Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA TỈNH BẮC GIANG VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BAN HÀNH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang nằm ở toạ độ địa lý từ 21007’ đến 21037’ vĩ độ Bắc; từ 105053’ đến 107002’ kinh độ Đông; nằm chuyển tiếp giữa các tỉnh phía Đông Bắc với các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội. Phía Nam giáp các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp Thủ đô Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh có 9 huyện và thành phố Bắc Giang, trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao, với 230 xã, phường, thị trấn.
Về dân sinh và phúc lợi xã hội: Đến hết năm 2014, dân số toàn tỉnh Bắc Giang ước là 1.624.456 người, mật độ dân số bình quân là 420,9 người/km2, là tỉnh có mật độ dân số bình quân cao hơn so với mật độ dân số bình quân cả nước. Cơ cấu lao động trong tỉnh đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp. Sự chuyển dịch này phù hợp với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của tỉnh (GRDP) bình quân giai đoạn 2005 – 2015 đạt 9,45%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2014 ước đạt 1.545 USD.
Về tài nguyên đất: Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123.000 ha đất nông nghiệp, 110.000 ha đất lâm nghiệp, 66.500 ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở, còn lại khoảng 82.700 ha là các loại đất khác, trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm diện tích lớn hơn cả khoảng 63,13% diện tích tự nhiên. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Tiềm năng khoáng sản tỉnh Bắc Giang nói chung không lớn, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã điều tra, phát hiện được một số mỏ và điểm mỏ khoáng sản của 15 loại khoáng sản gồm các loại: năng lượng, kim loại, khoáng chất công nghiệp, vật liệu xây dựng thông thường. Nhiều loại có giá trị thương mại cao, có tiềm năng như than, các khoáng sản làm vật liệu xây dựng …
Hạ tầng giao thông: Bắc Giang là tỉnh trung du miền núi, có vị trí chuyển tiếp giữa các tỉnh phía Đông Bắc với các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội; nằm giữa trung tâm giao lưu của vùng tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Khu công nghiệp: Là một tỉnh có nhiều tiềm năng về nhân lực, đất đai, đường giao thông thuận lợi, Bắc Giang đang tiếp tục ưu tiên phát triển các khu, cụm công nghiệp; cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. với những thuận lợi về nguồn nhân lực, điều kiện tự nhiên và hệ thống cơ chế, chính sách, Bắc Giang đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Làng nghề: Với lịch sử hình thành lâu đời, là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em, Bắc Giang đã hình thành nên những làng nghề cổ truyền vừa mang nét tiêu biểu của văn hóa Kinh Bắc, văn hóa vùng đồng bằng Sông Hồng vừa mang nét văn hóa của các dân tộc vùng trung du, miền núi Bắc Bộ.
Lâm sản: Bắc Giang có diện tích đất rừng khoảng trên 140.192 ha. Trong đó, rừng phòng hộ 20.492,17 ha, chiếm 14,62%; rừng đặc dụng 13.773,38 ha, chiếm 9,82%; rừng sản xuất 105.926,89 ha, chiếm 75,56% tổng diện tích rừng. Rừng đã, đang và sẽ trở thành một trong những nguồn lực thế mạnh của tỉnh Bắc Giang trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Nông sản: Với thế mạnh về điều kiện tự nhiên và truyền thống nghề nông lâu đời, Bắc Giang đang trở thành điểm sáng trong cả nước với những mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa mạng lại giá trị kinh tế cao.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.2. Vai trò của Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bắc Giang
Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh đã có tác động đến hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh. Để phát huy lợi thế từ các đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh thúc đẩy sự phát triển bền vững các lĩnh vực, Tỉnh ủy của tỉnh Bắc Giang đã ban hành Nghị quyết về 05 chương trình phát triển kinh tế – xã hội trọng tâm; điều chỉnh bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [44]. Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh chính là phương tiện, công cụ để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng nói chung và của Tỉnh ủy nói riêng và để thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang trên các lĩnh vực, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung tại địa bàn quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh. Những Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành tạo điều kiện để các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế hoạt động trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là để phân bổ và phát huy các nguồn lực của tỉnh để phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Đồng thời, hoạt động này cũng là một trong những yếu tố chính để đảm bảo và bảo vệ sự ổn định trật tự của xã hội trên địa bàn của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh có vai trò tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý điều hành mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn của tỉnh.
Có thể khẳng định, Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành được xác định là công cụ pháp lý chủ yếu để thực hiện các chính sách phát triển và chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực nêu trên dựa trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp với chính sách, pháp luật quốc gia và phản ánh được đặc thù của địa phương.
2.2. VĂN BẢN CỦA TỈNH BẮC GIANG VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
2.2.1. Giới thiệu văn bản của tỉnh Bắc Giang về hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luậtL của Ủy ban nhân dân tỉnh
Luật năm 2008, Luật năm 2004, Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật năm 2004 (Nghị định số 91/2006/NĐ-CP) đã có những quy định chung và quy định riêng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh. Căn cứ các quy định của các văn bản nêu trên và tình hình thực tiễn ở địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành và tham mưu Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành các văn bản Văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết về quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp, trong đó có Ủy ban nhân dân tỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, cụ thể là:
- Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND ngày 10/8/2007 ban hành Quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp (Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND);
- Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND ngày 31/12/2009 ban hành Quy chế thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND);
- Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND ngày 15/8/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ban hành kèm theo Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND ngày 10/8/2007; Quy chế thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ban hành kèm theo Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND ngày 31/12/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh (Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND);
- Nghị quyết số 05/2009/NQ-HĐND ngày 8/7/2009 quy định mức chi hỗ trợ công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
- Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang quy định mức hỗ trợ kinh phí cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND). Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
2.2.2. Đánh giá chung về văn bản của tỉnh Bắc Giang quy định về quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh
2.2.2.1. Ưu điểm
Đánh giá một cách tổng quát, có thể thấy rằng, so với các quy định của Luật năm 04 và Nghị định 91/2006/NĐ-CP, các quy định của tỉnh Bắc Giang về quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh đã tương đối chi tiết, cụ thể về lập Chương trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh hàng năm, trong đó quy định tương đối rõ về chủ thể, thời gian, nội dung lập dự kiến, trình tự lập và ban hành Chương trình; về trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong giai đoạn soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định rõ nội dung trách nhiệm; trách nhiệm của cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và các đối tượng chịu sự tác động của văn bản trong phạm vi và hình thức thích hợp tùy theo tính chất, nội dung của dự thảo; về thẩm quyền, phạm vi, thời gian, nội dung thẩm định; thời gian và hồ sơ trình dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật; trình tự, thủ tục xem xét, thông qua dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật tại phiên họp; trình ký ban hành dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, điểm khác biệt mang tính nổi bật của quy trình này ở tỉnh Bắc Giang đó là quy định trách nhiệm, thời gian, hồ sơ soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đã được Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua do Sở Tư pháp thực hiện trước khi Ủy ban nhân dân tỉnh ký ban hành. Đây là nội dung được Bộ Tư pháp đánh giá “là cách làm mới, có sáng tạo và có hiệu quả” [9] và được nhiều tỉnh tham khảo, học tập kinh nghiệm như Lạng Sơn, Lào Cai, Bắc Kạn [23]…
Bằng việc ban hành các văn bản quy định về hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật nói trên, công tác xây dựng và ban hành Văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã có thêm hành lang pháp lý chặt chẽ, thiết lập cơ chế ổn định, rõ ràng trong xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Bắc Giang, nhất là các văn bản quy định về kinh phí hỗ trợ cho công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng và ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh đòi hỏi phải tuân thủ và thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục theo một quy định thống nhất, minh bạch, không có ngoại lệ. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
2.2.2.2. Một số điểm bất cập và bất hợp lý của quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật trong các văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với Luật năm 2015)
Nghiên cứu các quy định của tỉnh Bắc Giang về quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND, Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND, Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND nêu trên cho thấy còn có nhiều bất cập, bất hợp lý, chưa điều chỉnh hết các công việc được thực hiện trong quy trình này, cụ thể là:
Thứ nhất, về lập đề nghị, xây dựng Chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: “Trước ngày 01/12 hàng năm, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh… đăng ký việc tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công phụ trách bằng văn bản gửi đến Văn phòng Ủy ban nhân dân…” [48, Điều 7, Khoản 2].
Với việc quy định trước 01/12 hàng năm, các cơ quan chuyên môn đăng ký tham mưu ban hành Văn bản quy phạm pháp luật như quy định nêu trên là chưa hợp lý, chưa rõ ràng vì “trước” ở đây được hiểu là bao lâu và “trước” ở đây nếu được thực hiện tháng 11 như vẫn đang thực hiện thì sẽ không đảm bảo là cơ sở cho việc xây dựng dự toán kinh phí cho việc xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật trong năm sau (việc xây dựng dự toán kinh phí ngân sách nhà nước cấp hàng năm thường được thực hiện vào tháng 10 của năm trước liền kề). Khoản 1 Điều 127 Luật năm 2015 chỉ quy định trách nhiệm đề nghị xây dựng Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh mà không quy định thời gian gửi đề nghị này. Do đó, cần thiết phải quy định cụ thể thời gian nêu trên là chậm nhất vào tháng 10 hàng năm, các cơ quan chuyên môn phải thực hiện đề xuất ban hành Văn bản quy phạm pháp luật.
Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh…chủ trì phối hợp với cơ quan Tư pháp, Tài chính, Nội vụ cùng cấp lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định” [48, Điều 8, Khoản 1]
Với thời hạn 10 ngày và không được quy định là ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với các cơ quan lập dự kiến là chưa bảo đảm về thời gian cần thiết để Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc xem xét, đánh giá đề nghị của các cơ quan chuyên môn bởi để thực hiện nhiệm vụ này, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh phải thực hiện xem xét, đánh giá từng nội dung của đề nghị đồng thời phải phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Tài chính và Sở Nội vụ để thực hiện việc đánh giá. Các cơ quan được phối hợp cũng cần thiết phải có khoảng thời gian nhất định để thực hiện đánh giá, xem xét các nội dung của đề nghị. Mặt khác, xuất phát từ các nội dung của đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật cho thấy, việc quy định Văn phòng UBND tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nội vụ là không cần thiết vì thực tế các cơ quan này không có nhiều liên quan trong việc xem xét, đánh giá đề nghị, ví dụ việc xây dựng kinh phí thuộc trách nhiệm của Sở Tài chính đã có quy định rất cụ thể, rõ ràng. Nghiên cứu Luật năm 2015 cho thấy khoản 3 Điều 127 Luật này chỉ quy định “Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp xem xét, kiểm tra việc đề nghị ban hành quyết định, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định” mà không có quy định thời gian để Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện công việc nêu trên là chưa đầy đủ. Do vậy, cần thiết phải có quy định thời hạn hợp lý (khoảng 20 ngày làm việc) để Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc xem xét, kiểm tra đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan gửi đến trước khi trình Ủy ban nhân dân tỉnh. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: ““1. Chương trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh… được thông qua tại phiên họp tháng 01 hàng năm” [48, Điều 9, Khoản 1].
