước, email cho cửa hàng. Nếu hệ thống bảo mật của đơn vị kém thì hacker có thể dễ dàng tấn công và lấy đi toàn bộ số thông tin.

Tải các tập tin lạ từ internet: Hậu quả là người dùng có thể bị lây nhiễm mã độc đã được cài cắm sẵn. Nguy hiểm hơn là điều này rất dễ lây lan sang các thiết bị khác. Khi đó, tất cả các thông tin lưu trữ trên máy tính của người dùng có nguy cơ cao bị mã hóa, chiếm đoạt và xóa đi toàn bộ.

Sử dụng các phần mềm bẻ khóa: Tương tự, việc sử dụng các phần mềm bẻ khóa lậu cũng ẩn chứa mã độc của hacker. Điều này cũng đồng nghĩa máy tính của Người tiêu dùng bị hacker chiếm luôn quyền kiểm soát và việc đánh cắp dữ liệu là điều chắc chắn.

Nhập thông tin thẻ vào các website lừa đảo: Tại trang web lừa đảo này, đối tượng sẽ yêu cầu người dùng điền thông tin tài khoản ngân hàng và mật khẩu để đăng nhập. Sau khi xác nhận mã OTP thì số tiền trong tài khoản của Người tiêu dùng đã bị các đối tượng lừa đảo rút cạn. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Hai là: Rủi ro khi giao dịch qua website giả mạo. Rủi ro khi giao dịch qua website giả mạo là việc người dùng tiếp cận website có hình thức rất giống với giao diện đăng nhập Internet banking của ngân hàng nhưng thực chất đây là trang tin giả.

Trang website giả mạo thường sử dụng tên, hình ảnh, thiết kế, logo, màu sắc, nội dung thông tin, sản phẩm, dịch vụ… của ngân hàng với tên miền khác nên dễ gây nhầm lẫn cho người dùng khi truy cập. Thậm chí, trên các trang này còn đăng tải thông tin cảnh báo lừa đảo liên quan tới thanh toán trực tuyến nên càng khiến người dùng tin tưởng.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro: Website giả mạo quá tinh vi khiến người dùng không thể phân biệt: Trên website đó có hình ảnh, logo cũng như các bài viết được sao chép từ trang chính thức của ngân hàng. Nếu truy cập các đường dẫn này, người dùng có nguy cơ bị đánh cắp dữ liệu, thông tin cá nhân và nhiều thiệt hại khác nghiêm trọng hơn như mất tiền, khóa tài khoản…

Đề phòng trước các đường link lạ: các đối tượng lừa đảo giả danh là người quen, bạn bè hoặc người thân thông báo sẽ chuyển tiền cho Người tiêu dùng. Sau đó, đối tượng sẽ gửi đường link giả mạo của website cổng thanh toán điện tử hoặc ngân hàng để yêu cầu Người tiêu dùng xác nhận các thông tin như mật khẩu, tên truy cập, mã OTP, số thẻ, mã số bảo mật của thẻ… Khi thông tin tài khoản của Người tiêu dùng bị đánh cắp đồng nghĩa với rủi ro mất tiền khá cao.

Ba là: Mất tiền oan do trục trặc hệ thống. Mất tiền oan do trục trặc hệ thống là trường hợp ngân hàng đã thông báo chuyển khoản thành công và số tiền trong tài khoản đã bị trừ. Tuy nhiên tài khoản được thụ hưởng lại không nhận được số tiền đã chuyển đến.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro: Đường truyền internet và hệ thống nhận chuyển khoản của Người tiêu dùng hoặc bên đối tượng thụ hưởng gặp trục trặc, hoạt động không ổn định; Ngân hàng đang quá tải giao dịch hoặc đang bảo trì dẫn đến tiền không tới được bên người nhận. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Bốn là: Rủi ro bị lừa chuyển tiền. Rủi ro lừa chuyển tiền là tình trạng các đối tượng lừa đảo giả danh nhân viên ngân hàng, công ty tài chính, nhân viên bưu điện, nhà mạng để lừa người dùng chuyển tiền. Khi Người tiêu dùng tin và chuyển tiền thì số tiền trong tài khoản của Người tiêu dùng cũng theo đó “không cánh mà bay”.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro: Đối tượng lừa đảo giả là nhân viên bưu điện thông báo rằng Người tiêu dùng có bưu kiện hoặc nợ cước viễn thông và yêu cầu Người tiêu dùng cần chuyển tiền để thanh toán; Kẻ gian mạo danh nhân viên ngân hàng gọi điện cho khách hàng và lấy lý do hỗ trợ kiểm tra số dư và giao dịch của khách hàng để lấy 6 số đầu tiên của thẻ. Tiếp đó, kẻ gian yêu cầu người dùng cung cấp nốt dãy số còn lại trên thẻ để nhằm xác nhận khách hàng đúng là chủ thẻ. Sau đó, các đối tượng thông báo với Người tiêu dùng là ngân hàng sẽ gửi tin nhắn tới, đồng thời yêu cầu đọc mã 6 số trong tin nhắn. Tuy nhiên, đây chính là mã OTP để thực hiện giao dịch trong thanh toán trực tuyến.

