Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1 Trong giai đoạn khởi tố, điều tra
2.1.1 Giai đoạn khởi tố
Giai đoạn khởi tố được bắt đầu từ khi nhận được các thông tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền THTT ban hành quyết định khởi tố VAHS. Là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết vụ án nhưng có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ chống bỏ lọt tội phạm và chống làm oan người vô tội. Cùng với đó trách nhiệm của CQĐT giai đoạn này có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ sự thật vụ án. Quyết định khởi tố VAHS làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa CQĐT và VKS do cùng giải quyết VAHS theo quy định của Bộ luật TTHS, đòi hỏi CQĐT và VKS phải thực hiện tốt trách nhiệm của mình theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật TTHS. Trong giai đoạn này, CQĐT, VKS có trách nhiệm ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm; kiểm tra, xác minh nguồn tin; xác định những căn cứ cần thiết để quyết định khởi tố VAHS. Nếu quyết định khởi tố VAHS sẽ là căn cứ cho việc mở ra các giai đoạn tiếp theo; nếu quyết định không khởi tố VAHS thì mọi hoạt động sẽ được chấm dứt tại đây, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc cơ quan có thẩm quyền ban hành các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can còn giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt động điều tra nắm được diễn biến tình hình tội phạm và công tác điều tra tội phạm để có thể đặt ra các yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, truy tố, buộc tội người phạm tội, góp phần quan trọng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự đất nước. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Kế thừa và phát triển các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988, Bộ luật TTHS năm 2003, đã ghi nhận và quy định thủ tục khởi tố vụ án tương ứng với trách nhiệm của CQTHTT có thẩm quyền. cụ thể:
Quy định cụ thể nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tại Điều 103 Bộ luật TTHS năm 2003.
CQĐT, VKS có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. VKS có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho CQĐT có thẩm quyền[ 36].
Pháp luật quy định trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tin tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc về CQĐT, VKS. Một trong những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thủ tục khởi tố VAHS là trách nhiệm giải quyết tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. CQĐT được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền điều tra của mình nhằm đảm bảo nguyên tắc “phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực”. Trong thời hạn 20 ngày kể từ khi nhận được tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, CQĐT phải tiến hành xác minh, kiểm tra nguồn tin và ra quyết định khởi tố vụ án theo đúng quy định. VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT.
Để khởi tố VAHS CQTHTT phải xác định được các dấu hiệu phạm tội, xác định các dấu hiệu phạm tội phải dựa trên các căn cứ tại Điều 100 Bộ luật TTHS năm 2003:
- Tố giác của công dân;
- Tin báo của cơ quan, tổ chức;
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Cơ quan điều tra, VKS, TA, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
- Người phạm tội tự thú [36].
Khi chưa xác định được dấu hiệu của tội phạm thì việc tiến hành các hoạt động điều tra, áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người bị nghi thực hiện tội phạm có thể dẫn đến oan sai, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định những căn cứ để khởi tố VAHS. Khi nhận được tin báo, tin tố giác về tội phạm, CQĐT phải tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh như: Tiến hành kiểm tra giấy tờ tùy thân; Yêu cầu công dân, tổ chức cung cấp các thông tin cần thiết, giải thích rõ sự việc; trong trường hợp cần thiết phải tiến hành khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để xác minh dấu hiệu tội phạm….Tất cả các dấu hiệu của tội phạm cần phải được kiểm tra kỹ để xác định căn cứ khởi tố VAHS. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Trách nhiệm khởi tố VAHS được giao cho CQĐT, VKS, TA. Theo đó CQĐT có trách nhiệm ra quyết định khởi tố VAHS khi xác định có dấu hiệu phạm tội, tức là xác định tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt. Xác định các cấu thành tội phạm bao gồm: Chủ thể của tội phạm, khách thể của tội phạm,mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm khi có đủ các căn cứ theo luật định. VKS quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án theo Điều 104 Bộ luật TTHS năm 2003. Việc khởi tố vụ án được giao cho CQĐT ra quyết định; sau khi có quyết định khởi tố vụ án thì chuyển cho VKS để VKS thực hiện kiểm sát việc khởi tố. Đối với quyết định khởi tố bị can, CQĐT ra quyết định và phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Quy định như vậy trên thực tế VKS không nắm được hết việc khởi tố của CQĐT do những bất cập trong tiếp nhận và xử lý thông tin tội phạm. Theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật TTHS, VKS phải thống kê được mỗi năm, CQĐT tiếp nhận được bao nhiêu tố giác, tin báo về tội phạm. Nhưng chính VKS lại không thống kê được mỗi năm, CQĐT các cấp tiếp nhận được bao nhiêu tố giác, tin báo về tội phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc ra quyết định khởi tố hay không khởi tố VAHS, mà còn ảnh hưởng đến việc nắm bắt tình hình tội phạm diễn ra như thế nào của VKS.
Tại Điều 13 của Bộ luật TTHS quy định: “ Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án”. Khởi tố vụ án được giao cho cả TA, TA chỉ có chức năng xét xử để xác định sự buộc tội của VKS đúng hay không đúng đối với người phạm tội. Giao trách nhiệm khởi tố VAHS cho TA sẽ làm ảnh hưởng đến cả quá trình tố tụng, không chỉ giai đoạn chuẩn bị xét xử (bằng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung), mà còn ngay tại phiên tòa xét xử, Hội đồng xét xử gần như hoàn toàn nghiêng về bên buộc tội mà quên đi chức năng của mình là xét xử.
Tóm lại, trong giai đoạn khởi tố VAHS:
CQĐT có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố VAHS; Quyết định không khởi tố VAHS; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
VKS thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố VAHS, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp. Trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chuyển cho CQĐT; Kiểm sát việc tiếp nhận, trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm….