Quy định về thời gian Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, thông qua Chương trình vào tháng 01 hàng năm nêu trên là chưa hợp lý vì với những dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật cần được ban hành trong tháng 01 thì việc quyết định thể hiện sự đồng ý của Ủy ban nhân dân tỉnh thể hiện ở đâu trong khi Chương trình này được xác định thời gian từ tháng 01 đến tháng 12 hàng năm. Luật năm 2015 không quy định về vấn đề này. Vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh quy định nêu trên theo hướng Chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật phải được trình phiên họp Ủy ban nhân dân tỉnh tháng 12 hàng năm.
Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: “2. Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh… có trách nhiệm gửi Chương trình… đến các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan, đơn vị, ngành thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, các cơ quan, tổ chức hữu quan trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh… thông qua” [48, Điều 9, Khoản 2].
Quy định về thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua Chương trình để Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh gửi đến các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh, cơ quan, đơn vị, ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh như đã nêu trên là không hợp lý vì Chương trình sau khi được ký ban hành sẽ có hiệu lực kể từ ngày ký và được gửi ngay sau đó mà không cần đến thời hạn là 10 ngày, nhất là trong thời điểm này, khi các cơ quan hành chính đang thực hiện tốt việc gửi văn bản điện tử thông qua Hệ thống quản lý điều hành được sử dụng chung. Luật năm 2015 không có quy định về vấn đề này. Do vậy, khi ban hành Quyết định thay thế Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND nêu trên, cần điều chỉnh quy định nêu trên theo hướng Chương trình đã được Ủy ban nhân dân ký ban hành phải được gửi ngay đến chủ thể có liên quan.
Bên cạnh đó, các văn bản của tỉnh Bắc Giang được giới thiệu nêu trên và Luật năm 2015 chưa có quy định về việc Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh phải gửi dự kiến Chương trình đến các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh để nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến cho việc thảo luận và biểu quyết thông qua tại cuộc họp; chưa quy định về trách nhiệm của cơ quan đề nghị và cơ quan xem xét, đánh giá đề nghị, nhất là trong trường hợp điều chỉnh, bổ sung, rút đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật. Vấn đề đặt ra, cần phải quy định cụ thể các vấn đề nêu trên để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể và chất lượng đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Thứ hai, về soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
Quyết định 69/2007/QĐ-UBND quy định về chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân có quy định: “1. Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực nào thì cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó chủ trì việc soạn thảo” [48, Điều 11, Khoản 1].
Quy định nêu trên chưa thể hiện rõ chủ thể nào có trách nhiệm phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hay Ủy ban nhân dân tỉnh.
Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định:
Trường hợp soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có nhiều nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, điều chỉnh những vấn đề mới, Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị các ngành liên quan cử cán bộ tham gia và quyết định thành lập Tổ soạn thảo.
Thành phần tham gia Tổ soạn thảo gồm có: đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo làm Tổ trưởng, đại diện cơ quan Tư pháp, đại diện các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp làm thành viên. Trong trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo có thể mời chuyên gia, đại diện tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội có liên quan tham gia Tổ soạn thảo.
Nhiệm vụ của Tổ soạn thảo do Thủ trưởng cơ quan chủ trì phân công và tự giải thể khi dự thảo được Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua [48, Điều 13].
Quy định nêu trên về Tổ soạn thảo là điểm bất cập nhất trong giai đoạn này bởi, mặc dù đã quy định rõ trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nhiều nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, điều chỉnh những vấn đề mới thì Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định thành lập Tổ soạn thảo nhưng chưa có quy định về trách nhiệm của Tổ soạn thảo; tiêu chuẩn của cán bộ được cử tham gia Tổ soạn thảo được xác định theo chức vụ hay theo chuyên môn nghiệp vụ hay cả hai tiêu chuẩn hay tiêu chuẩn nào khác; không quy định thành phần tham gia bắt buộc của Tổ soạn thảo phải có đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân – cơ quan theo dõi việc thực hiện Chương trình và thực hiện thẩm tra dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật cũng như sự tham gia của chuyên gia, đại diện tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội có liên quan. Mặt khác, chưa quy định được ngoài trường hợp thành lập Tổ soạn thảo thì trong các trường hợp khác việc phân công soạn thảo được thực hiện như thế nào?. Bên cạnh đó, chưa quy định được trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong trường hợp không thực hiện các nhiệm vụ được giao trong giai đoạn này. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Nghiên cứu thêm Luật năm 2015 cho thấy, khoản 2 Điều 128 Luật này ngoài việc bổ sung quy định nhiệm vụ của cơ quan chủ trì soạn thảo phải: Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương…; Đánh giá tác động văn bản trong trường hợp dự thảo có quy định cụ thể các chính sách đã được quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; xây dựng dự thảo và tờ trình…; đánh giá tác động của thủ tục hành chính …; tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến … thì Luật này tiếp tục không đề cập đến Tổ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Do vậy, để hoàn thiện các quy định của pháp luật về Tổ soạn thảo, khi ban hành Nghị định quy định chi tiết Luật, Chính phủ cần bổ sung quy định về Tổ soạn thảo. Cùng với đó, khi ban hành Quyết định thay thế Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND, Ủy ban nhân dân tỉnh cần phải quy định chi tiết hơn về các vấn đề còn bất cập, bất hợp lý về Tổ soạn thảo như đã phân tích ở trên.
Thứ ba, về lấy ý kiến dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
Về hình thức, nội dung lấy ý kiến, Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định:
Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì việc soạn thảo quyết định hình thức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
- Trường hợp lấy ý kiến bằng công văn hành chính, hồ sơ gồm có:
- b) Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;…
- Trường hợp lấy ý kiến trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh…nội dung gồm có:
- a) Toàn văn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
- Trường hợp phải lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản…thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải… xác định những vấn đề cần lấy ý kiến…
- Trường hợp dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp… tổ chức hội nghị lấy ý kiến…
- Lấy ý kiến nhân dân… [48, Điều 14]. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Với quy định nêu trên cho thấy Quyết định này đã quy định được các hình thức lấy ý kiến song lại không quy định một hình thức bắt buộc chung mà trong mọi trường hợp tổ chức lấy ý kiến đều phải thực hiện như phải đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh, của cơ quan chủ trì soạn thảo và tùy tính chất, nội dung của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định áp dụng một hình thức lấy ý kiến khác để thực hiện đồng thời cùng với hình thức bắt buộc chung. Mặt khác, quy định nêu trên cũng cho thấy thiếu quy định cụ thể trong trường hợp nào phải tổ chức lấy ý kiến ở mỗi hình thức lấy ý kiến. Điều 129 Luật năm 2015 chỉ quy định “Cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định tại Điều 120 Luật này”, Điều 120 Luật này quy định “Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được đăng tải toàn văn trên cổng thông tin điện tử của tỉnh… Cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức có liên quan…” mà không có điều, khoản quy định rõ về các hình thức lấy ý kiến khác.
Cũng theo quy định nêu trên của Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND cho thấy, về nội dung lấy ý kiến, mới chỉ xác định nội dung lấy ý kiến là toàn văn dự thảo (khoản 1, 2) mà chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chủ soạn thảo phải xác định những vấn đề cơ bản cần lấy ý kiến (trừ khoản 3) và chưa quy định được nội dung lấy ý kiến ở hình thức lấy ý kiến tổ chức hội nghị, lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, chưa quy định được các vấn đề như: i) trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến; ii) trách nhiệm giải trình của cơ quan tổ chức lấy ý kiến; iii) quyền tham gia ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên và Nhân dân cùng cơ chế bảo đảm cho các chủ thể này thực hiện quyền trong khi theo các bản Hiến pháp, Nhà nước ta là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, chính vì vậy, người dân được khuyến khích tham gia trong quá trình hoạch định chính sách và pháp luật của nhà nước, việc người dân tham gia góp ý kiến vào dự thảo các Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh cần được khuyến khích, tuy nhiên việc này lại hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan soạn thảo có lấy ý kiến và có công khai hóa dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đó hay không và công khai đến mức độ nào.
Vấn đề đặt ra là, các quy định nêu trên cần phải được cụ thể hóa (đối với Luật năm 2015), sửa đổi bổ sung (đối với Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND) theo hướng quy định cụ thể về: các hình thức lấy ý kiến; trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xác định các vấn đề trọng tâm cần lấy ý kiến, mở rộng đối tượng lấy ý kiến, giải trình việc tiếp thu ý kiến tham gia. Đồng thời bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến.
Về thời hạn để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến theo đề nghị của cơ quan chủ trì soạn thảo, Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
1… Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan được lấy ý kiến phải trả lời bằng văn bản.
Trường hợp phải lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản… và dành ít nhất 07 ngày, kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo… [48, Điều 14, Khoản 1, 3].
Quy định nêu trên mới chỉ quy định thời hạn để các cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến tham gia ý kiến mà chưa quy định rõ thời hạn này được tính là ngày làm việc và cùng với việc không quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo phải xác định những vấn đề trọng tâm cần lấy ý kiến thì quy định nêu trên là chưa hợp lý, bởi với những Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực thì thời hạn 05 ngày, 07 ngày nêu trên là không đảm bảo được thời gian để cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu kỹ lưỡng về dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác quy định nêu trên cũng cho thấy còn thiếu quy định về thời hạn để các cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến trả lời trong trường hợp lấy ý kiến thông qua hình thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh và lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
Nghiên cứu Luật năm 2015 cho thấy, mặc dù Điều 120 Luật này đã quy định thời hạn để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật là phải đăng tải dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trên trang thông tin điện tử của tỉnh ít nhất 30 ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật và 10 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, song lại không quy định thời hạn nêu trên được tính là ngày làm việc và chưa xác định rõ thời hạn 30 ngày đăng tải trên trang thông tin điện tử của tỉnh được tính từ thời điểm nào là chưa minh bạch.
