Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. THỰC TIỄN SOẠN THẢO, BAN HÀNH VÀ QUẢN LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Trong nhiều văn kiện chính trị – pháp lý của Đảng và Nhà nước ta, nhu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật trong những năm gần đây đã được nhấn mạnh đặc biệt. Trước hết, đó là việc chính quyền địa phương cần phát huy vai trò năng động, sáng tạo, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh sự phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới; phân cấp về thẩm quyền và trách nhiệm cho các Bộ và chính quyền địa phương nhằm phát huy tính chủ động trong công tác quản lý nhà nước ở từng lĩnh vực, từng địa bàn. Với nhu cầu quản lý và phân cấp quản lý như vậy tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu ban hành văn bản để quản lý ở địa phương. Thời gian gần đây, các cấp chính quyền địa phương đã ban hành một khối lượng văn bản tương đối lớn, góp phần thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định ở tại địa phương mình, làm cho hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Từ khi triển khai Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004, công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung, của chính quyền địa phương nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng văn bản được nâng lên một bước. Về cơ bản quy trình xây dựng, soạn thảo và ban hành được các địa phương tiến hành đúng theo quy định của Luật, đảm bảo việc gửi dự thảo văn bản tới Ban Pháp chế, cơ quan Tư pháp cùng cấp để thẩm tra, thẩm định, góp phần đảm bảo về mặt pháp lý cho văn bản trước khi ký ban hành, hạn chế được tình trạng văn bản được ban hành không qua cơ chế kiểm tra trước (hay còn gọi là tiền kiểm), gây ra những thiếu sót, vi phạm trong việc soạn thảo, ban hành văn bản.
Theo kết quả thống kê chung cho thấy, tùy theo đặc điểm của từng địa phương như loại hình đô thị, dân số, tình hình phát triển kinh tế, xã hội mà số lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhiều hay ít, nhưng trung bình hàng năm chính quyền địa phương các cấp ban hành số lượng văn bản là: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
- Cấp tỉnh ban hành khoảng 100 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có khoảng 20 văn bản của hội đồng nhân dân;
- Cấp huyện ban hành khoảng 40 – 60 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có khoảng 10 văn bản của hội đồng nhân dân;
- Cấp xã ban hành khoảng 10 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 04 văn bản của hội đồng nhân dân;
Trong số hai hình thức quyết định và chỉ thị do ủy ban nhân dân ban hành thì chủ yếu là quyết định, còn chỉ thị chiếm số lượng rất ít.
Theo kết quả thống kê của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, trong những năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã ban hành một số lượng văn bản quy phạm pháp luật như sau:
Thực trạng công tác soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản quy phạm pháp luật như trên do nhiều nguyên nhân, một số nguyên nhân cơ bản là: Một số lãnh đạo cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như là một trong những hoạt động chủ yếu của công tác quản lý nhà nước; Pháp luật của chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện, thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và rất phức tạp, nhiều tầng nấc. Bên cạnh đó, những điều kiện đảm bảo cho việc cập nhật kịp thời những văn bản mới thay đổi để triển khai vận dụng thống nhất ở địa phương còn chưa đạt yêu cầu. Trong một số luật, pháp lệnh, nghị quyết và văn bản hướng dẫn thi hành nhiều quy định còn thiếu chi tiết, cụ thể, mới dừng lại ở những nguyên tắc chung, chưa xác định rõ những nội dung cụ thể, việc ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai vận dụng để quản lý nhà nước. Công tác thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật mới được bắt đầu thực hiện từ ngày 01/4/2005 (ngày Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004 có hiệu lực thi hành). Các văn bản quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày cũng mới được ban hành trong năm 2005 (Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV- VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản). Do đó nhiều văn bản vẫn chưa đảm bảo được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản; Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nghiên cứu, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật các cấp chính quyền còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Một số địa phương khi soạn thảo, ban hành văn bản có biểu hiện cục bộ, đưa ra những quy định tạo thuận lợi cho địa phương, ngành, lĩnh vực do mình quản lý gây hậu quả vi phạm đến tính thống nhất và hiệu lực của văn bản; Việc xử lý vi phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa tốt; Bên cạnh đó, việc đầu tư kinh phí cho việc công tác văn bản chưa hợp lý, chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ các yêu cầu. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Do vậy, để đảm bảo yêu cầu chất lượng văn bản quy phạm pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cần phải có một cơ chế giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG BAN HÀNH
Trước đây văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương được phân định và giao cho nhiều cơ quan giám sát, kiểm tra, kiểm sát, như quyền giám sát, xử lý văn bản trái pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hội đồng nhân dân; quyền kiểm tra, xử lý của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh; quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương các cấp ban hành của Viện Kiểm sát nhân dân [20, Chương X]. Việc giao thẩm quyền cho nhiều cơ quan như trên đã tạo nên sự kiểm tra, giám sát đan chéo nhau giữa các cơ quan trong hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc ban hành và thực thi pháp luật. Nhưng lại chưa có quy định cụ thể về phương pháp, cách thức, nội dung kiểm tra, xử lý văn bản, do vậy công tác này còn dàn trải, chưa được thực hiện một cách thường xuyên, bài bản. Chủ yếu Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát chung đối với cả văn bản quy phạm pháp luật và hành vi, gắn kiểm sát văn bản với kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội.
Đến năm 2001, UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó: bãi bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung vào thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là bước chuyển giao hoàn toàn chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, xử lý đối với văn bản quy phạm pháp luật sang cho các cơ quan hành chính. Theo đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) cũng đã bãi bỏ Điều 85 quy định về chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật. Điều đó có nghĩa là gánh nặng của công tác kiểm tra văn bản đè lên vai các cơ quan hành chính. Để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, cần phải có một hệ thống thể chế quy định cho hoạt động này.
Ngày 14/11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ- CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Đây là thể chế cơ bản nhất của Chính phủ quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, ngành và địa phương ban hành. Có thể nói kể từ thời điểm này, công tác kiểm tra mới được quy định một cách cụ thể hơn, từ chủ thể có thẩm quyền đến các cách thức, trình tự và biện pháp xử lý đối với văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, có một hạn chế khó tránh khỏi, đó là tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Các cơ quan hành chính nói chung và chính quyền địa phương vừa là chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý, vừa là chủ thể thực hiện tự kiểm tra, xử lý văn bản do mình ban hành, hoặc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền đối với cơ quan cấp dưới, sẽ không tránh khỏi những hiện tượng thiếu khách quan trong việc ban hành và xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Trước đây Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan hành chính, có thể kiểm sát, xử lý một cách khách quan hơn. Do đó, đây cũng chính là yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan hành chính khi thực thi nhiệm vụ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
- Ở một số quốc gia trên thế giới, công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật thông thường được thực hiện theo cơ chế bảo hiến, tòa án hành chính. Tức là công dân có căn cứ cho rằng một văn bản nào đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền kiện cơ quan ban hành văn bản ra Tòa án Hành chính. Hay như ở Nga có Cục Kiểm tra và đăng ký văn bản, theo đó, bất kỳ một văn bản của bộ, ngành, địa phương muốn được lưu hành phải qua Cục này để xem xét và đăng ký số văn bản.