Đối tượng lừa đảo chuyển 1 khoản tiền nhỏ vào tài khoản của khách hàng rồi mạo danh nhân viên ngân hàng gửi tin nhắn hoặc gọi điện (có hiển thị tên ngân hàng) để thông báo giao dịch chuyển tiền bị treo. Đồng thời yêu cầu khách hàng truy cập vào đường link internet đã gửi để xác nhận thông tin và mở khóa lệnh chuyển tiền.

Kẻ gian gửi thư điện tử giả mạo của ngân hàng để thông báo khách hàng nhận được một khoản tiền từ ngân hàng đang sử dụng. Đối tượng sẽ yêu cầu khách hàng xác nhận giao dịch bằng cách truy cập vào đường link hoặc tệp (file) có chứa mã độc gửi kèm ở trong thư điện tử nhằm mục đích chiếm đoạt tiền trong tài khoản và thông tin của khách hàng.

Đối tượng gửi vào tài khoản của khách hàng một khoản tiền với nội dung cho vay. Tiếp đó đối tượng gọi đến số điện thoại của khách hàng để thông báo chuyển nhầm tiền và yêu cầu chuyển khoản trả lại. Nhưng tài khoản khi nhận tiền với tài khoản khi chuyển nhầm là khác nhau. Sau đó một thời gian, chủ tài khoản chuyển nhầm sẽ gọi điện cho Người tiêu dùng đòi tiền chuyển nhầm kèm tiền lãi.

Kẻ gian gửi cho khách hàng tin nhắn mạo danh của ngân hàng đang sử dụng và thông báo rằng hoạt động tài khoản có bất thường. Sau đó hướng dẫn khách hàng thay đổi mật khẩu, xác nhận thông tin…Trong quá trình truy cập đường link giả mạo gửi trong tin nhắn, các đối tượng lừa đảo lấy được các thông tin như tên truy cập, mã OTP, mật khẩu của khách hàng nhằm chiếm đoạt tiền trong tài khoản.

Đối tượng lừa đảo mạo danh công ty tài chính mời vay vốn, sau đó hướng dẫn khách hàng cài đặt ứng dụng trên điện thoại di động (ví dụ như Auto Cash…) để giải ngân một khoản tiền “ảo”. Kèm theo đó là một hợp đồng tín dụng giả của công ty tài chính nhằm lừa khách hàng chuyển khoản tiền đặt cọc. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Kẻ gian mạo danh nhân viên của nhà mạng gọi điện cho khách hàng để hỗ trợ việc chuyển đổi sim 3G thành sim 4G qua điện thoại. Để lấy được thông tin của khách hàng, các đối tượng yêu cầu Người tiêu dùng nhắn tin theo cú pháp để chuyển đổi. Nếu Người tiêu dùng làm theo, đối tượng lừa đảo sẽ chiếm đoạt được quyền sử dụng số điện thoại. Ngay khi có được số điện thoại di động và thông tin cá nhân của Người tiêu dùng, kẻ gian sẽ liên hệ nhà mạng với tư cách là chủ thuê bao di động để yêu cầu thay thế sim với lý do thẻ bị lỗi hoặc bị mất thẻ sim. Nhà cung cấp dịch vụ di động sẽ ngay lập hủy sim hiện có và phát hành sim mới. Nếu số điện thoại này được khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử và nhận thông tin giao dịch và mã OTP thì có thể gây rủi ro mất tiền.