Do đó, cần thiết phải quy định cụ thể về thời hạn và thời hạn này phải được tính là ngày làm việc để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có đủ thời gian cần thiết nghiên cứu, tham gia ý kiến đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Thứ tư, về thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
Thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang được quy định tại Điều 15 Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND; Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành riêng một Văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này là Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND và được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND, song khi nghiên cứu các quy định từ các văn bản này cho thấy còn một số bất cập như:
Về nội dung thẩm định, khoản 3 Điều 5 Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 2 Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND quy định:
Nội dung thẩm định gồm:
- Sự cần thiết ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Sự phù hợp của nội dung văn bản quy phạm pháp luật với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
- Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
đ) Sự cần thiết, tính hợp lý… của thủ tục hành chính;
- e) …
- Ngoài các nội dung nêu trên, Sở Tư pháp… có thể nhận xét, đánh giá về tính khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật [56].
Quy định nêu trên đã cho thấy nội dung thẩm định tương đối đầy đủ. Việc xem xét, đánh giá các nội dung thẩm định do Sở Tư pháp thực hiện là cần thiết và vô cùng quan trọng, song các văn bản nêu trên lại thiếu quy định về các tiêu chí để Sở Tư pháp có căn cứ chuẩn thực hiện việc xem xét, đánh giá các nội dung thuộc phạm vi thẩm định như: một văn bản được coi là cần thiết hay không cần thiết cần có những điều kiện gì? Hoặc để đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp phải dựa trên những tiêu chí nào? Đây là việc rất khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay. Trong khi để đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp ngoài việc hiểu đơn giản là đánh giá sự phù hợp về nội dung, hình thức với các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành mà còn phải hiểu sâu xa hơn là sự phù hợp với tinh thần của Hiến pháp và các nguyên tắc của pháp luật cũng như các đòi hỏi của nền dân chủ, thể chế chính trị. Tương tự như vậy, việc đánh giá tính khả thi của văn bản cũng là một việc làm rất khó đối với cơ quan thẩm định cho dù nội dung này ở các Văn bản quy phạm pháp luật nêu trên không bắt buộc phải làm, bởi lẽ thực tế việc xác định một dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có khả thi hay không cũng không có tiêu chí nào để đánh giá, thậm chí vượt quá khả năng của cơ quan thẩm định bởi việc nghiên cứu về tính khả thi của một dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi cơ quan thẩm định phải có sự hiểu biết và xâm nhập thực tế về các quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh.
Về thời hạn để Sở Tư pháp tổ chức thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, Điều 11 Quyết định số 142/2009/QĐ-UBND quy định: Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
- Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thẩm định, cơ quan Tư pháp phải gửi báo cáo thẩm định cho cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đó.
- Đối với những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cần ban hành kịp thời…thì thời hạn này có thể sớm hơn…. cơ quan chủ trì soạn thảo phải kịp thời gửi hồ sơ… để cơ quan thẩm định có ít nhất 02 ngày làm việc để tổ chức thẩm định [50, Điều 11].
Với quy định về thời hạn để Sở Tư pháp tổ chức thẩm định là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thẩm định (đối với trường hợp theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh thì thời hạn này rút ngắn còn 02 ngày làm việc) như quy định nêu trên là không bảo đảm thời gian để Sở Tư pháp thực hiện xem xét, đánh giá các nội dung thẩm định, nhất là trong trường hợp dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và việc thực hiện các trách nhiệm đã được quy định tại Điều 7 Quyết định này, trong đó có trách nhiệm tổ chức hoặc cùng cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Nghiên cứu Luật năm 2015 cho thấy, Điều 130 Luật này quy định nội dung, thời hạn thẩm định theo hướng dẫn chiếu đến Điều 121 của Luật. Khoản 3 Điều 121 Luật quy định nội dung thẩm định nhưng không quy định nội dung đánh giá về sự cần thiết, tính khả thi và nội dung đánh giá về thủ tục hành chính (đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có quy định thủ tục hành chính) là chưa đầy đủ bởi việc Sở Tư pháp đưa ra quan điểm thẩm định độc lập về sự cần thiết hay không cần thiết ban hành Văn bản quy phạm pháp luật là hết sức quan trọng, từ nội dung này đánh giá được căn cứ ban hành Văn bản quy phạm pháp luật và một phần về tính khả thi của Văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành.
Do đó, để có cơ sở pháp lý hoàn thiện cho công tác thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật do Sở Tư pháp thực hiện, cần thiết phải có quy định chi tiết, sửa đổi, bổ sung các nội dung về tiêu chí thẩm định; thời hạn thẩm định và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan như Sở Tư pháp, cơ quan chủ trì soạn thảo.
Thứ năm, về trình hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND quy định: Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
- Chậm nhất là 05 ngày, trước ngày Ủy ban nhân dân họp, cơ quan chủ trì soạn thảo gửi hồ sơ trình dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đến Văn phòng Ủy ban nhân dân cùng cấp….
- Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh… chuẩn bị hồ sơ dự thảo văn bản để chuyển đến các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh chậm nhất là 03 ngày, trước ngày Ủy ban nhân dân họp [48, Điều 16].
Quy định nêu trên cho thấy, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh có thời gian 02 ngày để nhận hồ sơ từ cơ quan chủ trì soạn thảo và chuẩn bị hồ sơ để gửi đến thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh. Thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh có thời gian là 03 ngày để nghiên cứu dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Với quy định thời hạn nêu trên và thời hạn này đều không được quy định là ngày làm việc là quá ngắn và dường như không đủ để các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh có thể nghiên cứu kỹ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc thảo luận về dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đó tại phiên họp, nhất là đối với những dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực. Mặt khác, quy định nêu trên chưa quy định trách nhiệm của Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình chuẩn bị hồ sơ. Trong khi đó, theo quy định của điểm d khoản 1 Điều 2 Quyết định số 374/2013/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang thì trong thời hạn 02 ngày này, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc thẩm tra hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan chủ trì gửi đến và việc thẩm tra đòi hỏi phải được thực hiện với sự phối hợp của cơ quan chủ trì soạn thảo.
Điều 131 Luật năm 2015 cũng quy định trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày Ủy ban nhân dân tỉnh họp, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đến Ủy ban nhân dân tỉnh để chuyển đến các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh. Như vậy, quy định của Luật năm 2015 mặc dù đã quy định rõ thời hạn này được tính là ngày làm việc, song lại giao trách nhiệm gửi hồ sơ cho cơ quan chủ trì soạn thảo mà không phải là Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh như quy định của tỉnh Bắc Giang. Quy định này là chưa thống nhất với điểm a khoản 1 Điều 132 của Luật về trình tự, xem xét, thông qua dự thảo Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh khi điểm này quy định “Đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh trình bày ý kiến”, vấn đề đặt ra là nếu cơ quan chủ trì soạn thảo không gửi hồ sơ cho Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thì cơ quan này không có cơ sở để thực hiện việc thẩm tra hồ sơ như chức năng, nhiệm vụ đã được pháp luật giao và từ đó không có cơ sở để trình bày ý kiến về dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật tại phiên họp Ủy ban nhân dân.
Do đó, cần thiết phải quy định thời hạn thực hiện các công việc thuộc giai đoạn này được tính là ngày làm việc và trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ đến Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh nhằm bảo đảm thời gian cần thiết và tạo cơ sở cho Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ đã được pháp luật giao.
Thứ sáu, về soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang
Đây là một trong những công đoạn đặc biệt, riêng có trong quy trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh so với quy trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật chung trong phạm vi cả nước. Xuất phát từ mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng Văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót của Văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã giao trách nhiệm cho Sở Tư pháp thực hiện việc soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đã được Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua tại phiên họp Ủy ban nhân dân tỉnh trước khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thay mặt Ủy ban nhân dân tỉnh ký ban hành.
Quyết định 383/2013/QĐ-UBND quy định: Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm tiếp thu ý kiến tham gia của các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, kết luận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh tại phiên họp Uỷ ban nhân dân tỉnh, chỉnh sửa dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và gửi hồ sơ… đến Sở Tư pháp để soát xét, hoàn thiện dự thảo văn bản quy phạm pháp luật báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định…
Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Sở Tư pháp có trách nhiệm soát xét, hoàn thiện, có văn bản (kèm theo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật) báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định [56, Điều 17, Khoản 1, 2].
Quy định nêu trên cho thấy mới chỉ quy định chung là trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của cơ quan soạn thảo, Sở Tư pháp có trách nhiệm thực hiện soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh ký ban hành mà không quy định trong trường hợp dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đó có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực hay lĩnh vực phức tạp hoặc có nội dung mới phát sinh tại phiên họp thông qua dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đó thì thời hạn này dài hơn là chưa hợp lý. Mặt khác, quy định nêu trên cũng chưa quy định rõ nội dung cần soát xét, hoàn thiện là những nội dung nào. Trên thực tế, Sở Tư pháp đã thực hiện soát xét, hoàn thiện các vấn đề về nội dung, hình thức, ngôn ngữ và kỹ thuật trình bày Văn bản quy phạm pháp luật.
Vấn đề đặt ra là, việc soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết song cần phải sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên về thời hạn nội dung soát xét, hoàn thiện để có đầy đủ cơ sở pháp lý cho Sở Tư pháp tổ chức soát xét, hoàn thiện các dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật này.