- Ở nước ta, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn là một vấn đề đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Về mặt tổ chức bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, chúng ta mới thành lập các tổ chức pháp chế ở các bộ, ngành và các cơ quan chuyên môn giúp việc cho chính quyền địa phương thực hiện chức năng kiểm tra văn bản. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp (được thành lập theo Quyết định số 336/2003/QĐ-BTP ngày 05/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) là cơ quan có nhiệm vụ quản lý thống nhất công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, ngành và địa phương ban hành.
Còn về cơ chế hoạt động kiểm tra và xử lý thì cũng mới được quy định cụ thể bằng Nghị định số 135/2003/NĐ-CP. Tuy nhiên do đây là một thể chế mới nên còn nhiều bất cập, như: Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 8) và Nghị định số 135/2003/NĐ-CP (Điều 4) thì khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật, nhưng tại Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP mới chỉ quy định thẩm quyền, thủ tục kiểm tra và xử lý đối với văn bản chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành khi có yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng và của cá nhân. Theo đó, có nghĩa là việc tự kiểm tra, xử lý đối với dạng văn bản trên chỉ được thực hiện khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng và của cá nhân hoặc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ người kiểm tra văn bản phát hiện ra. Còn đối với văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật chỉ được tiến hành xử lý khi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản phát hiện ra, hoặc là nếu cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng, cá nhân phát hiện thì cũng phải đề nghị, thông qua cơ quan này mới được xem xét, xử lý. Việc quy định như vậy gây cứng nhắc trong việc kiểm tra văn bản, không xử lý kịp thời những văn bản quy phạm pháp luật trái luật và không nâng cao được trách nhiệm của cơ quan, người ban hành văn bản trái luật.
Về quyền khiếu nại, khiếu kiện đối với văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định số 135/2003/NĐ-CP mới chỉ quy định về quyền khiếu nại, tố cáo đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản (ví dụ: tố cáo hành vi của cơ quan, người có văn bản được kiểm tra vì không tổ chức tự kiểm tra, xử lý khi có yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cơ quan thông tin đại chúng và cá nhân), còn cơ chế khiếu nại đến cơ quan hành chính có thẩm quyền hay khiếu kiện ra Tòa án đối với cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc đã ban hành văn bản trái luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, thì chưa được quy định bằng một văn bản pháp luật nào. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Theo nguyên tắc thì công dân khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ. Trong thực tế đã có một số văn bản quy phạm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng không được xử lý kịp thời vì chưa có cơ chế điều chỉnh bằng con đường tòa án, còn các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý thì vẫn còn tâm lý e ngại, sợ đụng chạm trong việc kiểm tra phát hiện và xử lý (Ví dụ: Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/11/2003 của Bộ Công an về việc hướng dẫn tổ chức cấp đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đã quy định mỗi người chỉ được đăng ký 01 xe môtô, quy định này đã hạn chế quyền sở hữu của công dân đã được Hiến pháp và Bộ luật Dân sự quy định. Khi mới được ban hành đã gặp sự phản đối của người dân, nhưng mãi đến 15/12/2005 mới được chấm dứt).
Như vậy, công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật mới được triển khai thực hiện từ cuối năm 2003 đến nay. Để triển khai hoạt động này, thời gian qua, Nhà nước ta đã xây dựng thể chế (đó là các căn cứ pháp lý) về các yếu tố cần cho hoạt động kiểm tra và xử lý, đó là: Tổ chức bộ máy, các quy định về nghiệp vụ kiểm tra, xử lý văn bản, các điều kiện, phương tiện đảm bảo công tác kiểm tra.
2.2.1. Quy định pháp luật về tổ chức bộ máy của các cơ quan kiểm tra văn bản Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Cho đến nay, khung pháp lý về tổ chức bộ máy của các cơ quan kiểm tra văn bản có Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp Nhà nước; Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT/BTP-BNV ngày 24/01/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 122/2004/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/TP-NV ngày 05/5/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. Đây là các văn bản pháp lý về mặt tổ chức, đã giúp cho tổ chức pháp chế các bộ, ngành và các cơ quan tư pháp địa phương phát huy tốt hơn vai trò tham mưu, giúp lãnh đạo bộ, ngành, địa phương triển khai có hiệu quả công tác theo thẩm quyền.
Theo các quy định hiện hành thì cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được tổ chức từ cấp trung ương đến cơ sở như sau:
Ở cấp trung ương: Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý thống nhất về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong đó Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật đối với “văn bản do Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước” [11, Điều 12, 15].
Tổ chức pháp chế các bộ, ngành được thành lập ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo quy định. Trong đó kiểm tra các văn bản có quy định liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ do hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành [11, Điều 12]. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Ở cấp địa phương: Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ủy ban nhân dân cấp huyện) có chức năng tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật như:
- Giúp ủy ban nhân dân cùng cấp tự kiểm tra văn bản do ủy ban nhân dân cấp mình ban hành;
- Thực hiện kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cấp dưới; hướng dẫn ủy ban nhân dân cấp dưới kiểm tra, tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện việc gửi văn bản quy phạm pháp luật đến các cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra theo quy định;
- Trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp mình quyết định các biện pháp xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định của pháp luật.
Ban Pháp chế của hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện giúp hội đồng nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản do hội đồng nhân dân ban hành.
Ban Tư pháp cấp xã giúp hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp xã tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp xã ban hành.
2.2.2. Quy định pháp luật về nghiệp vụ kiểm tra và xử lý văn bản Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002); Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12/11/1996 và Luật số 02/2002/QH11 ngày 16/12/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đây là căn cứ pháp lý cơ bản nhất quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, ngành và địa phương ban hành. Nghị định số 135/2003/NĐ-CP đã quy định về nội dung, thẩm quyền, phương thức, trình tự thủ tục kiểm tra, tự kiểm tra, xử lý văn bản, cũng như việc khen thưởng, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản.
Nhằm bảo đảm thi hành thống nhất Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2004/TT – BTP ngày 16/6/2004 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP. Thông tư đã quy định cụ thể về nghiệp vụ kiểm tra văn bản, từ việc cơ quan kiểm tra văn bản phải mở Sổ văn bản đến để theo dõi việc gửi và tiếp nhận văn bản được gửi đến để kiểm tra; lập phiếu kiểm tra văn bản khi phát hiện văn bản có nội dung trái pháp luật và thủ tục thông báo, theo dõi xử lý văn bản trái pháp luật.
Văn bản có vai trò quan trọng làm cơ sở pháp lý cho kiểm tra về thể thức, kỹ thuật trình bày và quản lý văn bản quy phạm pháp luật đó là: Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư và Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT- BNV- VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.
2.2.3. Quy định của pháp luật về các điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản
Các điều kiện bảo đảm cho hoạt mặt khác nhau như: tài chính, cơ sở vật vụ cho công tác kiểm tra văn bản động kiểm tra văn bản bao gồm nhiều chất, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu phục Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Về vấn đề tài chính, Thông Tư liên tịch số 109/2004/TTLT-BTC-BTP ngày 17/11/2004 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
Các bảo đảm khác cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng theo quy định tại Điểm 4 Mục I Thông tư số 01/2004/TT- BTP. Theo đó, Cục Kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư pháp, tổ chức pháp chế các bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương có trách nhiệm xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản trong phạm vi thẩm quyền được giao. Hệ cơ sở dữ liệu bao gồm: Các văn bản quy phạm pháp luật đã được rà soát để xác lập làm cơ sở pháp lý; Kết quả kiểm tra và xử lý văn bản; Các thông tin về nghiệp vụ kiểm tra; Các thông tin, tài liệu, dữ liệu khác phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản. Hệ cơ sở dữ liệu bao gồm các tài liệu bằng văn bản, được phân loại, sắp xếp một cách khoa học và từng bước tin học hóa theo khả năng và điều kiện kinh phí cho phép để tiện quản lý, tra cứu và sử dụng.
