Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự năm 1999 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội ra bản án trái pháp luật

2.1.1  Khách thể của Tội ra bản án trái pháp luật.

Tội ra bản án trái pháp luật xâm phạm trực tiếp đến hoạt động xét xử của Tòa án. Tức là, xâm phạm đến uy tín của Toà án trong hoạt động bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải. Từ đó, gây ra sự giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thời, Tội ra bản án trái pháp luật còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.

Ví dụ: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2009/DSST ngày 15/3/2009, Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh X đã bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế vì cho rằng đã hết thời hiệu chia thừa kế. Sau đó, cũng tại Bản án dân sự phúc thẩm số 30/2009/DSPT ngày 15/09/2009, Tòa án nhân dân tỉnh X đã quyết định y án sơ thẩm. Tuy nhiên, quyết định bác đơn của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ, không đúng với sự thật khách quan do việc xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ và áp dụng pháp luật không đúng. Các Bản án đã gây ra dư luận bức xúc trong xã hội vì sự thiếu công minh và xét xử không đúng pháp luật của Tòa án. Gần 2 năm sau, Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy hai bản án trên để điều tra xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Mặc dù đã được cấp có thẩm quyền xem xét lại nhưng những sự sai phạm và thiếu trách nhiệm trên của các Thẩm phán đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong thời gian dài. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Đối tượng tác động của tội phạm này là bản án. Bản án là một văn bản tố tụng do Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm nhân) ban hành, bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh doanh thương mại, bản án hành chính và bản án lao động. Ngoài ra, các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm cũng là đối tượng của Tội ra bản án trái pháp luật, bởi lẽ tuy tên văn bản là “quyết định” nhưng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án, cũng phải được thông qua bởi một Hội đồng xét xử.

Bản án là một văn bản có bố cục gồm mở đầu, phần nội dung vụ án hoặc vụ kiện (nhận thấy), phần xét thấy (nhận định, đánh giá, chứng minh) và phần quyết định. Thông thường một bản án trái pháp luật được thể hiện chủ yếu ở phần quyết định, vì phần này có ý nghĩa quyết định toàn bộ nội dung xét xử của Hội đồng xét xử và nó là nội dung mà cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng căn cứ vào đó để thi hành. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tính trái pháp luật ở phần mở đầu như: xác định không đúng, không đầy đủ người tham gia tố tụng, hoặc tính trái pháp luật thể hiện ở phần xét thấy như đưa ra những căn cứ không đúng sự thật để chứng minh cho kết luận trái pháp luật. Vì vậy, bản án trái pháp luật là bản án không đúng pháp luật ở bất cứ phần nào, chứ không chỉ ở phần quyết định của bản án.

Theo quy định BLHS năm 1985 thì đối tượng tác động của loại tội phạm này còn bao gồm cả những quyết định do Thẩm phán và Hội thẩm ban hành như: quyết định hoà giải thành, quyết định kê biên tài sản, quyết định xử lý vật chứng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù … Tuy nhiên, BLHS năm 1999 đã quy định Tội ra quyết định trái pháp luật thì các quyết định trên thuộc đối tượng tác động của Tội ra quyết định trái pháp luật.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2  Mặt khách quan của Tội ra bản án trái pháp luật

Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi khách quan gây nguy hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Các dấu hiệu khách quan khác (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội, hoàn cảnh phạm tội).

  • a) Hành vi khách quan

Hành vi phạm tội ra bản án trái pháp luật đó là cố ý, tức là “biết rõ là sai mà vẫn làm”. Việc làm rõ dấu hiệu “biết rõ là trái pháp luật mà vẫn làm” là yêu cầu quan trọng và bắt buộc. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Để ra được một bản án trái pháp luật mà không bị phát hiện thì người phạm tội phải thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau. Ví dụ: nếu chỉ có Thẩm phán chủ toạ phiên toà có hành vi ra bản án trái pháp luật thì họ phải nói dối các Hội thẩm và các Thẩm phán khác hoặc dùng thủ đoạn khác gian dối khác để các Hội thẩm, Thẩm phán khác ký vào bản án hoặc biên bản nghị án. Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm cho thấy để có thể chứng minh người phạm tội “biết rõ là trái pháp luật” không phải đơn giản, đòi hỏi phải xem xét, đánh giá tổng hợp tất cả các yếu tố diễn biến của hành vi và nhận thức chủ quan của người phạm tội. Trong khi người phạm tội lại là những người có trình độ hiểu biết pháp luật.