2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
2.3.1. Thực trạng hoạt động xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Qua thực tiễn thực thi các quy định về hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014 cho thấy ở một số công đoạn trong quy trình có những khó khăn, hạn chế, bất cập như sau:
2.3.1.1. Về lập đề nghị, xây dựng chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật
Việc xây dựng Chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh hàng năm có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở pháp lý để các cơ quan chuyên môn căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai các chủ trương, chính sách của Trung ương, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, dự báo những quan hệ xã hội, những nhu cầu trong thực tiễn tại địa phương cần cụ thể hoá bằng Văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Thực tế cho thấy, mặc dù ngay từ tháng 11 hàng năm, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đều chủ động ban hành Công văn đề nghị các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh lập dự kiến Văn bản quy phạm pháp luật tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trong năm sau, đồng thời phối hợp với Sở Tư pháp để tổng hợp đăng ký. Song, một số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh chưa chủ động đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngay kể cả trong trường hợp nhu cầu xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành có cơ sở pháp lý và thực tiễn. Số cơ quan không gửi đề nghị có giảm theo từng năm những vẫn còn diễn ra. Năm 2008 có 15/21 cơ quan; Năm 2009 có 13/21 cơ quan; Năm 2010 có 10/21 cơ quan; Năm 2011 có 11/21 cơ quan; Năm 2012 có 09/21 cơ quan; Năm 2013 có 07/21 cơ quan và Năm 2014 có 05/21 [41] cơ quan. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Đơn cử như: trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, Luật Đất đai năm 2013 được ban hành thay thế cho Luật Đất đai năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2014, theo đó, nhiều Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành trong lĩnh vực này cần phải được thay thế, sửa đổi, bổ sung. Song Sở Tài nguyên và Môi trường chưa chủ động đề nghị trong Chương trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh năm 2014 và trên thực tế, trong năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 08 Văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này [28] mà không có trong Chương trình như Quyết định 858/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 ban hành Quy định về trình tự, thủ tục khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyên mục đích sử dụng đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh…
Tình trạng nêu trên cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến số lượng văn bản quy phạm pháp luật thực tế do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các năm đều tăng so với số lượng văn bản trong Chương trình. Theo các báo cáo của Sở Tư pháp cho thấy: Năm 2008 bổ sung 13 Quyết định; Năm 2009 bổ sung 15 Quyết định; Năm 2010 bổ sung 9 Quyết định; Năm 2011 bổ sung 10 Quyết định; Năm 2012 bổ sung 7 Quyết định; Năm 2013 bổ sung 6 Quyết định và Năm 2014 bổ sung 23 Quyết định [41].
Về chất lượng đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của các sở, ngành đã gửi đề nghị đăng ký thì có đến 90% đề nghị mới dừng lại ở dự kiến tên gọi, thời điểm ban hành và cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; chưa nêu rõ được sự cần thiết ban hành văn bản, phạm vi, đối tượng điều chỉnh, dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực, cơ chế phối hợp để soạn thảo và đặc biệt, chưa dự báo sự tác động đến tình hình kinh tế – xã hội của văn bản khi ban hành như quy định của pháp luật. Nguyên nhân của tình trạng này là do không có nguồn kinh phí chi hỗ trợ cho việc đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật nên việc lập đề nghị chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của cơ quan quản lý nhà nước, của cơ quan thực thi văn bản, không có trường hợp nào tiến hành khảo sát, nghiên cứu tác động xã hội, đặc biệt là ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật mà cơ quan mình sẽ tham mưu ban hành. Mặt khác, trách nhiệm của cơ quan chuyên môn trong việc đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh chưa được phát huy tích cực.
Về thời hạn Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc chủ trì, phối hợp với các cơ quan lập dự kiến Chương trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật, 100% đề nghị chưa được thực hiện đúng thời hạn quy định là 10 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị. Thời hạn này thường được thực hiện là 15 đến 20 ngày (trước ngày Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức họp). Bên cạnh đó, khi thực hiện lập dự kiến Chương trình, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ phối hợp với Sở Tư pháp mà không có sự phối hợp với Sở Tài chính và Sở Nội vụ do không cần thiết phải phối hợp. Nguyên nhân là do bất cập từ quy định của Quyết định 69/2007/QĐ-UBND khi quy định thời hạn 10 ngày để Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện xem xét, đánh giá đề nghị là rất ngắn, mặt khác sự phối hợp với Sở Tài chính và Sở Nội vụ để thực hiện việc này là không cần thiết nên Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đã không thực hiện. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Giải pháp đặt ra là cần có quy định về thời hạn thực hiện các công việc trong giai đoạn này bảo đảm tính hợp lý; quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan trong việc đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan này trong thực tế thông qua việc xác định là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại người đứng đầu và công chức, viên chức hàng năm. Đồng thời cần bố trí kinh phí hỗ trợ cho công tác lập đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh; tổ chức tập huấn kỹ năng đề nghị, tập hợp và lập dự kiến xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ các ngành.
2.3.1.2. Về soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật
Đây là giai đoạn mà cơ quan soạn thảo giữ một vị trí, vai trò rất lớn trong quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Việc thực hiện tốt các công việc trong giai đoạn này sẽ giúp cho chất lượng soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật được nâng lên và giúp cho công việc thẩm định của Sở Tư pháp được thuận lợi hơn. Song thực tiễn cho thấy hoạt động này còn nhiều khó khăn, bất cập làm cho chất lượng ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh chưa cao. Cụ thể như sau:
Một là, phần lớn các cơ quan chủ trì soạn thảo không thực hiện trách nhiệm khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương và các vấn đề liên quan đến nội dung chính của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Từ tháng 9/2013 (thời điểm có hiệu lực của Quyết định 383/2013/QĐ-UBND sửa đổi nội dung quy định về hồ sơ gửi thẩm định của Quyết định 142/2009/QĐ-UBND, trong đó có quy định đây là tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ) đến hết năm 2014 cho thấy có 43/43 (100%) hồ sơ gửi thẩm định không có tài liệu này [40]. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do các cơ quan chủ trì soạn thảo đều có quan điểm dự thảo không cần thực hiện việc khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương và các vấn đề liên quan đến nội dung chính của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật và không có kinh phí để thực hiện.
Vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường công tác tập huấn để thay đổi nhận thức và bố trí kinh phí hợp lý để cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện nhiệm vụ này. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Hai là, Thực tế cho thấy hầu hết các cơ quan được phân công chủ trì soạn thảo đều giao trách nhiệm cho phòng chuyên môn thực hiện việc soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật mà không thành lập Tổ soạn thảo, ngay cả trong trường hợp dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có nhiều nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, điều chỉnh những vấn đề mới. Đơn cử như: Sở Khoa học và Công nghệ khi xây dựng dự thảo Quyết định số 91/2009/QĐ-UBND ngày 25/9/2009 ban hành Quy định về xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương của tỉnh Bắc Giang, hay Sở Kế hoạch và Đầu tư khi xây dựng dự thảo Quyết định số 330/2012/QĐ-UBND ngày 09/10/2012 ban hành Quy định trình tự, thủ tục thực hiện các dự án đầu tư bên ngoài khu công nghiệp… Có rất ít trường hợp Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo đã thành lập Tổ soạn thảo. Ngay trong trường hợp có thành lập Tổ soạn thảo thì thành phần được các cơ quan cử tham gia theo đề nghị của cơ quan chủ trì soạn thảo phần lớn là công chức có chức vụ phó phòng, chuyên viên, thành phần là đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, chuyên gia hầu như không có. Ví dụ như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi xây dựng dự thảo Quyết định ban hành Quy định cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước sinh hoạt tập trung trên địa bàn nông thôn…
Nguyên nhân của hạn chế này là do pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm bắt buộc cơ quan chủ trì soạn thảo phải thành lập Tổ soạn thảo trong những trường hợp nêu trên, tiêu chuẩn của cán bộ tham gia Tổ soạn thảo và chưa bố trí kinh phí cần thiết cho hoạt động của Tổ soạn thảo.
Giải pháp đặt ra là cần hoàn thiện quy định của pháp luật về Tổ soạn thảo và bố trí kinh phí cho hoạt động này.
Ba là, còn tình trạng sao chép, quy định lại văn bản pháp luật được quy định chi tiết như sao chép lại quy định của Luật, Nghị định, Thông tư đã vi phạm quy định về ngôn ngữ, kỹ thuật trình bày Văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 5 Luật năm 2008. Đơn cử rõ nét nhất về tình trạng này là đối với Quyết định số 24/2009/QĐ-UBND ngày 14/5/2009 ban hành Quy định độ mật của tài liệu, vật mang bí mật nhà nước của Ủy ban nhân dân và cơ quan, tổ chức liên quan thuộc tỉnh Bắc Giang. Hầu hết các nội dung cơ bản của Quyết định nêu trên như soạn thảo, in ấn, phát hành và sao chụp tài liệu mật; mẫu con dấu và sử dụng con dấu mật; nhận tài liệu mật; bảo vệ bí mật nhà nước… đã được quy định rất rõ ràng, cụ thể tại Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, Thông tư số 12/2002/TT-BCA ngày 13/9/2002 của Bộ Công an. Tuy nhiên, tại mục 9 Thông tư 12 quy định.
“Người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương phải xây dựng quy chế bảo vệ bí mật nhà nước ở cơ quan, tổ chức, địa phương mình, nội dung của quy chế bảo vệ bí mật nhà nước phải căn cứ vào yêu cầu bảo mật ở cơ quan, tổ chức, địa phương và phù hợp với quy định của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước”. Chính thực trạng này đã làm cho Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành không bảo đảm tính hợp pháp vì đã vi phạm quy định mang tính nguyên tắc trong Luật năm 2008 nêu trên.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên xuất phát từ nhận thức, đánh giá của cơ quan chủ trì soạn thảo là để thuận tiện trong quá trình áp dụng, không cần phải tìm các Văn bản quy phạm pháp luật khác như Nghị định, Thông tư.
Giải pháp đặt ra để khắc phục hạn chế này là tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao nhận thức của các chủ thể, trong đó có cơ quan chủ trì soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
Bốn là, chưa thực hiện thống nhất một số nguyên tắc xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật. Việc tuân thủ các nguyên tắc xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng giúp cho việc ban hành Văn bản quy phạm pháp luật được có chất lượng, đúng quy định. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh còn tình trạng một số cơ quan chủ trì soạn thảo không tuân thủ và thực hiện thống nhất một số nguyên tắc trong quá trình tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó phổ biến là:
Vi phạm nguyên tắc về hiệu lực văn bản, Điều 51 Luật năm 2004 quy định thời điểm có hiệu lực của Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành là sau 10 ngày kể từ ngày ký ban hành. Song thực tế, vẫn còn một số trường hợp không thực hiện theo quy định này khi quy định thời điểm có hiệu lực kể từ ngày ký hoặc quy định ngày cụ thể nhưng không đủ 10 ngày theo quy định. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Đơn cử như Quyết định số 159/2014/QĐ-UBND ngày 27/3/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định chính sách bồi thường, hỗ trợ di dân, tái định cư và chi trả, quản lý tiền bồi thường, hỗ trợ Trường bắn quốc gia TB1 ban hành kèm theo Quyết định 59/2005/QĐ-UBND; Quyết định 519/2011/QĐ-UBND ngày 30/12/2011 ban hành Quy định mức hỗ trợ bảo vệ rừng sản xuất là rừng tự nhiên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2012 – 2016… đều quy định thời điểm có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành [39].