2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG BAN HÀNH Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Để đánh giá đầy đủ, khách quan về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, trước hết cần có một cái nhìn tổng thể về tổ chức bộ máy, về thể chế, tình hình thực tiễn trong công tác này cũng như xem xét đến các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.1. Về tổ chức bộ máy
Tại cấp Bộ: Từ năm 1997, thực hiện Nghị định số 49/1997/NĐ-CP ngày 06/9/1997 của Chính phủ về tổ chức pháp chế ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, một số bộ, ngành đã thành lập Vụ Pháp chế. Đến nay, một số bộ, ngành đã kiện toàn tổ chức thực hiện công tác kiểm tra văn bản, hình thành các bộ phận (tổ, nhóm) hoặc các đơn vị độc lập để triển khai công tác này như Bộ Công an thành lập Phòng Kiểm tra văn bản thuộc Vụ Pháp chế hoặc phân công, bố trí bộ phận công chức kiểm tra văn bản (Thanh tra Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính)…
Tại Bộ Tư pháp, sau khi thành lập Cục Kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư pháp vào tháng 8/2003, Cục đã hình thành một số bộ phận đảm nhiệm các mảng công việc như: kiểm tra văn bản; rà soát, hệ thống hóa văn bản; xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm tra văn bản;… Đây là những lĩnh vực mới nên công tác tổ chức vẫn mới đang được triển khai và tiếp tục hoàn thiện. Năm 2006, Bộ Tư pháp đã phân bổ cho Cục là 31 biên chế (đã thực hiện được 24), số còn lại sẽ được tiếp tục bổ sung trong thời gian tới.
Để từng bước kiện toàn về tổ chức, hiện tại Cục Kiểm tra văn bản đã hình thành một số bộ phận đảm nhiệm các mảng công việc khác nhau như: hành chính tổng hợp, kiểm tra văn bản, rà soát hệ thống hoá văn bản, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm tra văn bản…Trên cơ sở đó, trong thời gian tới sẽ xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Cục.
Tại địa phương, một số tỉnh, thành phố đã thành lập Phòng Kiểm tra văn bản (Cà Mau, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Hải phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bà Rịa – Vũng Tàu,…). Một số tỉnh, thành phố khác lại giao nhiệm vụ kiểm tra văn bản cho Phòng Văn bản pháp quy thuộc Sở Tư pháp để tiến hành cả hai hoạt động tiền kiểm và hậu kiểm (Hà Nội, Cao Bằng, Bắc Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đà Nẵng, ĐăcLăk,…). Còn lại hầu hết các tỉnh vẫn giao nhiệm vụ kiểm tra văn bản cho Phòng Văn bản – Tuyên truyền pháp luật. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Để chuyên môn hóa công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật thì việc thành lập các vụ, phòng hoặc bộ phận chỉ chuyên trách về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật sẽ làm cho công tác quản lý và phân công trách nhiệm rõ ràng hơn.
Vấn đề phát triển đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản, để đáp ứng yêu cầu công tác, bước đầu một số địa phương đã xây dựng, hình thành đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản của mình. Các địa phương đã ban hành các văn bản thể hiện sự quan tâm phát triển đội ngũ cộng tác viên như việc công nhận đội ngũ cộng tác viên (Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, tỉnh Bình Định, Hậu Giang, Gia Lai, Yên Bái, Thái Bình…), ban hành Quy chế cộng tác viên (Bình Định, Lạng Sơn, Tiền Giang…); một số cơ quan cũng đã tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ cho các cộng tác viên, tổ chức họp lấy ý kiến đối với các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Qua tổng hợp báo cáo của địa phương đến tháng 6/2007, toàn quốc đã có 35/64 địa phương có đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản. Có địa phương xây dựng được mạng lưới cộng tác viên đông đảo, ở nhiều lĩnh vực như: Cần Thơ (180 cộng tác viên), Bến Tre (66 cộng tác viên), Hà Nội (50 cộng tác viên), Quảng Nam (43 cộng tác viên), An Giang (42 cộng tác viên)… còn lại đều có trên 10 Cộng tác viên.
2.3.2. Về mặt thể chế
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân đã được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004, nhưng đến ngày 06/9/2006, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 91/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP vẫn chưa quy định cụ thể trách nhiệm và các biện pháp xử lý đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật, cũng như cơ quan, người đã tham mưu, trình văn bản có nội dung trái pháp. Tại Điều 8 Nghị định số 135/2003/NĐ- CP quy định: Tùy theo tính chất và mức độ trái pháp luật của văn bản, cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Nhưng thực tế chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các biện pháp chế tài này; vì vậy, trên thực tế không có đủ cơ sở pháp lý cho việc xử lý văn bản cũng như trách nhiệm đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy đã có Nghị định số 135/2003/NĐ-CP và Thông tư số 01/2004/TT-BTP hướng dẫn về kiểm tra, xử lý văn bản, nhưng chưa có quy trình kiểm tra và xử lý, dẫn đến việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ. Theo Cục kiểm tra văn bản cho biết hiện nay việc gửi văn bản của chính quyền cấp tỉnh đến Cục để kiểm tra theo thẩm quyền là không thường xuyên, chưa thực hiện đúng và đủ theo quy định của pháp luật (trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày ký ban hành, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi văn bản đến Cục kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư pháp và tổ chức pháp chế của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo ngành, lĩnh vực), Cục phải tìm các biện pháp như: lấy văn bản trên Công báo và các phương tiện thông tin đại chúng để kịp thời kiểm tra, xử lý hay tổ chức đoàn kiểm tra chứ không thể thụ động chờ văn bản gửi đến mới kiểm tra.
Đến nay, một số bộ, ngành đã xây dựng quy chế tự kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan mình ban hành, ví dụ: Quyết định số 1523/2005/QĐ-BTP ngày 15/8/2005 của Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tự kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp ban hành.