Hành vi phạm tội ra bản án trái pháp luật do cố ý trực tiếp, là hành động ý chí nên bao giờ cũng do một động cơ nào đó thúc đẩy và nhằm đạt mục đích nhất định. Đối với Tội ra bản án trái pháp luật, động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Song việc làm rõ động cơ, mục đích phạm tội giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá, xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và mức độ nguy hiểm của người phạm tội, tạo cơ sở cho việc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Do đó, động cơ, mục đích phạm tội là tình tiết cần phải chứng minh trong trường hợp phạm tội ra bản án trái pháp luật, để xác định chính xác là người phạm tội “biết rõ là trái pháp luật mà vẫn làm” hay không? Nếu do thiếu trách nhiệm (cẩu thả hoặc quá tự tin) mà bản án trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị truy tố, xét xử về Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285 BLHS1999); nếu không có hậu quả nghiêm trọng, thì có thể bị xử lý hành chính. [30]

Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm tuyên án hoặc tống đạt bản án trái pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật có thể bằng cách tuyên án và ban hành bản án mà biết rõ là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu mới viết ra nhưng chưa được Hội đồng xét xử nghị án để thông qua, chưa tuyên đọc tại phiên toà hoặc chưa ban hành thì chưa coi là đã “ra bản án” mà đó chỉ là dự thảo bản án.

Trường hợp Thẩm phán đã tuyên đọc bản án trái pháp luật nhưng sau khi tuyên án, vì sợ bị trách nhiệm nên đã sửa chữa bản án (bản án được phát hành) theo hướng không trái pháp luật thì người Thẩm phán đó vẫn phạm tội ra bản án trái pháp luật. Bởi lẽ bản án tuy chưa ban hành nhưng đã công bố (tuyên án) là đã hoàn thành hành vi ra bản án. Và nội dung của bản án được ban hành phải đúng với nội dung của bản án được tuyên. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Hoặc trường hợp Thẩm phán ban hành bản án không đúng với nội dung của bản án đã được tuyên đọc tại phiên tòa thì cũng phạm tội ra bản án trái pháp luật. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm bản án đó được tiến hành tống đạt cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức có liên quan.

Liên quan đến hành vi ra bản án trái pháp luật là việc nghị án. Theo quy định của pháp luật thì nghị án là cơ sở cho việc ra bản án. Nội dung của bản án được tuyên phải phù hợp và đúng với nội dung của biên bản nghị án mà các thành viên Hội đồng xét xử đã biểu quyết thông qua. Song hành vi nghị án và biên bản nghị án chưa phải là hành vi ra bản án. Chỉ khi nào nội dung của biên bản nghị án được tuyên đọc tại phiên tòa thì mới là hành vi ra bản án.

Nếu giữa bản án được tuyên đọc và biên bản nghị án có sự khác nhau thì căn cứ vào biên bản nghị án để xác định vì nội dung của biên bản nghị án được xác định là tài liệu gốc. Nếu Thẩm phán tuyên đọc bản án hoặc ban hành bản án không đúng với nội dung của biên bản nghị án thì đó được xác định là hành vi ra bản án trái pháp luật và chỉ có Thẩm phán tuyên đọc phải chịu trách nhiệm về bản án trái pháp luật đó. Nếu Hội đồng xét xử mới nghị án nhưng chưa biểu quyết thông qua thì chưa phạm tội ra bản án trái pháp luật.

Trường hợp bản án đã được thông qua trong phòng nghị án, biên bản nghị án có đủ chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử nhưng vì lý do nào đó mà bản án đó chưa được tuyên đọc, chưa được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức có liên quan chưa nhận được bản án đó thì là thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

Trong thực tiễn, rất nhiều trường hợp, có thể trước hoặc sau khi ra bản án trái pháp luật, Thẩm phán thường có hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án như đánh tráo, thêm bớt, hủy chứng cứ của vụ án, hoặc dùng các thủ đoạn mua chuộc, hoặc dùng chính ảnh hưởng của mình nhằm hợp thức hóa việc ra bản án trái pháp luật của mình … Trong trường hợp này, Thẩm phán thì phải chịu trách nhiệm về của hai tội: Tội ra bản án trái pháp luật và Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300 BLHS 1999) hoặc Tội đưa hối lộ (Điều 289 BLHS 1999) hoặc Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291 BLHS 1999).

  • b) Hiệu quả Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Cấu thành tội phạm Tội ra bản án trái pháp luật tại Điều 295 BLHS 1999 là cấu thành tội phạm hình thức (Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội), chỉ miêu tả hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi “ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật” mà không quy định về dấu hiệu hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (cố ý ra bản án trái pháp luật) là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ từng trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật, như: kẻ phạm tội nghiêm trọng đã trốn sau khi bản án tha sai; người bị kết án oan đã bị giam lâu ngày, tự sát, bị tan nát gia đình, bị kiệt quệ về kinh tế.

Hậu quả phải do hành vi phạm tội ra bản án trái pháp luật gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).