Nguyên tắc áp dụng Văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định rất rõ tại Điều 83 Luật năm 2008, trong đó có nguyên tắc: trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn và trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau. Song hầu hết các cơ quan soạn thảo không quan tâm nghiên cứu và trong một số trường hợp dẫn tới việc tham mưu ban hành Văn bản quy phạm pháp luật sai thẩm quyền.
Đơn cử như Quyết định 1327/QĐ-UBND ngày 15/8/2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành mức giá thu một phần viện phí trong hệ thống y tế nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Giang [26]. Các Văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về thẩm quyền ban hành mức giá thu một phần viện phí có sự mâu thuẫn, không thống nhất như, theo khoản 5 Điều 11 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, điểm c khoản 8 Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 Hội đồng nhân dân có quyền quyết định thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật; Điều 11 Pháp lệnh phí và lệ phí quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định thu phí, lệ phí được phân cấp do Ủy ban nhân dân cùng cấp trình; Điều 5 Nghị định 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 quy định Chính phủ có thể ủy quyền cho Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định mức thu đối với từng trường hợp cụ thể, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định đối với khoản phí gắn với chức năng quản lý hành chính của chính quyền địa phương; Trong khi đó khoản 1 Điều 5 Nghị định 95-CP ngày 27/8/1994 của Chính phủ về thu một phần viện phí, phần 3 Thông tư 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá một phần viện phí; Điểm 2 mục c Thông tư liên bộ số 14/TTLB ngày 30/9/1995 của liên bộ Tài chính – Lao động Thương binh Xã hội và Ban Vật giá Chính phủ quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành biểu giá ở địa phương mình. Trong trường hợp này, vận dụng Điều 80 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, Điều 83 Luật năm 2008, trong trường hợp các Văn bản quy phạm pháp luật quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn; trong trường hợp các Văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau. Từ những quy định nêu trên cho thấy thẩm quyền ban hành văn bản quy định giá thu một phần viện phí thuộc Hội đồng nhân dân mà không phải thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh như đã ban hành.
Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là: do nội dung một số Thông tư, Nghị định đã quy định khá là chi tiết, cụ thể song vẫn có điều khoản giao trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn ở địa phương để quy định cụ thể cho phù hợp (đơn cử như với Quyết định số 24/2009/QĐ-UBND đã nêu và phân tích ở phần trên). Đội ngũ những người làm công tác soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự quan tâm đến các quy định mang tính nguyên tắc trong quá trình soạn thảo. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Giải pháp đặt ra là, cần phải có những quy định cụ thể về nguyên tắc xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật không chỉ dừng lại ở khái quát, chung chung mà cần cụ thể hóa nội hàm của mỗi nguyên tắc để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thống nhất. Đồng thời hạn chế đến mức tối đa việc ban hành các văn bản chi tiết dưới luật. Việc phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương từ các cơ quan trung ương là cần thiết, song nội dung phân công, phân cấp đó phải thực sự cần thiết, trong trường hợp các Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành đã quy định cụ thể thì không nên giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương quy định cụ thể ở cấp mình. Chỉ giao quyền quy định chi tiết về những nội dung chưa xác định rõ trong Thông tư. Mặt khác, cần tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để thống nhất nhận thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ những người làm công tác văn bản, nhất là những người trực tiếp soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.1.3. Về lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Như đã nêu trong Chương I bản Luận văn về cơ sở lý luận, một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương là phải đảm bảo sự tham gia góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. giai đoạn này, điểm tích cực là phần lớn các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh được giao chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật đã thực hiện nghiêm túc việc tổ chức lấy ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hình thức tổ chức lấy ý kiến phổ biến nhất được các cơ quan áp dụng là lấy ý kiến bằng văn bản. Ở một số cơ quan, cùng với việc lấy ý kiến bằng văn bản đã tổ chức hội nghị, hội thảo để lấy ý kiến đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư…). Bên cạnh đó, việc lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản cũng được một số ít cơ quan thực hiện có hiệu quả từ giai đoạn khảo sát, lập kế hoạch xây dựng với nhiều hình thức lấy ý kiến phù hợp với từng loại văn bản nhằm bảo đảm pháp luật thể hiện được nguyện vọng và ý chí của người dân và đáp ứng đòi hỏi dân chủ hoá và công khai hoá hoạt động xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đơn cử như Ủy ban nhân dân thành phố Bắc Giang khi soạn thảo dự thảo Quy định về quản lý trật tự đô thị trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã đăng tải dự thảo Quy định trên Báo Bắc Giang trong 03 số liên tiếp; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang khi giúp Ủy ban nhân dân tỉnh soạn thảo Quy định phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, Quy hoạch phòng chống lụt bão đã lấy ý kiên của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia ở Viện Khoa học Thuỷ lợi…
Bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, hoạt động lấy ý kiến đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều vấn đề cần phải được khắc phục, còn mang tính hình thức và trong nhiều trường hợp không hiệu quả như:
Một là, đối tượng được cơ quan chủ trì soạn thảo thường xuyên lấy ý kiến tham gia nhất là các cơ quan nhà nước, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố trên địa bàn. Việc lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, chuyên gia, nhà khoa học thường ít được thực hiện. Việc lấy kiến Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hầu như không được thực hiện. Theo Báo cáo của Sở Tư pháp cho thấy, đối tượng được lấy ý kiến thường xuyên nhất là các cơ quan nhà nước (272/272 (100%) Văn bản quy phạm pháp luật) và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố (180/272 (66%) Văn bản quy phạm pháp luật). Từ năm 2008 đến hết năm 2014 có khoảng gần 130/272 (47%) Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành mà Sở Tư pháp xét thấy cơ quan chủ trì soạn thảo trong quá trình tham mưu soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Văn bản quy phạm pháp luật; 95/272 (34,9%) Văn bản quy phạm pháp luật cần lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học. Song trên thực tế, trong quá trình khảo sát, lập kế hoạch, soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉ tổ chức lấy ý đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Văn bản quy phạm pháp luật được khoảng 20/130 (chiếm tỷ lệ 15,7%) Văn bản quy phạm pháp luật; lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học được khoảng 15/95 (chiếm tỷ lệ 10%) Văn bản quy phạm pháp luật [41].
Chính hạn chế, yếu kém này cho thấy việc tổ chức lấy ý kiến đối với nhiều dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh mới chỉ nhằm đạt được mục đích làm thế nào để quản lý cho tốt chứ chưa xuất phát từ lợi ích của người dân hay đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Văn bản quy phạm pháp luật; chưa có đủ cơ sở khoa học và chưa có cách tiếp cận, đánh giá chuyên sâu về lĩnh vực Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Điều này cũng thể hiện mức độ công khai, minh bạch của dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh còn kém.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế nêu trên là do nguồn kinh phí chi cho công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật nói chung, việc tổ chức lấy ý kiến nói riêng chưa được Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí theo đúng quy định và nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc lấy ý kiến các đối tượng là Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, các chuyên gia, nhà khoa học của cơ quan chủ trì soạn thảo chưa đầy đủ. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, giải pháp thiết yếu được đặt ra là bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, trong đó có kinh phí hỗ trợ cho việc tổ chức lấy ý kiến các đối tượng với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời phải tuyên truyền, tập huấn nâng cao nhận thức của cơ quan chủ trì soạn thảo về vai trò, tầm trọng của việc lấy ý kiến sâu rộng đến các đối tượng để bảo đảm cho dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật thực sự có chất lượng.
Hai là, Các cơ quan chủ trì soạn thảo chủ yếu lấy ý kiến đóng góp đối với toàn văn dự thảo, việc lấy ý kiến cho một số nội dung chính hoặc theo vấn đề được xác định được thực hiện rất ít. Theo tổng hợp của Sở Tư pháp cho thấy có khoảng gần 50/272 (chiếm tỷ lệ 18,3%) dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có xác định nội dung trọng tâm cần xin ý kiến; còn 222/272 (chiếm tỷ lệ 81,6%) dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đều xin ý kiến toàn văn dự thảo [41]. Thực tế cho thấy việc lấy ý kiến toàn văn dự thảo phần nào chỉ phù hợp với đối tượng là cơ quan nhà nước, còn đối với các đối tượng khác thì việc lấy ý kiến đối với các nội dung chính được xác định sẽ thiết thực hơn, chất lượng và hiệu quả của việc lấy ý kiến sẽ cao hơn.
Nguyên nhân của bất cập nêu trên là do chưa có quy định bắt buộc cơ quan chủ trì soạn thảo phải xác định những vấn đề trọng tâm cần xin ý kiến trong tất cả các hình thức lấy ý kiến. Mặt khác, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa thấy được mục đích, ý nghĩa của việc xác định các vấn đề trọng tâm cần xin ý kiến, do đó đã không thực hiện công việc này.
Vấn đề đặt ra để khắc phục bất cập này là phải có quy định bắt buộc các cơ quan chủ trì soạn thảo khi lấy ý kiến, cùng với việc lấy ý kiến toàn văn dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, phải xác định được các vấn đề trọng tâm cần xin ý kiến. Đồng thời chú trọng công tác tập huấn nâng cao nhận thức không chỉ đối với cơ quan chủ trì soạn thảo mà đối với cả những đối tượng được lấy ý kiến bởi có như vậy thì việc tham gia ý kiến mới có chất lượng tốt.