Để triển khai thực hiện Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, chính quyền địa phương cấp tỉnh cũng đã ban hành chỉ thị chỉ đạo và phân công trách nhiệm cho các sở, ban ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trong việc xây dựng, ban hành, kiểm tra, tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Chỉ thị số 04/2005/CT- UB ngày 11/01/2005 của ủy ban nhân dân Thành phố Hà nội về việc triển khai thực hiện Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội; Chỉ thị số 06/2005/CT-UBND ngày 16/02/2005 của ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, trong Nghị định số 135/2003/NĐ-CP cũng như Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/TP-NV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương chưa quy định rõ ràng để có thể phân biệt về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp xã, phường) trong việc tự kiểm tra và kiểm tra văn bản. Tại Điều 10 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP thì chỉ quy định chung chung về trách nhiệm tự kiểm tra văn bản: “Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp phải tự kiểm tra văn bản do mình ban hành” và “Trưởng Ban Pháp chế của hội đồng nhân dân, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng Phòng Tư pháp, Trưởng Ban Tư pháp cấp xã là đầu mối giúp hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản”; Tại Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/TP-NV cũng đã quy định các cơ quan chuyên môn: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp giúp ủy ban nhân dân cùng cấp tự kiểm tra văn bản do ủy ban nhân dân cùng cấp ban hành; hướng dẫn ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, về mặt nguyên tắc cơ quan nào ban hành văn bản thì cơ quan ấy thực hiện tự kiểm tra văn bản do mình ban hành. Ở cấp tỉnh và cấp huyện, hội đồng nhân dân được thành lập Ban Pháp chế nên việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân sẽ do Ban Pháp chế đảm nhận. Còn ở cấp xã chỉ có Thường trực hội đồng nhân dân, không có các Ban của hội đồng nhân dân, do vậy Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn phải đảm nhận việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Do văn bản hướng dẫn không cụ thể dẫn đến thực tế hiện nay việc vận dụng quy định này không thống nhất, một số địa phương đã giao nhiệm vụ tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân cho cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, như tại Hà Nội, Chỉ thị số 04/2005/CT – UB ngày 11/01/2005 của ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã quy định tại điểm b mục 3: “Văn phòng hội đồng nhân dân – ủy ban nhân dân, Phòng Tư pháp các quận, huyện chịu trách nhiệm tham mưu giúp ủy ban nhân dân các quận, huyện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quận, huyện ban hành”. Đây chính là nguyên nhân làm cho công tác tự kiểm tra văn bản chưa được triển khai thống nhất và đi vào nề nếp, chưa phát huy được vai trò để nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
2.3.3. Về đội ngũ cán bộ công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là công việc mới, đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, hiện nay trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chưa đồng đều, một bộ phận công chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản. Công tác tập huấn cho đội ngũ cán bộ kiểm tra văn bản chưa được tổ chức thường xuyên; thông tin về văn bản pháp luật làm căn cứ cho việc kiểm tra chưa cập nhật kịp thời làm cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản chưa mang lại hiệu quả theo yêu cầu.
Bên cạnh đó, nhận thức của một số bộ, ngành và địa phương đối với công tác kiểm tra văn bản chưa thực sự đúng mức nên việc bố trí biên chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhất là tại cấp huyện. Một số nơi do đặc thù của địa phương như tỉnh Yên Bái trong 9 đơn vị huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chỉ có duy nhất thành phố Yên Bái thành lập Phòng Tư pháp, các đơn vị còn lại chỉ có 1 hoặc 2 cán bộ phụ trách công tác kiểm tra văn bản nằm trong Văn phòng hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân huyện, nên việc triển khai công tác tự kiểm tra văn bản ở cấp huyện hầu như chưa thực hiện được và chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định; Đội ngũ công chức làm công tác này còn thiếu, hầu hết phải kiêm nhiệm cả công tác xây dựng, góp ý dự thảo và kiểm tra văn bản.
2.3.4. Về chế độ chính sách
Chế độ kinh phí được quy định tại Thông tư liên tịch số 109/2004/TTLT-BTC-BTP ngày 17/11/2004 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là quá thấp, bên cạnh đó, cũng không có chế độ nhằm động viên, khuyến khích, hỗ trợ cho người làm công tác kiểm tra gây khó khăn khi thực hiện công tác này. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.5. Về các điều kiện khác bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản
Kinh phí, trang thiết bị để phục vụ công tác kiểm tra văn bản, đặc biệt kinh phí cho công tác xây dựng hệ cơ sở dữ liệu, công tác rà soát, hệ thống hóa chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, một số quy định của Thông tư liên tịch số 109/2004/TTLT-BTC-BTP về kinh phí phục vụ công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật qua thực tiễn thực hiện thời gian qua cho thấy có bất cập, chưa phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động kiểm tra nên cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
Bên cạnh đó, một số bộ, ngành và địa phương chưa thực sự quan tâm, đôn đốc, chỉ đạo triển khai công tác kiểm tra, tự kiểm tra và xử lý văn bản, chưa thường xuyên gửi văn bản đến cơ quan kiểm tra. Sau khi nhận được thông báo của cơ quan kiểm tra về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, một số cơ quan chưa kịp thời xem xét, xử lý theo quy định pháp luật, gây khó khăn cho công tác kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra.
2.3.6. Tình hình kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Để góp phần đánh giá tình hình kiểm tra, xử lý văn bản do chính quyền địa phương ban hành trong giai đoạn hiện nay một cách xác thực, đầy đủ và toàn diện, cũng như để tìm ra những nguyên nhân và giải pháp cho hoạt động này, chúng tôi đã tham khảo tư liệu và thống kê, so sánh kết quả của hoạt động này tại 2 thời điểm: Thời điểm trước và sau năm 2002, cụ thể là trước và sau khi Viện Kiểm sát nhân dân chuyển giao chức năng kiểm sát văn bản quy phạm pháp luật sang cho các cơ quan hành pháp.
- Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trước năm 2002
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã luôn tăng cường kiểm sát văn bản, gắn việc kiểm sát văn bản với kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, nâng cao hiệu quả kháng nghị, chú ý xác định hậu quả vật chất do văn bản có vi phạm gây ra. Do đó, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã đạt kết quả tốt. Theo kết quả công tác kiểm sát văn bản quy phạm pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Qua thống kê cho thấy, mỗi năm Viện Kiểm sát nhân dân đã phát hiện trên 3.000 văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ và chính quyền địa phương trong cả nước ban hành có dấu hiệu trái pháp luật. Những vi phạm chủ yếu thuộc các lĩnh vực thu phí, lệ phí, xử lý vi phạm hành chính, xây dựng cơ bản và thực hiện Luật Công ty. Trung bình tỷ lệ xử lý văn bản vi phạm đạt trên 80%.
Chỉ tính riêng trong năm 2001, trong tổng số 1.007 văn bản được Viện Kiểm sát nhân dân kháng nghị, có 903 bản kháng nghị được tiếp thu, sửa chữa, trong đó cơ quan ban hành đã ra quyết định bãi bỏ 420 văn bản; sửa đổi, bổ sung 483 văn bản chiếm tỷ lệ 90%.
Qua bản thống kê cho thấy, số lượng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương được Viện Kiểm sát nhân dân phát hiện có dấu hiệu vi phạm và ra kháng nghị từ năm 1999 đến năm 2001 là tăng. Như vậy cho thấy chất lượng ban hành văn bản của chính quyền địa phương các cấp trong giai đoạn này là chưa ổn định, còn có nhiều sai phạm.
Trong quá trình kiểm sát văn bản, nhiều Viện kiểm sát đã chú ý xác định hậu quả về vật chất do văn bản quy phạm pháp luật gây ra, đã tổng hợp kiến nghị với ủy ban nhân dân về các biện pháp phòng ngừa vi phạm trong việc ban hành văn bản.