Thứ năm: Trách nhiệm của các bên chưa được phân định rõ ràng bằng quy phạm pháp luật.

Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng (TCTD) nhận tiền gửi là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền cũng như giữ vững được uy tín, thương hiệu. Để đảm bảo an toàn giao dịch, an toàn tiền gửi, không chỉ Tổ chức tín dụng mà cả người gửi tiền đều phải tuân thủ các quy định pháp luật về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.

Theo quy định pháp luật, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng thì đây là một dạng hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Thông qua giao dịch gửi tiền ngân hàng thì giữa khách hàng và ngân hàng đã xác lập một hợp đồng gửi giữ tài sản. Căn cứ theo Điều 554 Bộ luật Dân sự 2015 thì hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công. Tại Điều 557 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bên giữ tài sản có nghĩa vụ: Bảo quản tài sản như đã thoả thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ; Chỉ được thay đổi cách bảo quản tài sản, nếu việc thay đổi là cần thiết nhằm bảo quản tốt hơn tài sản đó nhưng phải báo ngay cho bên gửi biết về việc thay đổi; Báo kịp thời bằng văn bản cho bên gửi biết về nguy cơ hư hỏng, tiêu hủy tài sản do tính chất của tài sản đó và yêu cầu bên gửi cho biết cách giải quyết trong một thời hạn; nếu hết thời hạn đó mà bên gửi không trả lời thì bên giữ có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo quản và yêu cầu bên gửi thanh toán chi phí; phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.

Ngoài ra, theo Điều 10 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng các Tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm như: Tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh; Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi; Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Cũng tại khoản 2 điều 5 Thông tư 23/2014/TT-NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì chủ tài khoản có các nghĩa vụ sau: Kịp thời thông báo cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi mở tài khoản khi phát hiện thấy có sai sót, nhầm lẫn trên tài khoản của mình hoặc nghi ngờ tài khoản của mình bị lợi dụng; Hoàn trả hoặc phối hợp với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoàn trả các khoản tiền do sai sót, nhầm lẫn đã ghi Có vào tài khoản thanh toán của mình; Chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình.

Tuy nhiên như thế nào là thông báo kịp thời cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi mở tài khoản khi phát hiện thấy có sai sót, nhầm lẫn trên tài khoản của mình hoặc nghi ngờ tài khoản của mình bị lợi dụng.

Việc trong thời gian phía khách hàng và ngân hàng đang thực hiện hợp đồng gửi giữ tài sản, nhưng phía ngân hàng để mất tiền của khách hàng thì phía ngân hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, phải bồi thường cho khách hàng một cách kịp thời tránh ảnh hưởng tới uy tín. Còn việc nhân viên ngân hàng là người thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền gửi của khách thì ngân hàng phải là người trình báo công an vì phía ngân hàng đang là bên quản lý tài sản, khi đó ngân hàng là bị hại trong vụ án hình sự.

Trường hợp nếu ngân hàng thoái thác không nhận trách nhiệm, không bồi thường cho Người tiêu dùng thì Người tiêu dùng hoàn toàn có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu ngân hàng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Người tiêu dùng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

Với tư cách là chương nghiên cứu thực trạng pháp luật và áp dụng quy định của pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử ở nước ta. Chương 2 Tác giả tập trung làm rõ nội hàm liên quan đến quyền cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử và yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Quyền yêu cầu bảo đảm quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Mối quan hệ giữa Luật các Tổ chức tín dụng và các luật khác có liên quan trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử của Tổ chức tín dụng.

Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Bên cạnh đó nội dung chương 2 cũng tập trung phân tích nghiên cứu làm rõ những bất cập, hạn chế trong thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Cũng như tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của quốc tế về bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử và bài học cho Việt Nam. Trong đó làm rõ các thông lệ cơ bản về bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Thực tiễn bảo vệ Người tiêu dùng dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam.

Các nội dung trong Chương 2 phản ánh giá trị nội hàm của đề tài nghiên cứu mà tác giả tâm đắc nhất. Đây là những vấn đề cần nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động ngân hàng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử hiện nay ở nước ta. Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993