Trong giai đoạn này, CQĐT và VKS có trách nhiệm phối hợp trong việc tiếp nhận giải quyết tin báo tội phạm thể hiện thông qua công tác xử lý nguồn tin báo tội phạm. Nếu nguồn tin báo tội phạm mà CQĐT trực tiếp nhận được thì phải tiến hành kiểm tra, xác minh ngay và thông báo kết quả giải quyết tin báo tội phạm cho cơ quan, tổ chức cá nhân đã tố giác tội phạm biết, đồng thời kết quả đó cũng được CQĐT thông báo bằng văn bản gửi cho VKS. Đồng thời VKS có trách nhiệm kiểm sát việc xử lý nguồn tin báo tội phạm của CQĐT. Trường hợp VKS trực tiếp tiếp nhận nguồn tin báo tội phạm thì có trách nhiệm chuyển ngay nguồn tin báo đó kèm các tài liệu có liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để điều tra xác minh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2 Giai đoạn Điều tra Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Điều tra tội phạm là giai tiếp theo trong quá trình TTHS, giữ vai trò rất quan trọng trong TTHS. Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Đặt giai đoạn điều tra trong mối quan hệ với các hoạt động tố tụng khác. Hoạt động điều tra là một công cụ, phương tiện khám phá tội phạm, có bản chất và nội hàm của hoạt động nhận thức. Để nâng cao hiệu quả thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi chủ thể phải nhận thức đúng bản chất, tuân thủ những quy luật hoạt động nhận thức trong việc áp dụng các hoạt động điều tra trong thực tiễn [17]. Chính vì vậy trách nhiệm của các CQTHTT giai đoạn này có ý nghĩa vô cùng quan trọng để làm sáng tỏ vụ án.
Quá trình chứng minh trong VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cơ quan có thẩm quyền THTT khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động này đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Hoạt động điều tra với tính chất là một giai đoạn tố tụng hình sự do CQĐT tiến hành và bao gồm các hành vi tố tụng đặc trưng như: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can; Bắt tạm giam bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Đối chất và nhận dạng… nhằm làm rõ đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra. Hoạt động truy tố do VKS tiến hành thể hiện quyền giám sát hoạt động của CQĐT và thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đặc trưng bởi những hành vi tố tụng như: Nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu bản kết luận điều tra, viết bản cáo trạng và truy tố bị can trước TA. Hoạt động xét xử do TA tiến hành là hoạt động mang tính quyết định cuối cùng nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và áp dụng các hình phạt tương ứng theo quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử bao gồm các hành vi tố tụng cụ thể như: Xét hỏi bị cáo, hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác, xem xét vật chứng; Tranh luận tại phiên tòa; Nghị án; Tuyên án… Tất cả những hành vi tố tụng cụ thể đó nhằm đến một mục đích cuối cùng và cao nhất đó là chứng minh chân lý khách quan của VAHS. Hoạt động này cần được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS hiện hành quy định và tuân thủ một số nguyên tắc nhất định: Nguyên tắc đảm bảo pháp chế; Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo; Nguyên tắc đảm bảo tính vô tư của người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng…
Giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu của quá trình chứng minh làm tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn này, CQĐT, VKS có quyền sử dụng các biện pháp điều tra, các nguồn chứng cứ khác nhau để chứng minh. Để điều tra vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đưa nhiều giả thiết khác nhau và mỗi giả thiết đều phải được chứng minh để loại trừ hay xác định để đưa đến kết luận về vụ án. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Trong bất kỳ VAHS nào, vấn đề đầu tiên đặt ra cho các chủ thể có thẩm quyền THTT phải xác định được những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS để từ đó có hướng thu thập chứng cứ. Vậy thì, CQTHTT có trách nhiệm chứng minh những gì trong VAHS:
Thứ nhất, phải xác định được đối tượng cần chứng minh trong VAHS
Khi vụ việc có dấu hiệu phạm tội xảy ra, đòi hỏi quá trình điều tra phải làm rõ các vấn đề như: Sự việc xảy ra có phải là sự kiện phạm tội không? Ai là người thực hiện tội phạm? Lỗi của người phạm tội? Các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? … Làm sáng tỏ tất cả những vấn đề đó tạo cơ sở để kết luận về vụ án chính là mục đích của những hoạt động chứng minh, mục đích này do pháp luật quy định. Bởi vậy, những tình tiết bắt buộc phải được xác định trong tất cả các VAHS mà khoa học pháp lý gọi là đối tượng chứng minh được quy định cụ thể tại Điều 63 của Bộ luật TTHS năm 2003 như sau:
Điều 63. Những vấn đề phải chứng minh trong VAHS
Khi điều tra, truy tố và xét xử VAHS, Cơ quan điều tra, VKS và Toà án phải chứng minh:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [36].
Trên cơ sở quy định tại Điều 63 thì CQTHTT có trách nhiệm chứng minh những vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất: Đối tượng chứng minh thuộc về bản chất của vụ án hay còn gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm, bao gồm: Mặt khách quan của tội phạm (Có hành vi phạm tội xảy ra; Thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm; Công cụ, phương tiện và thủ đoạn phạm tội); Khách thể của tội phạm; Chủ thể của tội phạm; Mặt chủ quan của tội phạm (Lỗi; Động cơ, mục đích phạm tội).