Việc xác định hậu quả của hành vi ra bản án trái pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc định khung hình phạt. Tuy nhiên, BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể nào để xác định trong trường hợp nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trên thực tế, các Tòa án thường phải áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 làm căn cứ để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy, việc xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng trong thực tế là tương đối khó khăn, gây cản trở cho việc xét xử đúng người, đúng tội. Trong một số trường hợp ra bản án trái pháp luật, người phạm tội chỉ bị xử lý hành chính hoặc hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, chưa đủ sức răn đe.

  • Các dấu hiệu khách quan khác

Một trong những dấu hiệu đặc trưng và quan trọng đó là. Tính chất trái pháp luật được thể hiện ở nội dung bản án (như: kết án người rõ ràng không có tội; tuyên không có tội đối với người rõ ràng có tội, truất quyền thừa kế, quyền sở hữu của công dân không có căn cứ hợp pháp; đình chỉ tố tụng không có căn cứ v.v…). Bản án có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần. Phần sai này rõ ràng trái pháp luật. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Áp dụng không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự theo hướng nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với người phạm tội; áp dụng không đúng loại hình phạt hoặc áp dụng hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ đối với người phạm tội hoặc theo hướng án treo không đúng quy định tại Điều 60 BLHS; áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; áp dụng không đúng các biện pháp pháp quy định trong Bộ luật hình sự. [35, tr220]

Ví dụ: Ngày 18/4/2011, Tòa án nhân dân huyện B mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo Lại Nguyên K về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2, Điều 202 BLHS. Sau khi căn cứ vào lỗi, hậu quả, thái độ khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả và nhân thân bị cáo, Tòa án nhân dân huyện B đã tuyên 4 năm tù. Tuy nhiên, sau đó không lâu, cũng với một vụ án tương tự về tình tiết, mức độ và cùng một người xử nhưng mức án lại khác nhau đến ngỡ ngàng. Cùng tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 202 BLHS như bị cáo K nhưng Dương Văn C lại nhận một hình phạt nhẹ hơn: 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Điều đáng nói là chủ tọa của hai phiên tòa này đều cùng một Thẩm phán.

Hoặc có vụ án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy cùng bị truy tố và bị đưa ra xét xử cùng một tội danh, khung hình phạt (khoản 2, Điều 194 BLHS- mức án từ 7 đến 15 năm tù) nhưng bị cáo có nhân thân xấu (có một tiền án tiền sự) lại được hưởng mức án dưới khung hình phạt (6 năm tù), trong khi đó bị cáo không có tiền án, tiền sự lại được tòa tuyên mức án trên khung hình phạt (7 năm 6 tháng tù). Cụ thể: Qua điều tra, công an kết luận hai đối tượng T (có một tiền sự) và K đã nhiều lần bán ma túy cho con nghiện. Ngày 22/3/2011, TAND thị xã N tiến hành mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử 2 bị cáo này về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2, Điều 194 BLHS. Kết quả, tòa tuyên phạt bị cáo T 6 năm tù, bị cáo K 5 năm tù. Nhưng cũng chính ngay ngày hôm đó, TAND thị xã N đưa ra xét xử sơ thẩm đối với bị cáo L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2, Điều 194, BLHS. Trong vụ án này, cơ quan điều tra kết luận cũng như T, K là L đã bán ma túy cho con nghiện nhưng về nhân thân, L chưa có tiền án, tiền sự như bị cáo T. Tuy nhiên, tại bản án số 13/2011/ HSST của TAND thị xã N lại quyết định xử phạt bị cáo L 7 năm 6 tháng tù. Điều kỳ lạ là cả 3 bị cáo trong 2 vụ án trên đều được tòa xét căn cứ các tình tiết giảm nhẹ giống nhau (Điểm p-người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, o – người phạm tội tự thú, khoản 1 Điều 46 BLHS), đều được xét xử một ngày và do một Thẩm phán Phạm Thị M làm chủ tọa. Thiết nghĩ, người được giao trọng trách bảo vệ công lý cần có cái tâm trong sáng, nghiêm minh để đảm bảo sự công bằng, xử đúng người đúng tội. Nếu người nắm cán cân công lý mà vì lý do nào đó sẵn sàng làm “lệch cân” thì sẽ tạo nên sự bất công cho xã hội.