Ba là, Theo quy định của pháp luật hiện hành, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì việc soạn thảo quyết định hình thức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Hình thức này có thể là bằng công văn, tổ chức hội nghị, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, Trang thông tin điện tử. Song trên thực tế, hầu hết các dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đều được cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến bằng hình thức gửi Công văn, hình thức tổ chức Hội nghị lấy ý kiến, Tọa đàm, Hội thảo ít được lựa chọn và hình thức lấy ý kiến trên các phương tiện thông tin đại chúng, đăng tải trên Trang thông tin điện tử của sở, ngành càng ít được thực hiện. Thực tế cho thấy, có khoảng 95/272 (chiếm tỷ lệ 34,9%) Văn bản quy phạm pháp luật được cơ quan chủ trì tổ chức Hội nghị, Hội thảo lấy kiến; 05/272 (chiếm tỷ lệ 1,8%) Văn bản quy phạm pháp luật được đăng tải trên Báo Bắc Giang lấy kiến [41]. Chính thực trạng này đã làm cho tính công khai, minh bạch của dự thảo VBQPPL không được bảo đảm và quyền của người dân, đối tượng tác động trực tiếp của dự thảo không được thực hiện. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ quy định của Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND đã không quy định hình thức bắt buộc phải được áp dụng để lấy ý kiến và thực hiện đồng thời với một hoặc một số hình thức lấy ý kiến khác, không quy định rõ trường hợp nào phải áp dụng hình thức lấy ý kiến nào. Cùng với đó là vấn đề nguồn kinh phí để thực hiện việc lấy ý kiến thông qua các hình thức tổ chức Hội nghị, Tọa đàm, Hội thảo, đăng tải trên Báo còn chưa được bố trí nên không có kinh phí để thực hiện.
Giải pháp đặt ra là cần sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức lấy ý kiến tại Quyết định số 69/2007/QĐ-UBND và Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang cần bố trí kinh phí cho công tác này.
Bốn là, về chất lượng ý kiến góp ý, qua nghiên cứu các Bản tổng hợp ý kiến tham gia do cơ quan chủ trì soạn thảo tổng hợp – một trong những thành phần hồ sơ thẩm định và bản sao văn bản tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thấy phần lớn các ý kiến tham gia mang tính hình thức, thường là nhất trí với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, có rất ít các ý kiến tham gia chuyên sâu, có chất lượng, đúng vấn đề.
Tìm hiểu vấn đề này, tác giả được biết, nguyên nhân chủ yếu là do dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật gửi lấy ý kiến ít liên quan; nội dung dự thảo có phạm vi rộng, không có thuyết minh mà nếu có thì sơ sài, tờ trình không rõ nội dung nên khó góp ý; do không có đủ thời gian góp ý; do hạn chế về ý thức và năng lực, do thiếu cơ chế phản hồi của cơ quan chủ trì soạn thảo… Thực trạng này đã có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
Đơn cử như: Bản tổng hợp ý kiến tham gia đối với dự thảo Quyết định ban hành Quy định phân công, phân cấp, ủy quyền thực hiện quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin cho thấy Sở Thông tin và Truyền thông lấy ý kiến tham gia của 21 cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân 10 huyện, thành phố thì có đến 26/31 ý kiến nhất trí với dự thảo….
Nguyên nhân của bất cập này là chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các đối tượng được lấy ý kiến; quy định về thời gian để các đối tượng tham gia ý kiến chưa hợp lý. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các chủ thể được lấy ý kiến chưa thực sự được phát huy. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Giải pháp đặt ra là bổ sung quy định về trách nhiệm tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến. Đồng thời, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh phải thực hiện thường xuyên công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công chức thuộc ngành.
Năm là, về cách thức và trách nhiệm giải trình tiếp thu ý kiến góp ý vào dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chủ trì soạn thảo, theo quy định của pháp luật hiện hành, khi nhận được văn bản, ý kiến góp ý, cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến có cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn cũng như có trách nhiệm giải trình những ý kiến không được tiếp thu. Trên thực tế, tất cả các cơ quan chủ trì soạn thảo đã thực hiện việc này song chỉ là với Sở Tư pháp – cơ quan thẩm định, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh – cơ quan thẩm tra và Ủy ban nhân dân tỉnh – cơ quan ban hành thông qua cách thức thể hiện trong Bản tổng hợp các ý kiến tham gia có trong thành phần hồ sơ, trong một số trường hợp việc giải trình còn mang tính hình thức, thể hiện không đầy đủ các ý kiến tham gia. Ví dụ: Bản tổng hợp ý kiến tham gia dự thảo Quyết định ban hành Quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy biên chế, cán bộ, công chức thể hiện lý do không tiếp thu các ý kiến tham gia đều là “ý kiến tham gia không hợp lý”… Cùng với đó, các cơ quan chủ trì soạn thảo đều không thực hiện được việc giải trình với cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tham gia góp ý cũng như không đăng tải công khai trên Trang thông tin điện tử của sở, ngành hay bất kỳ hình thức nào khác. Chính hạn chế này đã làm giảm bớt sự nhiệt tình tham gia của đối tượng góp ý; hạn chế bớt cơ hội xem xét của cơ quan thẩm định và thẩm tra từ các góc độ khác nhau; không đảm bảo tính khả thi của dự thảo.
Nguyên nhân của bất cập này là do chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm, nội dung, cách thức giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo đối với các ý kiến tham gia vào dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác do trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc phản hồi ý kiến tham gia vào dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật chưa được nhận thức đúng.
Giải pháp đặt ra là phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo. Đồng thời nâng trách nhiệm giải trình của chính cơ quan lấy ý kiến và cần có kinh phí hỗ trợ đủ để thực hiện các nhiệm vụ này.
2.3.1.4. Về thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật
Với vai trò là “người gác cổng về mặt pháp lý” cho Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang đã thực hiện tốt vai trò của mình. Từ năm 2008 đến nay, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang đã tổ chức thẩm định 272/272 Văn bản quy phạm pháp luật (chiếm tỷ lệ 100%) do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành [40]. Thông qua số liệu này cho thấy, việc tuân thủ quy định về thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo và Sở Tư pháp thực hiện tốt. Chính những kết quả này đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành.
Song, thực tiễn cho thấy quá trình thực hiện các quy định về thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật còn có nhiều khó khăn, bất cập, điển hình là: Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Một là, về quy trình thẩm định: Các hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật được gửi đến Sở Tư pháp đề nghị thẩm định được Lãnh đạo Sở Tư pháp phân công về Phòng Xây dựng và Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật; sau đó, tùy thuộc vào tính chất, lĩnh vực mà dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật quy định, Trưởng phòng sẽ phân công cho một công chức hoặc một nhóm công chức (1-3 người) của phòng thực hiện việc thẩm định. Việc xác định nội dung thẩm định, cách thức nghiên cứu, quyết định những vấn đề nào có thể đưa vào báo cáo thẩm định chủ yếu phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của từng chuyên viên được phân công thực hiện thẩm định. Các vấn đề liên quan đến tổ chức thẩm định như: phân công chuyên viên thẩm định, thảo luận các vấn đề liên quan đến dự thảo, thậm chí cả hình thức văn bản thẩm định là công văn hay báo cáo… đều do Phòng chuyên môn tự mày mò, nghiên cứu và tìm ra cách thức, phương pháp hợp lý mà không hề có một quy trình thẩm định được coi là chuẩn chung để áp dụng. Chính điều này đã làm cho việc thẩm định trong một số trường hợp cụ thể còn gặp nhiều lúng túng, có những vấn đề khó cần quan tâm, thảo luận sâu về chuyên môn chưa được chú trọng nên chất lượng thẩm định đôi khi còn chưa đảm bảo yêu cầu.
Hai là, việc xác định và đánh giá các nội dung thuộc phạm vi thẩm định phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ và kinh nghiệm của công chức thẩm định mà không có tiêu chí để đánh giá những nội dung nêu trên đã tạo ra những khó khăn rất lớn cho việc thẩm định các nội dung này và vì vậy mà ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp.
Ba là, về hồ sơ thẩm định: Xuất phát từ thực tiễn công tác thẩm định trong thời gian qua cho thấy, có một số cơ quan soạn thảo chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thành phần hồ sơ gửi Sở Tư pháp đề nghị thẩm định, đặc biệt là ở giai đoạn trước năm 2013. Điều này thể hiện ở chỗ, một số cơ quan chỉ gửi Công văn đề nghị thẩm định và dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật kèm theo mà không có thêm bất cứ thành phần hồ sơ nào khác theo quy định như dự thảo Tờ trình, bản tổng hợp ý kiến tham gia đối với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật. Điểm đặc biệt là trong tất cả hồ sơ gửi Sở Tư pháp đề nghị thẩm định của tất cả các cơ quan soạn thảo từ trước tới nay chưa bao giờ có thành phần hồ sơ là các chủ trương, chính sách của Đảng. Đây là một thực tế mà Sở Tư pháp đã yêu cầu các cơ quan soạn thảo bổ sung song cơ quan soạn thảo đã không bổ sung được. Chính điều này cũng cho thấy, ngay từ giai đoạn soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng cũng không được quan tâm nghiên cứu. Quy định về thành phần hồ sơ cũng không thực hiện theo đúng thời gian, thành phần. Qua tổng hợp của Sở Tư pháp cho thấy trong năm 2010 có 11/33 hồ sơ thiếu thành phần; năm 2011 có 13/43 hồ sơ thiếu thành phần; năm 2012 có 15/38 hồ sơ thiếu thành phần; năm 2013 có 13/42 hồ sơ thiếu thành phần; năm 2014 có 10/39 hồ sơ thiếu thành phần [40]. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Bốn là, về chất lượng thẩm định: Một số báo cáo thẩm định chất lượng chưa cao; nội dung chưa sâu; các vấn đề đề cập trong báo cáo thẩm định nhiều khi chưa rõ dẫn đến cơ quan soạn thảo khó nhận thức được để tiếp thu chỉnh lý dự thảo. Một số dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp chưa được đầu tư nghiên cứu kỹ lưỡng hoặc chuyên viên được giao thẩm định còn non kém về trình độ, ít kinh nghiệm dẫn đến để lọt những quy định, làm ảnh hưởng đến chất lượng ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Ví dụ: Quyết định số 455/2012/QĐ-UBND ngày 25/12/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định dạy thêm, học thêm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong đó điểm a khoản 2 Điều 11 quy định: “Tiền học thêm dùng để chi theo các nội dung: … 10% chi cơ sở vật chất (tiền điện, nước và hao mòn tài sản); 10% chuyển vào quỹ phúc lợi của đơn vị để chi chung (hỗ trợ, tài trợ, khuyến học, khuyến tài..)…” có dấu hiệu trái pháp luật vì điểm a khoản 1 Điều 7 Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của Bộ GD&ĐT ban hành quy định về dạy thêm, học thêm không quy định nội dung chi này…
Năm là, về việc tiếp thu, phản hồi ý kiến thẩm định: một số cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến thẩm định chưa tốt, chưa đầy đủ hoặc không tiếp thu ý kiến thẩm định và cũng không có giải trình gửi Sở Tư pháp. Điều đó dẫn đến Văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng phải làm đi làm lại, mất nhiều thời gian mới được thông qua hoặc có thông qua nhưng không đảm bảo chất lượng.