Vấn đề thứ 2: Đối tượng chứng minh có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt gồm tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Vấn đề thứ ba: Đối tượng chứng minh là những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn điều tra, tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là những vấn đề cơ bản cần phải làm rõ trong VAHS. Khi ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền khởi tố dựa trên cơ sở nguồn tin ban đầu về tội phạm gửi tới nên mới chỉ có điều kiện xác định có dấu hiệu của tội phạm, còn cụ thể diễn biến của tội phạm ra sao, người nào thực hiện hành vi phạm tội, có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không vẫn chưa được làm rõ. Tất cả những vấn đề này thuộc về nhiệm vụ của giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định có hay không có việc phạm tội, đối chiếu với Bộ luật hình sự xem hành vi phạm tội đó thuộc điều khoản nào; Phải xác định tất cả tội đối với người thực hiện hành vi để không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Khi xác định được có tội phạm xảy ra, CQĐT phải làm rõ ai là người thực hiện hành vi phạm tội; Lỗi của họ trong việc thực hiện tội phạm; Động cơ, mục đích phạm tội…..
Thứ hai, xác định giới hạn chứng minh trong VAHS
Giới hạn chứng minh được hiểu là ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, xác định giới hạn chứng minh chính là xác định ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu những tình tiết đó ở mức độ đủ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo đúng yêu cầu của pháp luật. Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định nguyên tắc chung, điều chỉnh hoạt động chứng minh, xác định sự thật của vụ án: “CQĐT, VKS và TA phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội”. Trong hoạt động điều tra, CQĐT, VKS phải xác định cần chứng minh những vấn đề gì. Xác định đúng đối tượng chứng minh sẽ đảm bảo tính toàn diện cho hoạt động chứng minh của các chủ thể THTT nhưng để đảm bảo tính đầy đủ của hoạt động này thì phải xác định được giới hạn chứng minh. Đây lại là vấn đề phức tạp bởi đằng sau mỗi tình tiết lại có một hệ thống riêng những chứng cứ và nguồn của chúng. Tổng kết thực tiễn điều tra cho thấy, những sai sót, lệch lạc trong việc điều tra vụ án cũng thường bắt nguồn từ việc không xác định đúng giới hạn chứng minh. Điều đó được thể hiện dưới hai dạng: xác định giới hạn chứng minh quá hẹp dẫn đến không đủ chứng cứ để làm rõ những tình tiết của vụ án và xác định giới hạn chứng minh quá rộng ngoài mức cần thiết dẫn đến thừa chứng cứ. Nếu việc xác định quá rộng hay quá hẹp những vấn đề cần phải chứng minh đều ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình chứng minh. Việc xác định phạm vi quá rộng thì khi chứng minh sẽ không tập trung, không nghiên cứu được một cách kỹ lưỡng các tình tiết cũng như không tập hợp các tình tiết đó thành một hệ thống hoàn chỉnh gây lãng phí thời gian, tốn kém công sức… Việc xác định phạm vi quá hẹp thì lại dẫn đến chứng minh không đầy đủ và toàn diện, bỏ sót các tình tiết của vụ án mà không được biết đến dẫn đến tình trạng oan, sai và bỏ lọt tội phạm xảy ra. Cả hai dạng trên đây đều làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, việc xác định đúng đắn những vấn đề cần phải chứng minh và giới hạn chứng minh có một vai trò vô cùng quan trọng góp phần giải quyết đúng đắn VAHS, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước pháp quyền [21, tr38]. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Bộ luật TTHS hiện hành chưa có điều luật riêng quy định về giới hạn chứng minh trong TTHS. Khoản 1 Điều 66 BLTTHS năm 2003 về đánh giá chứng cứ có quy định nội dung liên quan đến giới hạn chứng minh như sau: “Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để đảm bảo giải quyết VAHS”. Tuy nhiên, “đủ” là một khái niệm định tính, trừu tượng. Nếu quy định của pháp luật về đối tượng chứng minh đặt ra những tình tiết mà chủ thể chứng minh buộc phải làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh VAHS, thì quy định về giới hạn chứng minh yêu cầu các chủ thể chứng minh phải làm sáng tỏ các tình tiết ấy đến mức độ cần thiết đủ để đảm bảo giải quyết vụ án theo đúng yêu cầu của pháp luật… Hơn nữa, bản thân mỗi chứng cứ có giá trị chứng minh khác nhau, có khả năng làm sáng tỏ khác nhau những tình tiết của vụ án. Cho nên, đối với mỗi vụ án khác nhau đòi hỏi số lượng chứng cứ khác nhau để làm sáng tỏ một tình tiết nhất định thuộc đối tượng chứng minh hoặc toàn bộ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án
Khi xác định giới hạn chứng minh thì vấn đề về số lượng chứng cứ cần phải thu thập, nghiên cứu để có thể khẳng định những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh đã đủ chứng cứ xác định, chứng minh được đề cập. Đây là một vấn đề tương đối phức tạp trong cả lý luận và thực tiễn giải quyết vụ án. Việc đưa ra công thức xác định giới hạn chứng minh mang tính khuôn mẫu cho tất cả trường hợp là điều không thể. Để giải quyết vấn đề này, các ĐTV, KSV chỉ có thể dựa vào tổng thể những quy định của pháp luật hình sự và luật TTHS, kết hợp với niềm tin nội tâm, ý thức pháp luật để xác định những chứng cứ cần thiết phải được thu thập và nghiên cứu, đánh giá trong mỗi vụ án cụ thể đạt yêu cầu xác định khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết của vụ án trong quá trình điều tra, giải quyết các VAHS. Vì vậy, chúng ta không thể xác định được một số lượng chứng cứ cụ thể giúp làm sáng tỏ một tình tiết nào đó thuộc đối tượng chứng minh để áp dụng chung cho tất cả các vụ án [ 20, tr39].