  • Đối với vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính:

Gây thiệt hại cho đương sự … Ví dụ: truất quyền thừa kế của người theo pháp luật về thừa kế họ có quyền thừa kế; cho ly hôn khi không đủ các điều kiện mà pháp luật về hôn nhận và gia đình quy định cho ly hôn; huỷ hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế khi các hợp đồng đó không vi phạm điều cấm; buộc người sử dụng lao động phải nhận lại người lao động mà người sử dụng đã buộc thôi việc đúng pháp luật về lao động và hợp đồng lao động; bác yêu cầu của người đi kiện về một quyết định hành chính trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân … Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Ví dụ: Trong đơn tố cáo gởi kêu cứu cơ quan chức năng, ông Nguyễn Văn K, phản ánh Thẩm phán Châu Thanh D với vai trò Chủ toạ HĐXX trong vụ án phân chia tài sản sau ly hôn của vợ chồng ông đã ra bản án khống. Theo hồ sơ vụ án, vào năm 2008, ông K và bà Đ được TAND thành phố CM cho ly hôn. Năm 2010, ông K và bà Đ tiếp tục chia tài sản sau ly hôn. Theo đó, bà Đ yêu cầu được chia đôi 2 phần đất toạ lạc tại xã Đ, huyện NC, thành phố CM. Phần đất thứ nhất có diện tích 57.642,3m2 do ông Khánh đứng tên; phần đất thứ hai có diện diện tích 34.430m2 và một căn nhà cấp 4, do cha mẹ của ông K giao cho vợ chồng ông K sử dụng. Tại bản án sơ thẩm ngày 28-7-2011, TAND huyện NC chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Đ và giao cho bà Đ được sở hữu phần đất 34.430,6m2 cùng với căn nhà cấp 4. Còn ông Khánh được sở hữu phần đất 57.642m2. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông K và mẹ đẻ là bà N có đơn kháng cáo. Tại phiên tòa công khai, Thẩm phán D tuyên bố bác đơn kháng cáo của ông K và bà Nh, không có nội dung gì khác. Nhưng khi nhận được bản án thì nội dung bị thay đổi hoàn toàn. Bản án phúc thẩm ngày 27-10-2011, TAND tỉnh CM tuyên xử với nội dung: “Chấp nhận yêu cầu của bà Đ, buộc ông K phải giao cho bà Đượm 57.642,3m2; ông K thì nhận lại phần đất 34.430,6m2 mà cấp sơ thẩm đã giao cho bà Đ”. Ngoài ra, ông K còn phải chịu án phí gần 30 triệu đồng.

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử, nghị án và ra bản án trái pháp luật, như: Thẩm phán, Hội thẩm thuộc trường hợp phải từ chối xét xử hoặc bị thay đổi nhưng vẫn tham gia xét xử; xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng với quy định của pháp luật tố tụng; tại phiên toà không thực hiện đúng trình tự các bước cần tiến hành để xét xử một vụ án.

2.1.3  Chủ thể của tội Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Chủ thể của tội phạm ra bản án trái pháp luật là chủ thể đặc biệt , đó là Thẩm phán và Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân, gọi chung là Hội thẩm), đó là những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, nhân danh Nhà nước ra bản án để giải quyết các xung đột của các quan hệ pháp luật trong xã hội.

Khác với quy định của pháp luật hình sự của Liên bang Nga, quy định chủ thể của Tội phạm này chỉ có thể là Thẩm phán. Hay Bộ luật hình sự Trung quốc lại không quy định rõ ai là chủ thể của loại tội phạm này, chỉ nêu: cán bộ tư pháp cố ý ra phán quyết không đúng pháp luật thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, ngoài Thẩm phán ra còn có các chủ thể khác như: Hội thẩm, Chánh án, Phó Chánh án, hoặc Thư ký Tòa án… Luật hình sự Việt Nam quy định rõ Thẩm phán hoặc Hội thẩm là chủ thể chính của Tội ra bản án trái pháp luật. Thẩm phán và Hội thềm đều phải chịu trách nhiệm hình sự khi cố ý ra bản án trái pháp luật vì khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Nhưng qua thực tiễn, cần xem xét sự việc cụ thể và thái độ của từng thành viên trong Hội đồng xét xử khi biểu quyết để xác định trách nhiệm cụ thể của từng người (như: đối với một bản án được cố ý ra trái pháp luật được biểu quyết theo đa số, một thành viên của Hội đồng xét xử đã biểu quyết ngược lại, thì không thể bị xử lý về tội này.