Theo tổng hợp của Sở Tư pháp cho thấy: năm 2008 có 8/39; năm 2009 có 7/38; năm 2010 có 8/33; năm 2011 có 9/43; năm 2012 có 7/38; năm 2013 có 8/42 và năm 2014 có 6/39 báo cáo thẩm định có một số nội dung thẩm định không được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu mà không có giải trình lý do [40].
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên là quy định của pháp luật hiện hành về công tác thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ như chưa có quy định cụ thể về tiêu chí đánh giá các nội dung thuộc phạm vi thẩm định; quy định về thời gian thẩm định chưa hợp lý. Mặt khác, do cơ quan chủ trì soạn thảo chưa nhận thức đúng về công tác thẩm định; đội ngũ công chức chuyên trách thực hiện công tác thẩm định thuộc Phòng Xây dựng và Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ.
Giải pháp đặt ra là cần có quy định cụ thể, hợp lý về trình tự thực hiện thẩm định; thời gian thẩm định; tiêu chí để đánh giá các nội dung thuộc phạm vi thẩm định; biện pháp áp dụng khi hồ sơ gửi đề nghị thẩm định dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chủ trì soạn thảo gửi Sở Tư pháp không có đủ thành phần hồ sơ. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chủ trì soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong việc thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ công chức thực hiện công tác thẩm định. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
2.3.1.5. Về trình hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật đến Ủy ban nhân dân tỉnh
Quy định của pháp luật hiện hành về trình tự thông qua dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh tại phiên họp đã tương đối rõ ràng, cụ thể, song, thực tế cho thấy, việc thảo luận tại phiên họp của các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh về dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong nhiều trường hợp còn mang tính hình thức do các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh được tiếp cận với dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian ngắn (03 ngày) nên không có nhiều điều kiện để nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung dự thảo. Việc biểu quyết thông qua dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong một số trường hợp không được thực hiện tốt, chủ yếu là do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì phiên họp quyết định thông qua hay không thông qua. Trong một số trường hợp, do khối lượng nội dung trình tại phiên họp nhiều, thời gian họp không dài nên dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật mặc dù được đưa vào chương trình phiên họp nhưng lại không được đưa ra thảo luận công khai tại phiên họp mà được lấy ý kiến bằng văn bản.
Ví dụ: Tại Chương trình Hội nghị thường kỳ Ủy ban nhân dân tỉnh tháng 11/2013 xác định hình thức lấy ý kiến bằng văn bản đối với Quyết định điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 130/2011/QĐ-UBND ngày 09/4/2011 ban hành Quy chế tổ chức, hoạt động và quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất; Chương trình Hội nghị thường kỳ Ủy ban nhân dân tỉnh tháng 5/2014 xác định hình thức lấy ý kiến bằng văn bản đối với Quyết định sửa đổi bổ sung Quyết định số 447/2013/QĐ-UBND về kiểm soát thủ tục hành chính…
Cùng với nguyên nhân từ điểm bất cập trong quy định của pháp luật là do khối lượng công việc được Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh đưa ra thảo luận tại phiên họp tương đối lớn mà thời gian tổ chức họp lại ngắn (thường là 01 – 02 ngày).
Giải pháp là cần điều chỉnh quy định về thời gian gửi hồ sơ dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật tới các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh theo hướng tăng thêm thời gian, đồng thời có cơ chế bảo đảm các điều kiện khác để các thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh có nhiều điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng dự thỏa Văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí thời gian phải tương xứng với nội dung họp Ủy ban nhân dân tỉnh tại phiên họp thường kỳ hàng tháng đồng thời nâng cao chất lượng phiên họp. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
2.3.1.6. Về soát xét, hoàn thiện dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật sau phiên họp Ủy ban nhân dân tỉnh
Thực tế cho thấy, hạn chế lớn nhất trong giai đoạn này là thời gian thực hiện soát xét, hoàn thiện một số dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật do Sở Tư pháp thực hiện quá thời hạn 03 ngày làm việc đã được quy định.
Đơn cử như: Báo cáo số 163/BC-STP ngày 31/7/2014 về kết quả hoàn thiện dự thảo Quyết định ban hành Quy chế quản lý viện trợ và hoạt động của tổ chức phi Chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh trong khi hồ sơ do Sở Ngoại vụ gửi soát xét từ 25/7/2014, quá 02 ngày so với quy định…
Nguyên nhân là do khối lượng công việc lớn, tính chất công việc phức tạp, nhất là với những dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật do nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực hay lĩnh vực phức tạp trong khi biên chế của Phòng chuyên môn của Sở lại ít thì việc thực hiện nhiệm vụ này trong thời hạn quy định là tương đối khó khăn, vất vả.
Giải pháp đặt ra là cần sửa đổi quy định về thời gian soát xét, hoàn thiện trong Quyết định số 383/2013/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh.
2.3.2. Thực trạng hoạt động ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành 272 Quyết định là Văn bản quy phạm pháp luật [27] cụ thể:
- Năm 2008: 39 Quyết định;
- Năm 2009: 38 Quyết định;
- Năm 2010: 33 Quyết định;
- Năm 2011: 43 Quyết định;
- Năm 2012: 38 Quyết định;
- Năm 2013: 42 Quyết định;
- Năm 2014: 39 Quyết định.
Từ kết quả hoạt động ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang cho thấy, hầu hết các lĩnh vực đều được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành Văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh kịp thời, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương trên tất cả các lĩnh vực, nhất là đối với 05 Chương trình phát triển kinh tế – xã hội trọng tâm của tỉnh Bắc Giang như Chương trình đẩy mạnh phát triển thu hút đầu tư, công nghiệp, dịch vụ; Chương trình phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng xây dựng… Trong giai đoạn 2011 – 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành 31 Văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện 05 Chương trình phát triển kinh tế – xã hội trọng tâm của tỉnh [43].
Song, thực tế cho thấy, còn có lĩnh vực, trong đó có cả một số lĩnh vực được xác định là những nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trọng tâm của tỉnh trong từng giai đoạn, nhất là ở giai đoạn 2011 – 2015 đã được Tỉnh ủy xác định trong Nghị quyết số 43-NQ/TU chưa được Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh như lĩnh vực du lịch, lĩnh vực đào tạo dạy nghề [43]. Ở hai lĩnh vực này, cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về chuyên ngành chưa tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Văn bản quy phạm pháp luật đẻ tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề; ưu đãi trong việc mời gọi, thu hút đầu tư phát triển du lịch; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, doanh nhân để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch như nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu đã đề ra trong Nghị quyết 43-NQ/TU. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Bên cạnh đó, kết quả công tác giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang và kết quả công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành trong những năm gần đây cho thấy vẫn còn những văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành có vi phạm thẩm quyền hình thức. Trong 03 năm (từ năm 2008 đến năm 2011), Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có 12 Quyết định là Văn bản quy phạm pháp luật có sai phạm và 15 văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật [26]. Năm 2012: 01 Quyết định là văn bản quy phạm pháp luật có sai phạm và 05 văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật [36]; Năm 2013: 01 Quyết định là văn bản quy phạm pháp luật có sai phạm và 01 văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật [38]; Năm 2014: 05 Quyết định là văn bản quy phạm pháp luật có sai phạm [39]. Lỗi sai phạm chủ yếu của các Văn bản quy phạm pháp luật là vi phạm quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản; về căn cứ pháp lý; về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản; một số ít Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái quy định của văn bản pháp luật là căn cứ pháp lý ban hành…
Đơn cử về tình trạng ban hành văn bản hành chính cá biệt có chứa quy phạm pháp luật là:
Quyết định số 231/QĐ-UBND ngày 19/02/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định cơ chế đầu tư Khu trung tâm văn hóa dịch vụ thành phố Bắc giang, Quyết định này quy định đối tượng điều chỉnh rất rộng là các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước; nội dung quy định các cơ chế khuyến khích đầu tư về đất đai, tài chính; Hay với Quyết định số 529/QĐ-UBND ngày 12/04/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc Quy định mức bồi dưỡng cho người được huy động để ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái phép và phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang [26]. Quyết định 529 có đối tượng áp dụng rộng là tất cả những người được huy động để ngăn chặn tình trạng phá rừng trái phép, phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn toàn tỉnh. Quyết định này quy định chế độ, chính sách đối với những người được huy động để ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái phép và phòng cháy, chữa cháy rừng tại hiện trường (bao gồm cả Công an, Quân đội, Kiểm lâm, trừ chủ rừng) được bồi dưỡng với mức bình quân 10.000, đồng/người/01 giờ trực tiếp tham gia; nhưng mức chi tối đa không quá 80.000 đồng/người/ngày. Ngoài ra khi người được huy động ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái phép, phòng cháy, chữa cháy rừng nếu bị tai nạn còn được được thanh toán tiền khám, chữa bệnh theo chế độ hiện hành. Đối với người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, ngoài số tiền hỗ trợ khám chữa bệnh, còn được hỗ trợ 20.000 đồng/ngày/người trong thời gian điều trị tại bệnh viện. Trường hợp, người đó không may bị chết trong khi tham gia ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái phép, phòng cháy, chữa cháy rừng được Nhà nước hỗ trợ tiền mai táng phí theo quy định hiện hành… Tất cả nội dung điều chỉnh trong các Quyết định nêu trên phải được quy định trong Văn bản quy phạm pháp luật chứ không phải là Quyết định cá biệt như đã ban hành. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, công tác ban hành văn bản nói chung và ban hành Văn bản quy phạm pháp luật nói riêng của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang còn chưa đảm bảo chất lượng, chưa tuân thủ triệt để tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật và còn tình trạng ban hành văn bản trái thẩm quyền hình thức. Thực trạng này, một mặt đã làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh ở địa phương, mặt khác thể hiện nhận thức về công tác văn bản nói chung, Văn bản quy phạm pháp luật nói riêng của đội ngũ cán bộ còn hạn chế đã dấn đến việc tham mưu ban hành văn bản có sai phạm.