Việc xác định chính xác giới hạn chứng minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở để CQĐT ban hành các quyết định tố tụng, đồng thời là điều kiện đảm bảo tính đúng đắn của các quyết định tố tụng đó. Trường hợp xác định các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã “đủ” để chứng minh các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án thì CQĐT ra kết luận điều tra đề nghị truy tố để giải quyết vụ án. Ngược lại, CQĐT kết luận điều tra và quyết định đình chỉ vụ án theo Điều 164 Bộ luật TTHS năm 2003. Do đó, trách nhiệm của ĐTV, KSV trong giai đoạn điều tra là vô cùng quan trọng. Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS mang tính định hướng, quyết định trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS. Hầu hết các chứng cứ của vụ án đều được thu thập ở giai đoạn này, kể cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội.
Vì vậy, trong TTHS, CQTHTT có trách nhiệm xác định tất cả những vấn đề phải chứng minh trong vụ án. Nhưng cần bao nhiêu chứng cứ đủ để chứng minh một vấn đề cụ thể thì pháp luật chưa quy định và rất khó để quy định vấn đề này. Bộ luật TTHS nước ta chỉ mới quy định những vấn đề phải chứng minh, chưa quy định cụ thể về giới hạn chứng minh ở một điều luật cụ thể. Pháp luật TTHS chỉ đưa ra nguyên tắc chung mang tính định hướng cho các chủ thể THTT ở những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, pháp luật tố tụng hình sự cần có quy định cụ thể về giới hạn chứng minh.
Khi đã xác định được những vấn đề cần chứng minh trong VAHS thì cũng là lúc đưa ra được định hướng thu thập chứng cứ để chứng minh theo những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS. Vấn đề chứng cứ để chứng minh đặt ra các yêu cầu đối với CQTHTT như sau: Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Một là, Thu thập chứng cứ
Điều 64 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, VKS và TA dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh tội phạm, cũng như trong giai đoạn điều tra VAHS. Để chứng minh được VAHS thì trách nhiệm đầu tiên của CQĐT, VKS là phải thu thập chứng cứ được pháp luật tố tụng hình sự quy định được hiểu là thu thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ. Điều 65 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định:
Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, VKS và Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án [36].
Thu thập chứng cứ là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản các thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Kết quả của giai đoạn này có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác giải quyết VAHS. Số lượng, chất lượng của các chứng cứ được thu thập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc ngược lại, gây khó khăn cho việc điều tra vụ án và toàn bộ quá trình giải quyết vụ án trong thực tiễn. Các CQĐT, VKS cần phải tập trung, chú trọng đến giai đoạn này. Để chứng minh, CQĐT, VKS phải thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đặc biệt, trong giai đoạn điều tra, ĐTV, KSV tập trung nhiều hơn cho việc thu thập chứng cứ. Thiếu các chứng cứ quan trọng trong giai đoạn điều tra là một trong những căn cứ để VKS, TA trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Hai là, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là hoạt động nhận thức, đây là một giai đoạn phức tạp của hoạt động chứng minh được cơ quan THTT và người THTT được thực hiện, tiến hành liên tục, xuyên suốt quá trình chứng minh VAHS, nhằm sử dụng kết quả đánh giá vào từng giai đoạn khác nhau trong quá trình nhận thức khách quan. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đánh giá chứng cứ cũng thể hiện phần nào nội dung của hoạt động kiểm tra chứng cứ chưa được quy định cụ thể.
Hoạt động đánh giá chứng cứ được quy định tại Điều 66 BLTTHS năm 2003 như sau:
- Mỗi chứng cứ được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết VAHS. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
- Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án” [36].
Sau khi thu thập chứng cứ, Điều tra viên tiến hành kiểm tra, đánh giá chứng cứ thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ. Kết quả kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ là căn cứ để CQĐT ban hành một trong các quyết định: Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc Bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật TTHS năm 2003 đã đề cập đến hoạt động đánh giá chứng cứ với những nội dung cơ bản sau:
Chủ thể có thẩm quyền đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra VAHS: Theo quy định của Khoản 2 Điều 66 thì chủ thể có quyền đánh giá chứng cứ là ĐTV, KSV. Trong hoạt động đánh giá chứng cứ, các chủ thể khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau và tuân thủ một số quy định mang tính nguyên tắc. Hoạt động đánh giá của ĐTV, KSV vẫn có sự phụ thuộc vào ý chí của lãnh đạo cơ quan theo nguyên tắc thủ trưởng và chịu sự phụ thuộc vào ý chí của VKS trong hoạt động điều tra. – Các bước của hoạt động đánh giá chứng cứ: Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật TTHS năm 2003 thì với mỗi chứng cứ phải tiến hành theo các bước, đánh giá từng chứng cứ và đánh giá tổng thể, toàn diện mọi chứng cứ trong mối quan hệ với nhau ở mỗi VAHS. Việc tiến hành đánh giá chứng cứ đảm bảo một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đánh giá từng chứng cứ để có thể xác định tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của mỗi chứng cứ trong vụ án. Đánh giá tổng hợp chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc đánh giá chứng cứ nhằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận về những vấn đề của vụ án.
Yêu cầu, đòi hỏi đối với việc đánh giá chứng cứ:
Thứ nhất, mỗi chứng cứ phải đáp ứng đầy đủ và đạt được yêu cầu chứng minh. Theo Khoản 1 Điều 66 Bộ luật TTHS thì “Mỗi chứng cứ được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết VAHS”. Việc chứng cứ thu thập được phải đáp ứng, đảm bảo các yêu cầu này nhằm tăng giá trị chứng minh cho các chứng cứ và giúp xác định được giới hạn chứng minh trong các VAHS, tạo điều kiện cho việc giải quyết đúng đắn VAHS. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Thứ hai, đánh giá chứng cứ phải toàn diện, đầy đủ và khách quan. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 66 Bộ luật TTHS thì các chứng cứ phải được “nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án”. Ngoài ra, các chứng cứ phải được đánh giá trong mối quan hệ tổng hợp, hệ thống với các chứng cứ khác.