Ngoài kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật, Viện Kiểm sát nhân dân còn thực hiện kiểm sát việc chấp hành pháp luật, xử lý vi phạm hành chính tại cơ quan, đơn vị. Qua kiểm tra đã phát hiện nhiều vi phạm, đã ban hành văn bản kháng nghị và yêu cầu khởi tố hình sự. Trong năm 2001, toàn ngành đã kháng nghị yêu cầu thu hồi tài sản cho ngân sách Nhà nước là 121 tỷ 835 triệu đồng, đã thu hồi được 26 tỷ 131 triệu đồng; yêu cầu khởi tố hình sự 48 vụ (đã khởi tố 39 vụ) yêu cầu xử lý hành chính 1949 người (đã xử lý 1386 người). Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, thông qua công tác kiểm sát, bằng các kháng nghị theo thẩm quyền Viện kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện, xử lý và khắc phục những vi phạm trong việc ban hành văn bản và chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân, tăng cường trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước, đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.
- Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật sau năm 2002
Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa mà tập trung vào thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; Triển khai thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, ngày 15/4/2002 toàn ngành Viện kiểm sát đã kết thúc công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chuyển giao cho hồ sơ kháng nghị cho các cơ quan thuộc ủy ban nhân dân để tiếp tục đôn đốc thu hồi tài sản. Từ thời điểm này công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được chuyển giao cho các cơ quan hành chính.
Công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 135/2003/NĐ-CP mới được triển khai từ năm 2004, bước đầu đã đạt được một số kết quả, góp phần tích cực trong việc đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, từng bước lập lại trật tự, kỷ cương, nâng cao chất lượng của công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa phương. Tuy nhiên vẫn còn những nhược điểm như: văn bản quy phạm pháp luật trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý Nhà nước ở địa phương chưa được các bộ, ngành và địa phương tổ chức kiểm tra, xử lý, chưa phát hiện và xử lý kịp thời. Đặc biệt đối với những văn bản về xử lý vi phạm hành chính, về ưu đãi khuyến khích đầu tư trái pháp luật vì lợi ích cục bộ địa phương.
- Tình hình kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
Tình hình kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện trên hai mặt hoạt động đó là: chính quyền địa phương tự kiểm tra đối với văn bản do mình ban hành và kiểm tra theo thẩm quyền của các cơ quan được phân công.
Về công tác tự kiểm tra: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Trước đây thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản được chính quyền địa phương các cấp tiến hành theo định kỳ hàng năm, nhằm phát hiện những văn bản trái pháp luật, hết hiệu lực, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước để tự mình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành. Hiện nay, thực hiện Nghị định số 135/2003/NĐ-CP công tác tự kiểm tra, rà soát được chính quyền địa phương các cấp nghiêm túc triển khai qua hai phương thức: Thường xuyên tổ chức kiểm tra các văn bản do mình ban hành; Kịp thời tổ chức rà soát, kiểm tra văn bản do mình ban hành khi tình hình kinh tế – xã hội đã thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản do mình ban hành không còn phù hợp, hoặc khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, thông báo về văn bản do mình ban hành có dấu hiệu trái pháp luật.
Có thể nói, tình hình tổ chức tự kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do cấp mình, địa phương mình ban hành ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực. Các bộ, ngành và địa phương đã tự kiểm tra 42.875 văn bản do mình ban hành. Kết quả tự kiểm tra, đã phát hiện 1.077 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật vi phạm Điều 3 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kết quả đã xử lý 677 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, số còn lại đang trong quá trình xem xét, xử lý.
Một số bộ, ngành và địa phương đã triển khai thực hiện có hiệu quả với số lượng văn bản tự kiểm tra lớn như: Ngân hàng Nhà nước (176 văn bản), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (148 văn bản), Bộ Giao thông Vận tải (102 văn bản)…; các địa phương như: Hải Dương (20.073 văn bản), Nam Định (3.605 văn bản), Thanh Hóa (1.915 văn bản), Bình Dương (608 văn bản), Yên Bái (136 văn bản)… Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Riêng Bộ Tư pháp, năm 2006, đã tích cực tiến hành tự kiểm tra văn bản do mình ban hành. Trong 16 văn bản quy phạm pháp luật đã được kiểm tra, phát hiện 05/16 văn bản chưa phù hợp với quy định tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP về thể thức, kỹ thuật trình bày (như ghi tháng sai, phần “Nơi nhận” thiếu tên cơ quan kiểm tra văn bản…). Về nội dung, đã phát hiện 01/16 văn bản có một số nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật, hiện đang trong quá trình xem xét, xử lý.
Để triển khai thực hiện tốt hơn nữa công tác kiểm tra và xử lý văn bản, nhiều địa phương đã kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác này, như các quyết định, chỉ thị để điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, hay ban hành các văn bản hành chính, như công văn chỉ đạo, đôn đốc, yêu cầu hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi đến các cơ quan có thẩm quyền (bộ, cơ quan ngang bộ, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp) theo quy định để thực hiện kiểm tra theo thẩm quyền.
Ở cấp tỉnh, cấp huyện do cơ cấu tổ chức hội đồng nhân dân có Ban Pháp chế, nên việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (hình thức nghị quyết) của hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện do Ban Pháp chế đảm nhiệm. Còn cấp xã thì Ban Tư pháp là bộ phận giúp ủy ban nhân dân thực hiện công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, phường ban hành. Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp là các cơ quan chuyên môn đã tham mưu giúp cho ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức triển khai thực hiện công tác tự kiểm tra văn bản do ủy ban nhân dân ban hành.
Trên cơ sở kết quả tự kiểm tra, rà soát văn bản, một số nơi đã ban hành quyết định công bố danh mục văn bản còn hiệu lực, hết hiệu lực pháp luật, hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, huỷ bỏ đối với các văn bản không còn phù hợp. Bên cạnh đó qua việc yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cơ quan thông tin đại chúng và cá nhân về văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật, các địa phương đã tiếp thu ý kiến, kịp thời tự kiểm tra, xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật.
Nhìn chung đến nay công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương đã dần từng bước đi vào nề nếp. Riêng đối với chính quyền cấp xã, do số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không nhiều nên công tác này cũng không có vấn đề nghiêm trọng, nổi cộm. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tự kiểm tra, rà soát văn bản còn có những hạn chế như: chưa được tiến hành thường xuyên; kết quả tự kiểm tra, phát hiện văn bản trái pháp luật còn thấp; nhiều văn bản trái pháp luật chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Việc tự kiểm tra, xử lý đối với văn bản có nội dung trái pháp luật do cơ quan có thẩm quyền kiểm tra thông báo còn chậm và chưa triệt để.
Về công tác kiểm tra theo thẩm quyền: Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền được triển khai đồng bộ ở hầu hết các các bộ, ngành và địa phương. Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật năm 2006 trong phạm vi toàn quốc cho thấy: công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền được chú trọng triển khai ở hầu hết các bộ, ngành và địa phương. Cùng với việc tập trung kiểm tra các văn bản do các cơ quan ban hành gửi đến, Bộ Tư pháp và một số bộ, ngành đã chỉ đạo thực hiện kiểm tra theo chuyên đề, địa bàn đối với những lĩnh vực có liên quan đến ngành, lĩnh vực do bộ, ngành quản lý theo quy định tại Chỉ thị số 32/2005/CT-TTg. Năm 2006, các bộ, ngành và địa phương (cả cấp tỉnh và cấp huyện) đã tiếp nhận và kiểm tra 345.331 văn bản (bao gồm cả văn bản quy phạm và văn bản hành chính thông thường). Qua kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý, toàn ngành đã phát hiện 7.137 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật vi phạm các quy định Điều 3 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kết quả 820 văn bản đã được xử lý, số còn lại đang trong quá trình xem xét, xử lý.