Nguyên nhân dẫn đến hạn chế này là do cơ quan chuyên môn xác định sai hình thức văn bản tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành để điều chỉnh lĩnh vực cần quản lý. Như đã nêu trong Chương I, việc xác định đúng văn bản nào là Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có ý nghĩa rất lớn trong việc tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện các quy trình trong hoạt động xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định của Luật năm 2004 và Nghị định 91/2006/NĐ-CP khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật đã tương đối rõ, Nghị định 91/2006/NĐ-CP còn quy định chi tiết mang tính chất loại trừ những văn bản không phải là Văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên trong thực tiễn, nội hàm khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật, nhất là tiêu chí “quy tắc xử sự chung” vẫn chưa có cách hiểu thống nhất không chỉ từ phía những người trực tiếp làm công tác soạn thảo văn bản mà từ phía lãnh đạo cấp sở. Hiện nay, trong nhận thức của nhiều cán bộ, công chức nói chung và những cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác văn bản nói riêng chưa phân biệt được pháp luật với chủ trương, chính sách và chưa hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng; Về nguyên tắc, chủ trương, chính sách rất quan trọng nhưng:
Chính sách có thể được hiểu như là một mục tiêu, một định hướng phát triển, Chính sách là đường lối, mục tiêu phát triển của quốc gia, của địa phương, Chính sách là định hướng, giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng đã hoặc mới phát sinh từ đời sống thực tiễn, Để chính sách có thể thực thi, áp dụng đối với toàn thể xã hội thì pháp luật là công cụ không thể thiếu, được sự bảo đảm của quyền lực nhà nước, đủ khả năng đảm bảo tính thực thi của chính sách trong đời sống xã hội [24]. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Giải pháp đặt ra là cần tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng để nhận biết văn bản nào là Văn bản quy phạm pháp luật không chỉ cho đội ngũ những người làm công tác văn bản mà cho cả lãnh đạo các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh.
2.3.3. Các yếu tố bảo đảm cho hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh
2.3.3.1. Về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực tham gia công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật từ khâu tham mưu xây dựng chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật, soạn thảo văn bản, thẩm định, thẩm tra Văn bản quy phạm pháp luật. Như đã phân tích ở phần cơ sở lý luận tại Chương 1 bản Luận văn này, nguồn nhân lực được xác định là một trong những yếu tố quan trọng có tác động lớn đến chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Chất lượng Văn bản quy phạm pháp luật có được tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ này bởi họ là những người được tham gia trong suốt quá trình soạn thảo, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã đặc biệt quan tâm đến đội ngũ này. Ở Sở Tư pháp có Phòng Xây dựng và Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật; ở các sở, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh đã thành lập Phòng Pháp chế tại sở theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy pháp chế gồm Sở Giao thông Vận tải, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn; với các sở, ngành không thành lập Phòng Pháp chế, bố trí 01 công chức làm đầu mối kiểm soát thủ tục hành chính; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã thành lập đội ngũ Cộng tác viên kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh với 42 người là công chức tại các sở, ngành. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn bản nêu trên đã được củng cố, kiện toàn có chiều hướng tăng lên về số lượng. Nếu như suốt những năm 2008, 2009, 2010 số lượng này chỉ là 27 người thì đến năm 2012 tăng lên 33 người, năm 2013 và 2014 là 42 người; công chức pháp chế có trình độ đại học, nhiều công chức trong số đó có trình độ cử nhân Luật, có thâm niên công tác; đội ngũ cán bộ pháp chế bước đầu được đạo tạo kỹ năng, nghiệp vụ về công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nếu như những năm 2008, 2009, 2010, 2011 số công chức có trình độ cử nhân luật lần lượt là 16/27, 17/27 người thì đến năm 2012, 2013, 2014 con số này lần lượt là 24/33, 33/42 người [27]. Đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đến nay có 42 người [58]. là công chức đang công tác tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. Riêng ở Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Phòng Xây dựng và theo dõi thi hành pháp luật, nay là Phòng Xây dựng và Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật với 04 biên chế, trong đó có 01 Trưởng phòng, 02 Phó trưởng phòng và 01 chuyên viên đều có trình độ Đại học Luật, Thạc sĩ Luật và có nhiều kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực xây dựng, kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật. Có thể nói đội ngũ công chức làm công tác xây dựng văn bản ở các sở, ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, nhất là Sở Tư đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Song thực tế cho thấy trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác văn bản không đồng đều. Đối với các phòng chuyên môn thuộc các sở, ngành được giao soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật hầu hết là có trình độ đại học theo chuyên ngành mà không có trình độ đại học Luật, người có trình độ thạc sĩ quá ít. Năm 2008, toàn tỉnh có 27 cán bộ, trong đó có 14 năm, 13 nữ, 27/27 người giữ ngạch chuyên viên, có 16/27 người có trình độ cử nhân Luật, có 11/27 người có trình độ chuyên ngành khác; Trong 03 năm liền từ năm 2009, 2010 và 2011, các số liệu này lần lượt là: 28 cán bộ, 28/28 giữ ngạch chuyên viên, 15/28 là nam, 13/28 là nữ, 17/28 có trình độ cử nhân luật, 11/28 có trình độ chuyên ngành khác; Năm 2012 có 33 người, 18/33 là nam, 15/33 là nữ, 33/33 người giữ ngạch chuyên viên, 24/33 người có trình độ cử nhân Luật, 09/33 người có trình độ chuyên ngành khác; Năm 2013 và năm 2014 có 42 người, 25/42 người là nam, 17/42 người là nữ, 33/42 người có trình độ cử nhân luật, 09/42 người có trình độ chuyên ngành khác [27]. Mặt khác, vai trò Phòng pháp chế và công chức pháp chế chuyên trách ở các sở, ngành chưa được khẳng định từ chính bản thân những người làm công tác pháp chế và từ sự nhìn nhận, đánh giá của lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác văn bản tại Sở Tư pháp đã được củng cố vẫn còn thiếu về số lượng so với yêu cầu nhiệm vụ.
Vấn đề đặt ra để giải quyết thực trạng này, về khách quan, cần có những quy định của pháp luật về chế độ, chính sách cho những người làm công tác văn bản; về chủ quan, cần nâng cao số lượng đồng thời với nâng cao chất lượng đội ngũ những người làm công tác văn bản.
2.3.3.2. Về thông tin Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Thông tin là một trong những yếu tố tác động nhiều đến chất lượng, hiệu quả của Văn bản quy phạm pháp luật, song thực tế hoạt động xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang cho thấy tình trạng thiếu thông tin xảy ra ngay từ thời điểm cơ quan chuyên môn lập dự kiến chương trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật đến quá trình soạn thảo dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật và thẩm định, thẩm tra dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật Thông qua các đề nghị ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chuyên môn, hồ sơ gửi thẩm định, hồ sơ trình Ủy ban nhân dân tỉnh cho thấy hầu hết các Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh đều không có các thông tin như đã nêu ở phần cơ sở lý luận trong Chương I bản Luận văn này.
Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn tư liệu để lấy thông tin quá hạn hẹp. Mặt khác, cơ quan chủ trì soạn thảo cũng chưa thực sự thấy được tầm quan trọng của việc thu thập những thông tin này đối với việc xây dựng dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật.
Vấn đề đặt ra là phải xây dựng và cập nhật thường xuyên Cơ sở dữ liệu lịch sử về địa lý tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh và phải có giải pháp nâng cao nhận thức của các cơ quan trong việc thu thập, nghiên cứu các nguồn thông tin này khi thực hiện các công việc trong toàn bộ quy trình xây dựng, ban hành Văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.3.3. Về kinh phí
Bên cạnh việc củng cố, kiện toàn nguồn nhân lực, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật, trong đó đã tập trung bố trí kinh phí cho công tác tham gia ý kiến vào thủ tục hành chính trong dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật; thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa Văn bản quy phạm pháp luật, biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn, tuyên truyền, giới thiệu pháp luật về công tác này do Sở Tư pháp thực hiện với số kinh phí ngày càng tăng lên, nếu như năm 2008 số kinh phí được cấp là gần 300.000.000 đồng thì đến năm 2014 số kinh phí được cấp đã tăng lên gần 800.000.000 đồng. Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Song, từ kết quả thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp cho thấy, kinh phí bố trí cho các công việc nêu trên ở tỉnh Bắc Giang đã được thực hiện nhưng chưa thống nhất giữa các cơ quan, nhất là cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm định đã được quy định của Nghị quyết số 05/2009/NQ-HĐND, Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND, Thông tư liên tịch số 47/2012/TTLT-BTP-BTC ngày 16/3/2012 của liên Bộ Tài chính và Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước đảm bảo cho công tác xây dựng và hoàn thiện Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Hầu hết các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (trừ Sở Tư pháp) đều chưa được cấp nguồn kinh phí hỗ trợ này [41]. Một số ít cơ quan đã được bố trí nhưng từ nguồn kinh phí ngân sách cấp thường xuyên và cơ quan tự cân đối để chi theo quy định mà không phải từ nguồn kinh phí cấp riêng cho hoạt động xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật. Đơn cử như ở Sở Công thương, Sở Nội vụ…
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng nêu trên là nguồn ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp; do các cơ quan chủ trì soạn thảo chưa chủ động xây dựng dự trù kinh phí chi cho công tác soạn thảo Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan mình tham mưu ban hành, mặc dù, ngay từ khi triển khai việc đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đã yêu cầu phải xác định dự trù kinh phí, Sở Tư pháp đã hướng dẫn các cơ quan căn cứ các quy định của pháp luật để xây dựng dự trù kinh phí như thế nào cho đúng nhưng các cơ quan chủ trì soạn thảo vẫn không thực hiện. Lý do chủ yếu được các cơ quan đưa ra là số kinh phí đề nghị ít (vì có cơ quan chỉ đề nghị xây dựng 01 Văn bản quy phạm pháp luật, 02 Văn bản quy phạm pháp luật…). Luận văn: Thực trạng Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang.
Vấn đề đặt ra là cần có giải pháp bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cho công tác xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời tăng cường tính chủ động của các cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng dự trù kinh phí gửi Sở Tài chính tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí và trách nhiệm của Sở Tư pháp và Sở Tài chính với vai trò là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước và công tác xây dựng văn bản và tài chính ngân sách.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Giải pháp Văn bản quy phạm pháp luật tại Bắc Giang
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com