Bộ luật hình sự quy định chỉ có Thẩm phán, Hội thẩm nhưng không phải vì thế mà cho rằng đối với các chức vụ như: Chánh án, Phó Chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà không phải là chủ thể của tội phạm này. Vì theo nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hội đồng xét xử trong mọi trường hợp đều phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc xét xử vụ án. Khi cần thiết hoặc khi Tòa án cấp dưới hỏi, Tòa án cấp trên có thể cho những ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn về việc áp dụng pháp luật, nhưng không đề ra mức xử lý cụ thể và không có tính chất ra mệnh lệnh. Do đó, nếu các thành viên của Hội đồng xét xử, theo sự hướng dẫn của cấp trên, ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật vẫn bị xử lý về Tội ra bản án trái pháp luật. Cấp trên hướng dẫn Hội đồng xét xử ra bản án trái pháp luật có thể bị xử lý hành chính; nếu cho ý kiến có tính chất cố ý ép buộc Hội đồng xét xử ra bản án trái pháp luật thì cũng bị xử lý về Tội ra bản án trái pháp luật. [30]

Như vậy, theo hướng tại Mục 2 Chương 10 Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC-NQ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 29/11/1986 thì Chánh án, Phó Chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà có thể là chủ thể của tội phạm này, với vai trò là đồng phạm. Đó là trường hợp tuy Chánh án, Phó Chánh án, Chánh toà hoặc Phó Chánh toà không trực tiếp xét xử vụ án nhưng đã cho ý kiến có tính chất cố ý ép buộc Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật thì tuỳ trường hợp mà hành vi của họ có thể là đồng phạm với Thẩm phán về Tội ra bản án trái pháp luật. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Điều này theo tôi là không hợp lý vì một trong các nguyên tắc hiến định, đã được quy định rõ trong hiến pháp và pháp luật, đó là: khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Hội Thẩm là những thành viên Hội đồng xét xử mới có quyền nhân danh Nhà nước ra một bản án, họ mới là chủ thể của bản án và phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật về các quyết định trong bản án. Họ có thể xin ý kiến cấp trên hoặc đồng nghiệp về đường lối giải quyết vụ án, nhưng chỉ có tính chất trao đổi nghiệp vụ. Pháp luật đã quy định cho họ có quyền độc lập khi xét xử, không ai có quyền được ép buộc hay can thiệp vào việc Hội đồng xét xử ra bản án. Do đó, nếu Hội đồng xét xử ra bản án trái pháp luật thì họ phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật. Điều 295 BLHS cũng đã quy định rõ Thẩm phán, Hội thẩm là chủ thể của loại Tội phạm này, không thể có một người nào khác. Trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga cũng quy định chỉ có Thẩm phán là chủ thể đặc biệt và duy nhất của Tội ra bản án trái pháp luật.

Do đó, trường hợp Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa hoặc Phó Chánh tòa hoặc cấp trên hoặc bất kỳ ai có chức vụ, quyền hạn cố ý ép buộc Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật thì phải chịu TNHS về Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 297 BLHS) hoặc Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS) hoặc Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 BLHS), chứ không thể là đồng phạm với Thẩm phán về Tội ra bản án trái pháp luật vì không thoả mãn dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Còn Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật theo chỉ đạo của Chánh án, Phó Chánh án, … thì Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật.

Hoặc trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm, Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thư ký Tòa án … có hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án như đánh tráo, thêm bớt, hủy chứng cứ của vụ án nhằm hợp thức hóa việc ra bản án trái pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm về hai tội: Tội ra bản án trái pháp luật và Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300 BLHS). Còn các đối tượng khác chỉ chịu TNHS về Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án.

Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ nhưng vẫn cố tình xét xử và ra bản án (kể cả quyết định của bản án là không trái pháp luật) thì không coi là hành vi ra bản án trái pháp luật vì không thoả mãn dấu hiệu về chủ thể của tội phạm, mà hành vi của họ phải bị truy cứu TNHS về Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS).

Trường hợp nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm móc nối với Điều tra viên, Kiểm sát viên để kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội thì Thẩm phán hoặc Hội thẩm vẫn bị truy cứu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật, còn Điều tra viên, Kiểm sát viên bị truy cứu TNHS về Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. [35, tr214, tr215]

2.1.4  Mặt chủ quan của Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Điều luật quy định “biết rõ là trái pháp luật”, tức là người phạm tội phải biết rõ bản án mà mình ban hành là trái pháp luật, các quyết định trong bản án là không đúng với các quy định của pháp luật, không đúng với sự thật khách quan của vụ án; nếu do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc vì lý do khách quan mà Thẩm phán, Hội thẩm không biết rõ là trái pháp luật thì không phạm tội ra bản án trái pháp luật.