Một số địa phương đã kiểm tra được nhiều văn bản như: Bình Thuận (80.338 văn bản), Quảng Ninh (39.567 văn bản), Hà Tĩnh (40.945 văn bản), Quảng Ngãi (40.000 văn bản), Hải Dương (37.452 văn bản), Nam Định (29.909 văn bản), Bắc Giang (24.688 văn bản)…
Đối với các văn bản vi phạm các điểm a và b khoản 1 Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP (Các văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan, cá nhân không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành) thì hiện nay hầu hết các bộ, ngành và địa phương không báo cáo kết quả kiểm tra, xử lý theo như quy định. Theo Báo cáo của tỉnh Bình Phước trong năm 2006 đã phát hiện và xử lý 12 văn bản vi phạm do các sở, ban, ngành ban hành; Tỉnh Tuyên Quang có 05 văn bản là công văn có chứa quy phạm pháp luật do cấp huyện ban hành. Riêng Bộ Tư pháp trong năm 2006 đã phát hiện 10 văn bản vi phạm các điểm a và b khoản 1 Điều 26 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP và đã đề nghị cơ quan, người ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý; kết quả 10 văn bản đã được xử lý theo quy định.
Cùng với việc tập trung kiểm tra các văn bản do các cơ quan ban hành gửi đến, một số bộ, ngành đã chỉ đạo thực hiện kiểm tra theo địa bàn, kiểm tra theo chuyên đề trong những lĩnh vực có nhiều bức xúc như: xử lý vi phạm hành chính, ưu đãi đầu tư, bảo vệ bí mật nhà nước, … Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Qua đợt kiểm tra liên ngành Tài chính – Tư pháp từ đầu năm 2006 cho thấy có 42/64 tỉnh, thành phố trong cả nước ban hành 60 văn bản “xé rào” ưu đãi đầu tư. Nội dung chủ yếu của các văn bản này là ưu đãi quá cao, mang tính “xé rào” ưu đãi về thuế, các khoản thu từ đất, sử dụng ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các nhà đầu tư nhằm cạnh tranh thu hút đầu tư về địa phương mình.
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật Bộ Tư pháp cũng đã tiến hành kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, kết quả có tới 33 trong tổng số 64 tỉnh, thành phố (chiếm trên 50% địa phương trong cả nước) ban hành 86 văn bản trái luật, điển hình là các thành phố lớn như: Thành phố Đà Nẵng có tới 13 văn bản; Thành phố Hồ Chí Minh có 08 văn bản; Thành phố Hà Nội có 03 văn bản trái pháp luật. Với những mục tiêu quản lý tình hình trật tự đô thị, đảm bảo an toàn giao thông,… đã có một số hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và ngay cả cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân ban hành văn bản trái thẩm quyền, không phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Đa số lỗi vi phạm là do địa phương tự đề ra chế tài xử phạt hành chính. Về mặt pháp lý, chính quyền địa phương có thẩm quyền ban hành văn bản pháp quy phù hợp đặc thù địa phương, nhưng không được trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Bên cạnh đó, một nguyên tắc quan trọng hơn là việc xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền con người, vì thế chỉ có Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ mới có quyền quy định hành vi vi phạm và hình thức xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế có đến trên 50% địa phương vi phạm nguyên tắc đã được quy định rõ trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Để nghiên cứu một cách khách quan hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản của chính quyền địa phương, chúng tôi đã lựa chọn và tiến hành khảo sát một số địa phương đại diện cho các vùng, miền trong cả nước. Kết quả trong năm 2006 các địa phương đã ban hành và tự kiểm tra được số lượng văn bản quy phạm pháp luật như sau:
Địa danh ban hành chưa ghi đúng, như địa danh mang tên người thì phải thêm cấp hành chính ở phía trước, ví dụ: “Phường Bách khoa”; Thẩm quyền ban hành: vẫn ký với tư cách cá nhân Chủ tịch ủy ban nhân dân đối với văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân (còn có địa phương ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tư cách TM. tập thể ủy ban nhân dân), hay như vẫn ký TM. hội đồng nhân dân, TM. TTHĐND thay vì phải ký chứng thực đối với Nghị quyết của hội đồng nhân dân (Chủ tịch hội đồng nhân dân ký trực tiếp vào Nghị quyết); Đa số các văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa thực hiện việc ghi vào mục “Nơi nhận” cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản và cũng chưa gửi văn bản đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra theo luật định; Các văn bản phụ kèm theo quyết định như: quy định, quy chế, hướng dẫn không được đính kèm văn bản chính, gây khó khăn cho việc tra cứu và kiểm tra văn bản. Ngoài ra còn những lỗi sai về chính tả, không đúng văn phong pháp luật, làm giảm tính trang trọng và rõ ràng của văn bản. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Về nội dung văn bản: Còn tồn tại nhiều văn bản viện dẫn căn cứ pháp lý cho việc ban hành là văn bản đã hết hiệu lực, không phải là văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, hay viện dẫn văn bản hành chính thông thường, văn bản không trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực ban hành. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều văn bản không chứa đựng các quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự) nhưng lại được ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật, tức là chưa phân biệt được thẩm quyền về nội dung và hình thức văn bản và các yếu tố cấu thành của một văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ các Quyết định về việc thành lập các đơn vị trực thuộc; Nghị quyết về phê duyệt thu chi ngân sách của địa phương,… hay văn bản hành chính thông thường như công văn, thông báo có chứa quy phạm pháp luật, ví dụ: Công văn số 7696/UB-ĐT của ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tăng cường kiểm tra xử phạt vi phạm quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.
Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng văn bản có nội dung trái thẩm quyền, không phù hợp với quy định của trung ương, vi phạm Hiến pháp, vi phạm khoản 2, 3 Điều 3 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP. Trong thời gian vừa qua một loạt các văn bản về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và trật tự xã hội, văn minh đô thị đã bị kiểm tra, phát hiện có nội dung trái pháp luật, ví dụ: Quyết định số 52/2005/QĐ-UB ngày 28/4/2005 của ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng ban hành Quy định về một số biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó ủy ban nhân dân Thành phố quy định “tạm giữ phương tiện 15 ngày; tịch thu phương tiện; không được đăng ký xe mới trong thời hạn 2 năm” áp dụng mức phạt cao nhất của khung hình phạt,… quy định này là để thi hành chủ trương của hội đồng nhân dân Thành phố Đà Nẵng tại Nghị quyết số 16/2004/NQ-HĐND ngày 17/12/2004. Tại điểm 7 Khoản II Mục B Nghị quyết số 16/2004/NQ-HĐND đã quy định “Xử phạt nghiêm đối với các hành vi vi phạm quy định, quy tắc giao thông đường bộ, đặc biệt là đối với các hành vi chạy quá tốc độ quy định, lạng lách, đánh võng, sử dụng rượu bia và các chất kích thích khác trái quy định thì ngoài việc bị phạt ở mức cao nhất của khung hình phạt còn bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, tạm giữ xe, tịch thu xe nếu tái phạm”. Những quy định trên là vi phạm về thẩm quyền trong việc xử lý vi phạm hành chính. Được biết văn bản này Sở Tư pháp Đà Nẵng đã trao đổi với cơ quan trình văn bản là Sở Giao thông công chính để phối hợp với Công an thành phố và các ngành liên quan dự thảo văn bản thay thế cho phù hợp với văn bản mới ban hành của Chính phủ và Bộ Công an liên quan về vấn đề này như Nghị định số 152/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (văn bản này thay thế Nghị định số 15/2003/NĐ-CP) và Thông tư số 17/2005/TT-BCA của Bộ Công an sửa đổi điểm 2 Thông tư số 02/2003/TT-BCA về bãi bỏ quy định “mỗi người chỉ được đăng ký 01 xe mô tô hoặc xe gắn máy”.