Thứ ba, đây là yêu cầu đặt ra với các CQĐT, ĐTV tiến hành hoạt động đánh giá chứng cứ. Các chủ thể này phải đánh giá chứng cứ với tinh thần trách nhiệm và chuyên môn cao. Các chứng cứ phải được đánh giá một cách khách quan, trung thực và dựa vào niềm tin nội tâm trên cơ sở ý thức pháp luật của các chủ thể tiến hành đánh giá chứng cứ.
Trong quá trình điều tra VAHS, CQĐT, VKS có thể được lực lượng trinh sát cung cấp một lượng thông tin tương đối lớn các thông tin về thủ phạm gây án, diễn biến tâm lý bất thường của bị can, nơi cất giấu vũ khí, phương tiện gây án, tài sản bị chiếm đoạn, nội dung các cuộc trao đổi, đàm thoại giữa các đối tượng nghi vấn… Các tin tức, tài liệu này được lực lượng trinh sát thu thập thông qua việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát. Theo tinh thần của Điều 64 BLTTHS năm 2003 và lý luận TTHS thì một tình tiết chỉ được coi là chứng cứ của vụ án khi nó đồng thời có đầy đủ 3 thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Do đó, các tin tức, tài liệu này không thể coi là chứng cứ của vụ án khi nó chưa được chuyển hóa thành chứng cứ TTHS bằng việc tiến hành các biện pháp điều tra phù hợp được quy định tại Bộ luật TTHS năm 2003. Vì vậy, khi đánh giá các thông tin đã được thu thập trong giai đoạn điều tra VAHS, CQĐT, VKS cần chú ý đến thực tế này để có biện pháp xử lý phù hợp.
Thu thập chứng cứ là hoạt động chính, được tập trung nhiều nhất ở giai đoạn điều tra để chứng minh tội phạm. Nhưng hoạt động kiểm tra và đánh giá chứng cứ ở giai đoạn này cũng được ĐTV, KSV tiến hành cẩn thận, khẩn trương, đúng quy định của pháp luật, những chứng cứ của vụ án được thu thập đầy đủ, đảm bảo tính hợp pháp, tính liên quan, tính khách quan không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Như vậy, ở giai đoạn điều tra VAHS, kiểm tra và đánh giá chứng cứ là một hoạt động tư duy và thực tiễn phức tạp nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến tính có căn cứ của các quyết định tố tụng của các chủ thể chứng minh. Tuy nhiên, hiện nay, hai hoạt động này vẫn chưa được pháp luật tố tụng hình sự phân biệt rõ ràng. Bên cạnh đó, kiểm tra chứng cứ là hoạt động không thể thiếu trong quá trình chứng minh VAHS nói chung cũng như trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS chưa có quy định cụ thể về khái niệm hoạt động kiểm tra chứng cứ, cũng như chủ thể, phương pháp tiến hành hoạt động này. Những thiếu sót đó của pháp luật tố tụng hình sự ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra cũng như toàn bộ quá trình giải quyết VAHS, do đó rất cần nghiên cứu để hoàn toàn.
Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ là việc cần phải làm của các CQTHTT, là quá trình chứng minh những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS trên cở sở đó các chủ thể tố tụng mới đưa ra các quyết định tố tụng phù hợp với từng giai đoạn tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Đối với giai đoạn điều tra VAHS khi đã thu thập, kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ có liên quan đến VAHS, khi đó có đủ căn cứ để CQĐT, VKS ra một trong các quyết định tố tụng như tạm đình chỉ điều tra (Điều 160 Bộ luật TTHS năm 2003); Bản kết luận điều tra (điều 162); Đề nghị truy tố (Điều 163); Đình chỉ điều tra (Điều 164).
VKS sau khi nhận được bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án mà CQĐT chuyển sang thì có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu hồ sơ. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án mà có những vấn đề chưa rõ thì VKS yêu cầu CQĐT báo cáo thêm.
Trong giai đoạn khởi tố VAHS quan hệ giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn khởi tố VAHS được thể hiện rõ trong các quy định Bộ luật TTHS hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi ngành. Quan hệ đó vừa có chức năng phối hợp, tác động hỗ trợ vừa có chức năng giám sát, kiềm chế lẫn nhau để loại trừ những khiếm khuyết, sai phạm có thể xảy ra trong hoạt động TTHS, đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý kịp thời, tránh làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Sự đan xen đó thể hiện trong từng chế định TTHS quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của từng CQTHTT. Trên cơ sở đó các hoạt động tố tụng của từng cơ quan có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hoạt động này hỗ trợ, tác động tạo điều kiện cho hoạt động kia tiến hành có hiệu quả chứ không phải bài trừ nhau hoặc hạn chế nhau. Đặc biệt hoạt động kiểm sát của VKS đối với việc khởi tố của CQĐT không phải cản trở hoặc hạn chế hoạt động tố tụng của CQĐT mà có tác dụng giám sát chặt chẽ việc ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố VAHS của CQĐT, đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định tố tụng, tránh được những sai phạm có thể xảy ra trong khởi tố VAHS. Đảm bảo việc khởi tố vụ án của các cơ quan có thẩm quyền có căn cứ và hợp pháp, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng pháp luật quy định. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Do ý nghĩa quan trọng của giai đoạn điều tra VAHS có tính chất quyết định đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, bởi giai đoạn điều tra phải thu thập được những chứng cứ cơ bản, quan trọng bao gồm các chứng cứ buộc tội và chứng cữ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của TA. Cho nên Bộ luật TTHS cũng quy định rất chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp điều tra phục vụ cho việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó là rất cần thiết, có tác dụng hữu hiệu trong việc điều tra, thu thập chứng cứ phục vụ việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nếu không có những quy định pháp luật nhằm kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, đặc biệt là việc bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT thì sẽ xảy ra tình trạng bắt, giam, giữ tràn lan, không những không phát huy tác dụng, ý nghĩa là các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ mà còn vi phạm đến các quyền cơ bản của công dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự công minh của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Như vậy, với những vấn đề nêu trên thấy rằng quan hệ chế ước lẫn nhau giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn điều tra VAHS thể hiện rõ nét thông qua việc các CQTHTT thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Quyền chế ước của VKS trong khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự chủ yếu được thực hiện bằng các tác nghiệp nghiệp vụ như việc đề ra các yêu cầu điều tra, bằng các quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng của CQĐT nếu xét thấy không có căn cứ và hợp pháp hoặc không cần thiết. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các VAHS, tuỳ từng trường hợp mà VKS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tự mình khởi tố VAHS, khởi tố bị can hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật TTHS. Theo qui định của Bộ luật TTHS năm 2003 thì việc khởi tố VAHS do CQĐT thực hiện là chủ yếu. VKS chỉ trực tiếp khởi tố VAHS trong trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố VAHS của CQĐT và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Đối với việc khởi tố bị can thì VKS chỉ trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, trong các trường hợp khác, việc khởi tố bị can do CQĐT thực hiện và VKS có trách nhiệm phê chuẩn việc khởi tố. Thực tế cho thấy VKS trực tiếp khởi tố VAHS, khởi tố bị can chỉ trong một số ít trường hợp, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các VAHS, VKS chủ yếu yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can [2, tr39-40].. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt động điều tra có kết quả thì VKS với vai trò là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn của quá trình điều tra, KSV được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải bám sát việc điều tra vụ án của CQĐT để kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết, để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Bộ luật TTHS như: Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối chất; thực nghiệm điều tra… để củng cố chứng cứ và các tình tiết khác nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện vụ án.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nới cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà Bộ luật TTHS qui định phải có sự phê chuẩn của VKS như: Phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định tạm giữ; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam; phê chuẩn lệnh tạm giam… thì VKS có trách nhiệm xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Mọi trường hợp từ chối phê chuẩn của VKS đều phải nêu rõ lý do của việc không phê chuẩn.
Để thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS, bảo đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các quyết định tố tụng của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; quyết định khởi tố VAHS; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án của CQĐT… thì VKS ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó theo đúng qui định của Bộ luật TTHS; trong trường hợp bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu mà CQĐT không ra quyết định truy nã thì VKS phải kịp thời yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can theo qui định tại Điều 161 Bộ luật TTHS.
Trên cơ sở đó VKS thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS của CQĐT là tất yếu, khách quan, để mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đảm bảo việc khởi tố, điều tra của CQĐT là có căn cứ và hợp pháp, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan sai người vô tội. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Tóm lại, trong giai đoạn điều tra VAHS trách nhiệm chủ yếu thuộc về hai cơ quan chính là CQĐT và VKS:
CQĐT có trách nhiệm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ liên quan đến VAHS. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự và trình tự thủ tục của Bộ luật TTHS, xác định có căn cứ chứng minh một người hoặc một pháp nhân có hay không thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì CQĐT, để ra một trong các văn bản tố tụng gửi VKS để nghị truy tố bị can ra trước TA (nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự cấm) hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án (nếu không có căn cứ). CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của và quyết định của VKS về quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp tạm giữ, tạm giam; hủy bỏ quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố,quyết định đình chỉ vụ án…Trong giai đoạn này cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm bồi thường của CQĐT khi thực thi nhiệm vụ mà có sai phạm xảy ra, cụ thể tại Điều 30 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định về Trách nhiệm bồi thường của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự:
Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp sau đây:
- Đã ra quyết định tạm giữ người nhưng Viện kiểm sát có thẩm quyền đã có quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ đó vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;
- Đã ra quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát có thẩm quyền không phê chuẩn quyết định khởi tố vì người bị khởi tố không thực hiện hành vi phạm tội [37].
VKS thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS, tiến hành kiểm tra, giám sát việc lập hồ sơ điều tra VAHS của CQĐT; giai đoạn điều tra là giai đoạn quan trọng thực hiện mục tiêu phát hiện chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì trách nhiệm của VKS được đề cao nhằm Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật…VKS các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi quyền phê chuẩn của mình, tăng cường công tố hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Trong giai đoạn điều tra VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Khi thực hành quyền công tố VKS có nhiệm vụ khởi tố VAHS, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can theo quy định của pháp luật; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV; nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, yêu cầu CQĐT truy nã bị can; Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Khi kiểm sát điều tra VKS có nhiệm vụ: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Pháp luật cũng quy định về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp VKS thực thi sai nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tố tụng, Điều 31 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định VKS có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
- Đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của cơ quan điều tra có thẩm quyền nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;
- Đã phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều tra có thẩm quyền hoặc ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
- Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đình chỉ điều tra vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
- Đã có quyết định truy tố bị can nhưng Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
- Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội;
- Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và sau đó Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội. [37]
2.2 Giai đoạn truy tố Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 VKS nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.Điều 1 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002, VKS nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động TTHS, mà trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách qua các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định: Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ VAHS [4]
Điều 166 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định Thời hạn quyết định truy tố:
- Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau đây:
- a) Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng;
- b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
- c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
VKS có trách nhiệm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng) (Điều 166); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 168); Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án (Điều 169). Trong giai đoạn này VKS có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các quyết định của CQĐT như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra…. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Tóm lại, trong giai đoạn truy tố VKS có trách nhiệm kiểm sát hoạt động TTHS, căn cứ vào hồ sơ của CQĐT chuyển lên VKS ra một trong các quyết định có khởi tố vụ án hay không khởi tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung…. Quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của TA, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội…Thực hành quyền công tố vừa là quyền vừa là trách nhiệm công tố của VKS trong TTHS là xác định đúng người phạm tội, đúng tội để có thể đưa vụ án ra trước tòa và tại đó bảo vệ quan điểm của mình trước TA. Đó chính là quyền nhưng cũng là nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện và phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đồng thời VKS còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn tố tụng. Mục đích của hoạt động này là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Cụ thể của hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật là quyết định xem có đầy đủ căn cứ để truy tố hay không? Vấn đề này cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ kiểm sát và nhiệm vụ công tố. Đồng thời phát hiện những sai lầm trong hoạt động điều tra của CQĐT hoặc cơ quan khác có quyền tiến hành các hoạt động điều tra. Nếu có sai lầm thiếu sót thì tùy từng trường hợp mà có những biện pháp nhằm khắc phục sai lầm thiếu sót. Trong Bộ luật TTHS đã quy định cụ thể những cách thức khắc phục sai lầm đó: Như trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…
Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn này được biểu hiện rõ qua việc là Viện kiểm sát phải quyết định vấn đề quan trọng nhất là: Có truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hay không. Vấn đề đó chỉ được thực hiện trong giai đoạn truy tố trong đó Viện kiểm sát phải thực hiện song song hai nhiêm vụ: Một là, truy tố và đảm bảo việc truy tố của mình là đúng pháp luật, người bị truy tố là có tội và phải chịu hình phạt theo pháp luật hình sự; Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá trình truy tố và kiểm sát hoạt động điều tra qua nghiên cứu hồ sơ. Đây là giai đoạn mà quyền công tố của VKS thể hiện một cách rõ ràng nhất đó là VKS sẽ quyết định có đưa bị can ra xét xử trước TA hay không? Đây chính là trách nhiệm quan trọng của VKS[31, tr41]
2.3 Giai đoạn xét xử Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Xét xử VAHS là giai đoạn cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp TA có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử; 2) Đưa VAHS ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của TA có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi TA nhận được hồ sơ VAHS (với quyết định truy tố bị can trước TA kèm theo bản cáo trạng) do VKS chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của TA.Trách nhiệm và vai trò của TA thể hiện rõ nét trong giai đoạn xét xử VAHS. Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi, nghe ý kiến của bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng, người giám định, người khác tham gia phiên tòa được TA triệu tập; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập; công bố biên bản, tài liệu và tiến hành hoạt động tố tụng khác để kiểm tra chứng cứ; nghe ý kiến của KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Trách nhiệm chứng minh của TA thể hiện ở các hoạt động trong giai đoạn xét xử thông qua thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa và quá trình thu thập chứng cứ của TA để đưa ra một bản án cuối cùng quyết định bị can có tội hay không có tội.
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định TA là một trong những cơ quan THTT có trách nhiệm chứng minh tội phạm, quy định này sẽ làm ảnh hưởng tới chức năng xét xử của TA, cùng với trách nhiệm khởi tố VAHS theo quy định của pháp luật sẽ làm ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập khi xét xử và tính khách quan trong quá trình xem xét vụ án. Việc TA thu thập chứng cứ và khởi tố vụ án sẽ ảnh hưởng tới phán quyết cuối cùng của TA, Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn tiếp tục quy định trách nhiệm khởi tố vụ án và trách nhiệm chứng minh tội phạm của TA mà chưa có sự sửa đổi sẽ làm mất đi đặc trưng cơ bản là xét xử của TA.
Sau khi nhận được hồ sơ từ VKS chuyển sang, TA có thời gian nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị xét xử….. để đưa vụ án ra xét xử TA phải có quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét quá trình điều tra của CQĐT, VKS có tuân thủ đúng trình tự luật định hay không. Bởi lẽ, trong quá trình điều tra vụ án không có sự tham gia của TA nên việc nghiên cứu hồ sơ vô cùng quan trọng. Khoản 2 Điều 176 Bộ luật TTHS 2003 quy định: Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
- a) Đưa vụ án ra xét xử ;
- b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
- c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án .
Nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án không chỉ để TA có căn cứ ra các quyết định tố tụng mà còn phát hiện những vi phạm trong hoạt động tố tụng của CQĐT, VKS, và nếu vụ án được đưa ra xét xử thì đó còn là tập tài liệu để Thẩm phán chủ toạ phiên toà sử dụng trong quá trình xét xử.
Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều trường hợp do nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ đã dẫn đến việc ra các quyết định không đúng với khoản 2 Điều 176 Bộ luật TTHS như: Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, nhưng vấn đề cần điều tra bổ sung đã được thu thập và có trong hồ sơ vụ án; có trường hợp do vụ án phải điều tra bổ sung nhiều lần nên trong hồ sơ vụ án có nhiều bản cáo trạng khác nhau, có trường hợp Thẩm phán chủ toạ phiên toà khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã không thể hiện tính khách quan mà chỉ chú tâm nghiên cứu các tài liệu là chứng cứ buộc tội mà bỏ qua các tài liệu là chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc ngược lại. v.v…
Theo quy định tại Điều 27 của BLTTHS 2003 thì TA là một trong các chủ thể có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nếu xét dưới góc độ tội phạm học thì mục đích của việc tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội là nhằm để đấu tranh phòng ngừa tội phạm cụ thể, tuy nhiên xác định TA là một trong các cơ quan có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, như vậy vấn đề đặt ra là nhiệm vụ này có đồng nhất với chức năng chứng minh tội phạm và chức năng buộc tội không? Bởi lẽ nếu một khi TA vừa có chức năng chứng minh tội phạm vừa trừng trị tội phạm là chưa hợp lý, nếu như vậy tính khách quan, rành mạch giữa các chức năng trong tố tụng sẽ không còn phân định rõ ràng, chồng lấn lẫn nhau,v,v…
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm đối với TA khi xảy ra sai sót, vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng VAHS, tại Điều 31 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định chi tiết các trường hợp mà TA phải có trách nhiệm bồi thường cho bị can, bị cáo khi TA ra các quyết định trái với quy định của pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án vì người đó không phạm tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội…..[37] Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Đối với trách nhiệm của VKS trong giai đoạn xét xử VAHS, VKS thực hành quyền công tố, kiểm sát phiên tòa. Điều 189 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa” …… KSV tham gia phiên toà hình sự để thực hiện quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS. Tại phiên toà sơ thẩm, KSV là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu trong đó có quyền yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký TA. Thực trạng hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp KSV ít tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để chứng minh tội phạm, mà ỉ lại cho chủ toạ phiên toà; khi trình bày lời luận tội tại phiên toà không căn cứ vào kết quả xét hỏi mà lại căn cứ vào Bản cáo trạng, mặc dù kết quả xét hỏi tại phiên toà đã có nhiều nội dung không đúng với bản cáo trạng; đặc biệt sau khi người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo và đề nghị Kiểm sát viên tranh luận về từng vấn đề mà người bào chữa (Luật sư) nêu ra, nhưng một số KSV không tranh luận lại, thậm chí chỉ nói một câu “vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố”, cá biệt có KSV từ chối tham gia phiên toả mà không có lý do chính đáng
Tóm lại, Trong giai đoạn xét xử
VKS có trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát phiên tòa xét xử. VKS với vai trò là bên “buộc tội” KSV thực hiện đối đáp, tranh luận để chứng minh cho bản cáo trạng của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ VKS chuyển sang TA, TA có quyền đưa ra một trong các quyết định đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ điều tra bổ sung (Điều 179); Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 180) và chỉ có TA mới có quyền bác bỏ cáo trạng của VKS. Đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung thể hiện trách nhiệm xét xử VAHS của TA. Mọi hoạt động xét xử của TA phải đảm bảo đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được xét xử. TA không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục tố tụng, do đó pháp luật quy định VKS ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của hội đồng xét xử tại phiên toà, cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì KSV có quyền ý kiến trực tiếp. Mặt khác sau khi xét xử VKS có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu TA khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử hoặc ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án khi có căn cứ luật định. Như vậy có thể thấy, dù TA có quyền độc lập trong việc phán quyết, tuy nhiên nếu trái pháp luật thì VKS có quyền kiến nghị, kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của Toà án. Pháp luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của VKS không được Toà án tiếp thu, thì VKS có quyền kiến nghị TA cấp trên và báo cáo VKS cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Qua hoạt động giám sát của VKS còn giúp cho TA tránh được những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
Có thể nói rằng đây là hai giai đoạn có mối quan hệ mật thiết với nhau. VKS truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật góp phần cho giai đoạn xét xử của TA được đảm bảo không làm oan người vô tội. Hai giai đoạn vừa có mối quan hệ phối hợp lẫn nhau vừa có mối quan hệ chế ước lần nhau:
Quan hệ phố hợp lẫn nhau: Các giai đoạn tố tụng đều có chung nhiệm vụ là đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tôn trọng quyền và lợi ích của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính từ mục đích chung đó đã hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình sự giữa VKS và TA cụ thể giai đoạn truy tố và xét xử như là một vấn đề tất yếu. Mối quan hệ phối hợp đó cơ bản là quan hệ giữa chức năng xét xử và chức năng buộc tội. Bản thân hai chức năng này có quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác, ở đâu có buộc tội, thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa. Nếu VKS làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét xử và ngược lại thì tác dụng không tốt. Ngay từ khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt truy tố, cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho TA thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng. Tại phiên toà, nếu kiểm sát viên làm tốt vai trò công tố nhà nước thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Ngược lại TA thực hiện chức năng xét xử đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho VKS thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động tư pháp. Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết VAHS và dựa trên các nguyên tắc cơ bản Bộ luật Tố tụng hình sự đã định, trong đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa TA và VKS trong tố tụng hình sự còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người tiến hành tố tụng; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứ pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Mỗi giai đoạn tố tụng ứng với trách nhiệm của từng CQTHTT cụ thể. Trách nhiệm của mỗi CQTHTT ở mỗi giai đoạn có trách nhiệm khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn tố tụng trước có ảnh hưởng tới giai đoạn tố tụng sau. Ở mỗi giai đoạn tố tụng các CQTHTT thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh VAHS của mình sẽ góp phần bảo đảm sự khách quan của CQTHTT và sự thật của vụ án được sáng tỏ. CQĐT, VKS, TA đều có trách nhiệm trong quá trình chứng minh VAHS. CQĐT có trách nhiệm tiếp nhận giải quyết tin tội phạm ban đầu, VKS phối hợp cùng CQĐT trong quá trình điều tra vụ án, tìm ra các chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo là có tội hoặc không vi phạm pháp luật hình sự, CQĐT chịu sự giám sát của VKS trong quá trình điều tra vụ án, khi có đủ căn cứ chứng minh rằng một người phạm tội thì CQĐT ra bản kết luận điều tra và đề nghị VKS truy tố bị can. VKS nhận được bản kết luận điều tra cùng đề nghị truy tố bị can, VKS có trách nhiệm xem xét và ra một trong các quyết định Truy tố ra trước TA, đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung cho CQĐT. TA khi nhận được hồ sơ từ VKS và quyết định truy tố, TA có trách nhiệm xem xét và một trong các quyết định đưa vụ án ra xét xử, đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS. Luận văn: Thực trạng trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com