Về nguyên tắc, hành vi ra bản án trái pháp luật là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Thẩm phán cố ý ra bản án, mà bản án đó bị hủy hoặc cải sửa đều là hành vi phạm tội. Nếu cố ý ra bản án trái pháp luật nhưng vì nguyên nhân khách quan và chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì có thể xem xét loại trừ trách nhiệm hình sự. Vì dụ: Sau khi nghiên cứu hồ sơ, theo quan điểm của Thẩm phán thì phải bác đơn khởi kiện của nguyên đơn. Nhưng do trình độ còn non kém, chưa dứt khoát, Thẩm phán đã báo cáo lãnh đạo xin ý kiến và quan điểm của lãnh đạo cho rằng phải chấp nhận đơn khởi kiện. Sau đó, bản án bị cấp giám đốc thẩm hủy án yêu cầu xét xử lại theo hướng bác đơn khởi kiện vì nguyên đơn không đủ điều kiện khởi kiện. Như vậy, Thẩm phán vì sợ, không dũng cảm, không dám chịu trách nhiệm nên đã có bản án trái pháp luật. Tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng trường hợp này Thẩm phán phải kiểm điểm và rút kinh nghiệm nghiêm túc.

Thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều bản án trái pháp luật ở mức độ khác nhau, trong đó có không ít bản án bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm huỷ để điều tra xét xử lại, thậm chí có bản án kết án oan người vô tội nhưng hầu hết những Thẩm phán ra bản án này thường chỉ nhận là do nhận thức, do trình độ nghiệp vụ non kém, chứ không có ai nhận là “biết rõ là trái pháp luật”. Đây thực sự là một trong những vấn đề hết sức khó khăn và bất cập khi điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này. Bản án quyết định số phận một con người nhưng không ít Thẩm phán vẫn xem nhẹ, coi những sai sót trong bản án chỉ cần rút kinh nghiệm, hoặc cho rằng là sai do khách quan. Những Thẩm phán, Hội thẩm là những người phải hiểu rõ pháp luật, nắm chắc các quy định của pháp luật hiện hành, thì trước khi ra một quyết định thì họ là những người biết rõ hơn ai hết là có đúng pháp luật hay không. Trên cơ sở đánh giá, tổng hợp toàn bộ các chứng cứ, lời khai và tranh luận tại phiên tòa, thì bất cứ ai trong Hội đồng xét xử đều có những quan điểm giải quyết vụ án trên cơ sở của pháp luật. Do đó, không thể có việc để bao biện cho hành vi phạm tội của mình là do cách đánh giá chứng cứ của các cấp xét xử khác nhau, trình độ nghiệp vụ non kém hoặc do nguyên nhân khách quan. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Trong pháp luật hình sự Trung quốc, không có quy định về dấu hiệu là “biết rõ là trái pháp luật” vì cán bộ tư pháp, ở đây là nhân viên Tòa án phải là những người có trình độ và hiểu biết phát luật. Dấu hiệu chủ quan nhà làm luật quy định là “cố ý làm trái pháp luật và đưa ra phán quyết vi phạm pháp luật”.[5, Điều 399]

Hoặc Bộ luật hình sự Nga quy định rất đơn giản về cấu thành Tội ra bản án trái pháp luật. Thẩm phán ra bản án, quyết định hay các văn bản khác một cách rõ ràng trái pháp luật là phải chịu TNHS. Dấu hiệu lỗi không phải là tình tiết quan trọng để định tội. Khi có văn bản của cấp có thẩm quyền xác định bản án của Thẩm phán “là không đúng pháp luật” là Thẩm phán đã phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật, không xét đến đó là hành vi cố ý hay do lỗi khách quan. Do đó, việc xem xét trách nhiệm của Thẩm phán là đơn gian và toàn diện, đảm bảo tuyệt đối quyền và lợi ích của đối tượng bị xâm phạm bởi hành vi ra bản án trái pháp luật.

Do đó, hiện nay có ý kiến cho rằng nên bỏ dấu hiệu “biết rõ là trái pháp luật” vì chủ thể của Tội phạm này những Thẩm phán, Hội Thẩm, không thể nói khi được giao giải quyết một vụ án, quyết định số phận, có khi sinh mang của một con người mà cho rằng họ biết rõ là đúng pháp luật hay không. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án trái pháp luật là đã phạm Tội ra bản án trái pháp luật, không cần chứng minh họ “biết rõ là trái pháp luật” hay không. Ý kiến này cũng hợp lý song không phán ánh đúng nguyên tắc của pháp luật hình sự, đó là: chỉ người nào có lỗi mới phải chỉ TNHS. Và không thể hiện được ý thức chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi ra bản án trái pháp luật.