Cũng trong lĩnh vực này, ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-UBND ngày 13/3/1998 về việc bảo hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới. Chỉ thị có quy định: “Tất cả các xe cơ giới hoạt động trên địa bàn tỉnh Ninh Bình phải thực hiện các loại hình bảo hiểm về xe cơ giới tại Bảo Việt Ninh Bình“. Quy định này là trái với tinh thần Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2000 (điểm a khoản 2 điều 8) và Nghị định số 115/1997/NĐ-CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo quy định này chỉ bắt buộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với chủ xe cơ giới, các loại hình bảo hiểm khác, chủ xe cơ giới chỉ tham gia trên nguyên tắc tự nguyện. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng không thể quy định bắt buộc mọi chủ xe cơ giới đều phải tham gia bảo hiểm tại Bảo việt Ninh Bình.
Nguy hiểm hơn nữa là văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật nhưng không được phát hiện, kiểm tra để xử lý kịp thời. Ví dụ: Quyết định số 6874/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc Cấm người lang thang đánh giày, bán rong sách báo và hàng lưu niệm tại các khách sạn, các điểm tham quan du lịch; người chờ việc vạ vật, gây mất trật tự, mỹ quan đô thị và cản trở giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là một văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật (không có số năm ban hành ở giữa số và cơ quan ban hành). Về mặt nội dung, văn bản trên đã vi phạm về thẩm quyền: quy định hành vi và hình thức xử lý dựa trên cơ sở của Đề án số 719/ĐA-LĐTBXH ngày 18/8/2003 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã được ủy ban nhân dân Thành phố phê duyệt (các đối tượng trên bị thu gom để giáo dục, lao động lâu dài tại Trung tâm Bảo trợ xã hội), chứ không phải dựa trên cơ sở pháp lý là một văn bản Luật hay Nghị định nào của Quốc hội hay Chính phủ quy định.
Tình hình xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Việc xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật bước đầu đã được một số bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm túc theo trình tự quy định. Đối với những văn bản sai căn cứ ban hành hoặc thể thức, kỹ thuật trình bày mà không ảnh hưởng đến nội dung của văn bản thì các cơ quan kiểm tra nhắc nhở, rút kinh nghiệm thông qua các buổi sơ kết, hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc trao đổi trực tiếp với cơ quan ban hành. Đối với những văn bản sai nội dung hoặc sai thẩm quyền, các cơ quan kiểm tra đã có thông báo, yêu cầu cơ quan ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý theo quy định.
Qua tổng hợp số liệu báo cáo, các cơ quan có thẩm quyền đã tự kiểm tra, xử lý 677 văn bản. Số văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật còn lại đang trong quá trình tự kiểm tra, xử lý.
Nhìn chung, các cấp, ngành và địa phương đã thể hiện sự tích cực trong công tác xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật, hầu hết các văn bản phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật đều được xử lý kịp thời. Các sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày được xử lý qua việc rút kinh nghiệm, nhắc nhở, các sai sót về nội dung, thẩm quyền ban hành đều được thông báo để người, cơ quan ban hành tự kiểm tra, xử lý, đặc biệt là lĩnh vực ưu đãi đầu tư, xử lý vi phạm hành chính.
Riêng Bộ Tư pháp, năm 2006, đã có 25 thông báo đối với 36 văn bản do các bộ, ngành và địa phương ban hành có dấu hiệu trái pháp luật (chưa kể các thông báo đối với các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật thuộc lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính). Sau khi nhận được thông báo, một số cơ quan đã có văn bản trả lời và kịp thời đưa ra hướng khắc phục, xử lý đối với những nội dung trái pháp luật trong văn bản do mình ban hành, đã có 18 văn bản được các bộ, ngành, địa phương tiếp thu sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản thay thế hoặc bãi bỏ, huỷ bỏ theo yêu cầu của bộ hoặc đã có ý kiến trả lời (Ban thi đua khen thưởng Trung ương, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Đồng Nai…). Mặc dù, Bộ đã tích cực trong công tác theo dõi, đôn đốc, tuy nhiên, việc xử lý văn bản trái pháp luật của cơ quan ban hành vẫn còn biểu hiện chậm trễ, chưa triệt để (còn 04 văn bản đã hết hạn nhưng chưa có ý kiến trả lời). Một số văn bản được địa phương giải trình việc ban hành và kiến nghị giữ lại, ví dụ: Thành phố Đà Nẵng dự kiến giữ nguyên quyết định số 146 về tổ chức và hoạt động của lực lượng Thanh niên Xung kích và Quyết định số 79/2003/QĐ-UB về xử phạt vi phạm hành chính của Thanh niên xung kích; Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị được giữ nguyên 3 văn bản gồm: Quyết định số 104/2003/QĐ-UB ngày 27/6/2003 về quản lý người lang thang xin ăn, sinh sống nơi công cộng trên địa bàn Thành phố; Quyết định số 210/2004/QĐ-UB ngày 30/8/2004 quy định thủ tục xử phạt qua hình ảnh một số vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Quyết định số 240/2004/ QĐ-UB ngày 21/10/2004 về bổ sung hành vi vi phạm hành chính áp dụng xử phạt theo quyết định số 210/2004/QĐ-UB. Theo Cục kiểm tra văn bản – Bộ Tư pháp thì hiện nay các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định của Chính phủ chưa cho phép thực hiện thủ tục xử phạt thông qua hình ảnh, do vậy ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy định trên là vượt quá thẩm quyền, trái quy định của pháp luật. Giải trình việc kiến nghị giữ lại văn bản có dấu hiệu trái pháp luật trên, ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng các văn bản này chỉ quy định biện pháp thu thập chứng cứ để xử phạt, không quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt, do đó không trái với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Riêng về Quyết định số 104/2003/QĐ-UB, Thành phố đã viện dẫn Nghị quyết số 20 của Bộ Chính trị cho phép được thực hiện thí điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn đặt ra, nhưng chưa có quy định hay quy định hiện hành của Nhà nước không phù hợp. Hơn nữa qua 2 năm thực hiện quy định này, tình trạng người lang thang xin ăn, sinh sống nơi công cộng đã giảm đáng kể, góp phần cải thiện mỹ quan đô thị. Theo chúng tôi, việc xử lý các văn bản còn có nhiều Ý kiến khác nhau về tính hợp pháp hoặc có đề nghị xem xét lại quyết định xử lý do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ thì cần phải được tiến hành theo thủ tục quy định tại Điều 21 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, để cho cơ quan ban hành văn bản giải trình về những nội dung liên quan đến văn bản bị kiến nghị. Nhưng cần phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế, chính quyền địa phương không phải là một “lãnh thổ riêng”, dựa vào đặc thù riêng của mình để có thể tự quy định cho riêng mình những điều mà pháp luật chưa cho phép. Trong quy định của pháp luật hiện nay, cả Hiến pháp, luật và Pháp lệnh chưa cho phép các chính quyền địa phương được ban hành quy định hành vi và hình thức xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, đối với việc quy định các biện pháp để thu thập chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm như thông qua hình ảnh thì vẫn có thể được, đó là các biện pháp sáng tạo để có thể xử lý dứt điểm những hành vi khó kiểm soát, nhưng phải quy định một cách cụ thể và đúng luật. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, cũng còn tình trạng cơ quan ban hành đã tự xử lý hủy bỏ văn bản trái luật rồi, nhưng khi ban hành văn bản thay thế vẫn sai, ví dụ như: Thành phố Hà Nội có 3 văn bản được Bộ Tư pháp yêu cầu hủy bỏ một số điểm sai trái, đó là Quyết định số 26/2003/QĐ-UB quy định hoạt động của các phương tiện giao thông; Quyết định số 167/2003/QĐ-UB về sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 26/2003/QĐ-UB; Quyết định số 02/2003/QĐ-UB về việc thực hiện các biện pháp làm giảm bụi trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn. Tuy nhiên khi ủy ban nhân dân Thành phố ban hành văn bản thay thế là các quyết định: Quyết định số 240/2005/QĐ-UB ngày 30/12/2005; Quyết định số 241/2005/QĐ-UB thì cả 2 văn bản thay thế này tiếp tục sai, vì vẫn quy định hành vi và mức xử phạt (tại Khoản 3 Điều 4 Quyết định số 240/2005/QĐ-UB quy định: “Đối với xe thô sơ phạt tiền từ 20.000 đến 40.000 đồng…”), kể cả trong trường hợp sao chép lại mức phạt theo quy định tại Nghị định, theo nguyên tắc vẫn là không đúng với thẩm quyền.