Theo tôi, để hợp lý hơn và để việc điều tra, truy tố, xét xử được chính xác, trong cầu thành của tội ra bản án trái pháp luật vẫn phải khẳng định rõ yếu tố chủ quan “lỗi cố ý” của người phạm tội như pháp luật hình sự Trung quốc. Tình tiết “ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật” hàm ý cũng thể hiện ý thức chủ quan “lỗi cố ý” trong việc ra bản án trái pháp luật. Song chủ thể của loại Tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là Thẩm phán, Hội thẩm, phải là những người có trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng, nên việc “biết rõ là trái pháp luật” là điều tất yếu. Do đó, Thẩm phán, Hội thẩm nào cố ý ra bản án trái pháp luật là phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật theo quy định tại Điều 295 BLHS. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Tuy nhiên về nguyên tắc, có trường hợp dù Thẩm phán có không thừa nhận thì vẫn có thể buộc họ là “biết rõ là trái pháp luật”, như: không xét xử mà ra bản án, người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên toà thì bản án lại ghi là có mặt; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là ông A thì bản án lại ghi là ông B; Biên bản nghị án thống nhất phạt tù giam bị cáo thì bản án lại ghi là phạt tù nhưng cho hưởng án treo, … [35, tr222]

Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp mặc dù bản án bị hủy, yêu cầu phải điều tra, xét xử lại, tức là quyết định của bản án không đúng pháp luật nhưng Thẩm phán không có lỗi, như: Tại cấp phúc thẩm hoặc cấp giấm đốc thẩm, đương sự cung cấp tài liệu chứng cứ mới hoặc pháp sinh tình tiết mới, làm thay đổi nội dung vụ án; quy định pháp luật có sự thay đổi;…

VÝ dô: Biên bản nghị án ghi sai tội danh và năm nhưng trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử đều thẩm vấn đúng tội danh nên chỉ cần rút kinh nghiệm; hoặc sai về chính chính tả, nhầm lẫn về số liệu tính toán, sai ngày tháng năm … thì Tòa án phải đính chính bản án; những sai sót lớn trong bản án như sai về Tội danh, việc áp dụng điều khoản, sai tên bị cáo, đương sự, thiếu người tham gia tố tụng … thì phải hủy án.

Đây cũng là một vấn đề khó khăn khi phát hiện và truy tố. Các vi phạm pháp luật trong việc ra bản án của Tòa án có nhiều, nhưng các quy định của pháp luật còn chưa quy định rõ trong trường hợp nào thì hành vi ra bản án trái pháp luật chỉ bị xử lý hành chính, trong trường hợp nào phải truy cứu TNHS. Do đó, nhiều Tòa án có cách thức xử lý khác nhau. Có Tòa án thì nghiêm khắc nhắc nhở và kiến nghị biện pháp khắc phục, nhưng có Tòa án chỉ rút kinh nghiệm qua loa, cho rằng chỉ là sai do khách quan. Chỉ khi có đơn tố cáo và các cơ quan chức năng vào cuộc thì nhiều trường hợp mới bị phát hiện và xét xử. Do đó, vấn đề bỏ sót tội phạm thường xuyên xảy ra.

Mục đích phạm tội: Mục đích của Tội ra bản án trái pháp luật là kết quả trong tương lai mà người phạm tội hình dung ra và mong muốn đạt được bằng việc cố ý giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật , không đúng với sự thật khách quan. Nhưng trong điều luật quy định về tội ra bản án trái pháp luật không quy định dấu hiệu mục đích của tội phạm này. Tức là mục đích ra bản án trái pháp luật không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan.

Động cơ phạm tội: Động cơ phạm tội có thể hiểu là động lực (nhu cầu và lợi ích) bên trong thúc đẩy quyết tâm của người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. [13, tr381]. Trong điều luật quy định về tội ra bản án trái pháp luật không quy định dấu hiệu động cơ của tội phạm này. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Tuy điều luật không quy định động cơ là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành này nhưng không vì thế mà không cần xác định động cơ của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi ra bản án trái pháp luật tới mức bị truy cứu TNHS đều xuất phát từ động cơ xấu như vì vụ lợi, vì thù tức hoặc vì động cơ cá nhân khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc lợi ích hợp pháp của công dân. Chính động cơ tư lợi này đã thúc đẩy, tạo quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng người phạm tội. Vì vậy, việc xác định động cơ phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội có biết rõ bản án mà mình ta là trái pháp luật hay không? [35, tr221, tr222]. Căn cứ vào động cơ phạm tội mà có thể xác định người phạm tội có biết rõ bản án mà mình ban hành có đúng pháp luật hay không.

Nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm xuất phát từ động cơ xấu như nhận hối lộ mà ra bản án trái pháp luật thì ngoài Tội ra bản án trái pháp luật còn bị truy cứu TNHS về Tội nhận hối lộ.

2.2 Các dấu hiệu pháp lý định khung của Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 295 BLHS, các dấu hiệu sau đây được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng: “gây hậu quả nghiêm trọng”; “hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.

Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi ra bản án trái pháp luật đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng như: kẻ phạm tội nghiêm trọng đã trốn sau khi bản án tha sai; người bị kết án oan đã bị giam lâu ngày, tự sát, bị tan nát gia đình, bị kiệt quệ về kinh tế; đã chuyển nhượng hoặc tẩu tán tài sản; …Song hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.