Đối với các văn bản thuộc thẩm quyền xử lý của cấp trên, qua kiểm tra, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ xử lý 60 văn bản về ưu đãi đầu tư của 42 địa phương. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã đình chỉ hiệu lực thi hành các văn bản về ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư trái pháp luật của 31 địa phương ban hành và một số địa phương cũng đã tự xử lý theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ như: Thanh Hóa, Lâm Đồng, Cần Thơ, Gia Lai, Bình Thuận, Cà Mau, Đắc Lắc, Hà Tây,…
Qua kết quả xử lý văn bản trái pháp luật cho thấy việc xử lý vẫn còn chậm so với thời gian quy định. Theo quy định của pháp luật kể từ khi nhận được Thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra, xử lý yêu cầu xử lý văn bản trái pháp luật thì trong vòng 30 ngày cơ quan có văn bản kiểm tra phải thông báo kết quả tự xử lý, nhưng hiện nay tiến độ xử lý của một số địa phương là không đảm bảo theo quy định như: Thành phố Hồ Chí Minh,…
Theo đánh giá chung thì tình hình xử lý đối với văn bản trái pháp luật trong thời gian vừa qua đã biểu hiện rất khẩn trương và tích cực, được sự theo dõi và đồng tình của nhân dân cả nước, song việc xem xét xử lý trách nhiệm của cá nhân, tập thể liên quan trong việc ban hành ra văn bản trái luật vẫn còn rất mờ nhạt. Theo quy định của pháp luật, khi chính quyền địa phương ban hành văn bản trái luật thì trách nhiệm thuộc về tập thể hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ban hành, người ký ban hành, các cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra, thẩm định văn bản. Nhưng hiện nay, thể chế quy định về hình thức, biện pháp xử lý đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật là chưa cụ thể, dẫn đến việc không ràng buộc được trách nhiệm của các cá nhân có liên quan, nhất là việc xác định hậu quả từ việc ban hành văn bản trái pháp luật và cơ chế bồi thường thiệt hại.
Từ những kết quả trên cho thấy một trong những hạn chế của công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là do công tác phối hợp trong kiểm tra, xử lý văn bản của các cấp, các ngành chưa tốt, do chưa nhận thức đúng và đầy đủ được tầm quan trọng của công tác này và cả thái độ dè dặt, tâm lý e ngại trong việc phát hiện, ra quyết định xử lý văn bản.
Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành được các cơ quan hành pháp kiểm tra còn hạn chế, chưa kiểm tra và phát hiện kịp thời các văn bản vi phạm pháp luật. Nguyên nhân một phần là do có một quãng thời gian dài từ năm 2002 đến hết năm 2003 chúng ta bỏ ngỏ công tác này, đó là thời kỳ Viện Kiểm sát nhân dân thôi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật và thời gian xây dựng thể chế cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp.
Việc xử lý đối với văn bản có nội dung trái pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền chưa kiên quyết, triệt để. Trước đây Viện Kiểm sát nhân dân khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, đã có một hình thức “mạnh” đó là ra bản kháng nghị, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị, Thủ trưởng cơ quan nhà nước có văn bản được kiểm tra phải có trách nhiệm trả lời. Do đó các cơ quan nhà nước đã tuân thủ một cách nghiêm chỉnh thời hạn này. Hiện nay, cơ quan có văn bản vi phạm vẫn chưa thực hiện nghiêm túc việc thông báo kết quả xử lý theo đúng quy định về mặt thời gian và chất lượng xử lý chưa đạt yêu cầu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành là một công việc mới được chuyển giao từ cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân sang cho các cơ quan hành chính, từ cuối năm 2001. Việc triển khai công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ mới triển khai thực hiện được hơn 3 năm. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Trong đó nổi bật lên là:
Tình trạng chính quyền địa phương các cấp ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật, không đảm bảo tính hợp pháp theo những tiêu chí của nội dung kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, vi phạm vào yếu tố về thể thức cũng như thẩm quyền ban hành văn bản.
Tình hình kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật chưa đạt kết quả theo yêu cầu. Biểu hiện như: Số lượng văn bản trái pháp luật được kiểm tra và phát hiện còn ít so với thực tế; việc xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật chưa triệt để và chưa thực hiện nghiêm túc ở các cấp, các ngành.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, thể hiện trong chính các yếu tố của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, chủ yếu là:
Đội ngũ cán bộ, công chức, cộng tác viên làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế về trình độ, năng lực cũng như số lượng.
Các quy định của pháp luật về công tác này còn chưa đầy đủ, đặc biệt là chưa có cơ chế “kiện” ra Tòa hành chính của tổ chức và công dân đối với cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; Chưa xác định được mức độ thiệt hại về mặt vật chất do văn bản trái pháp luật gây ra để xác định bồi thường thiệt hại và xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản.
Tình hình kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật chưa đi vào nề nếp, có địa phương còn chưa triển khai công tác này. Phương thức cũng như trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý chưa được thực hiện thống nhất; việc xử lý đối với văn bản trái luật chưa kịp thời, dẫn đến chất lượng hiệu quả kiểm tra, xử lý văn bản thấp.
Các yếu tố bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật như: tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị và hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật chưa được quan tâm đúng mức.
Từ việc phân tích và đánh giá về thực trạng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật để có những biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành trong thời gian tới. Luận văn: Thực trạng xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com