Trên thực tế, các Tòa án thường phải áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 làm căn cứ để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy, việc xác định thể nào là gây hậu quả nghiêm trọng trong thực tế là tương đối khó khăn, gây cản trở cho việc xét xử đúng người, đúng tội.

Theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì hậu quả của hành vi phạm tội có thể đánh giá như sau:

a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng: 1) Làm chết một người;

  • a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
  • a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
  • a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây;
  • a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
  • a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.

b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:

b.1) Làm chết hai người;

  • b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61 % trở lên; Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.
  • b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
  • b.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;
  • b.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
  • b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này.

Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:

  • c.1) Làm chết ba người trở lên;
  • c.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
  • c.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31 % đến 60%;
  • c.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng đẫn tại các điểm c.2 và c.3 trên đây;
  • c.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;
  • c.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này;

c.7) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6.

Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Nếu ra bản án trái pháp luật kết án người không có tội mà thuộc một trong các trường hợp sau thì có thể coi là gây hậu quả nghiêm trọng:

  • Người bị kết án oan và đã bị phạt tù đến 5 năm và đang bị chấp hành hình phạt.
  • Người bị kết án oan bị giam, giữ dẫn đến suy kiệt sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
  • Do bị kết án oan nên bị mất việc làm, mất thu nhập chính ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình thân nhân của họ.
  • Người bị kết án oan bị thiệt hại từ 50 triệu đến 100 triệu đồng.

Nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì có thể coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng:

  • Người bị kết án oan và đã bị phạt tù từ 5 năm đến dưới 15 năm và đã bị chấp hành hình phạt tù trên 5 năm.
  • Người bị kết án oan và đã bị phạt tù đến 5 năm và đã chấp hành xong hình phạt tù.
  • Người bị kết án oan bị giam, giữ dẫn đến suy kiệt sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
  • Người bị kết án oan bị thiệt hại từ 100 triệu đến 200 triệu đồng.
  • Nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì có thể coi là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:
  • Người bị kết án oan và đã bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, tù chung thân và đã bị chấp hành hình phạt tù trên 10 năm.
  • Người bị kết án oan do uất ức đã tự sát hoặc bị giam, giữ dẫn đến tử vong hoặc đã bị thi hành án tử hình oan.
  • Người bị kết án oan bị thiệt hại trên 200 triệu đồng. [35, tr225]

Tuy nhiên, hậu quả nghiêm trọng do hành vi ra bản án trái pháp luật gây ra không chỉ là thiệt hại về vật chất mà chủ yếu là thiệt hại phi vật chất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nói riêng và uy tín của ngành Tòa án nhân dân nói chung, làm cho mọi người không còn tin vào công lý.

Thực tiễn cho thấy, nếu Thẩm phán cố ý ra bản án trái pháp luật là đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả đó đôi khi không thể khắc phục được hoặc nếu khắc phục được thì phải mất thời gian dài và nhiều công sức cố gắng.

Ví dụ: Tại Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H, Thẩm phán Nguyễn Sinh C đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật, làm cho bị đơn và gia đình bị xáo trộn cuộc sống, bị mất nhà cửa, bị cưỡng chế thi hành án. Nghiêm trọng hơn bố của bị đơn vì uất ức sinh bệnh đã bị ốm chết. Bản án dân sự đó sau 2 lần giám đốc thẩm mới bị phát hiện là bản án trái pháp luật. Trong vụ án này thì việc khắc phục hậu quả do hành vi ra bản án trái pháp luật của Thẩm phán là rất khó khăn, không thể khắc phục được hậu quả.

2.3 Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

2.3.1  Các hình phạt áp dụng đối với Tội ra bản án trái pháp luật

Theo quy định tại khoản 1 Điều 295 thì người phạm tội bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm, là tội phạm nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 295, nếu người phạm tội không vì động cơ xấu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới 1 năm tù, nhưng không được dưới 3 tháng tù; nếu đủ điều kiện quy định tại Điều 60 BLHS thì có thể được hưởng án treo.

Nếu người phạm tội vì động cơ xấu và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 5 năm tù. [35, tr226]

  • b) Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 295 Khoản 2 Điều 295 BLHS chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định

khung hình phạt, đó là gây hậu quả nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 295, người phạm tội bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm, là phạm tội rất nghiêm trọng.

Hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 2 Điều 232 BLHS thể hiện như: kẻ phạm tội nghiêm trọng đã trốn sau khi bản án tha sai; người bị kết án oan đã bị giam lâu ngày, tự sát, bị tan nát gia đình, bị kiệt quệ về kinh tế.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cần phải cân nhắc đến hành vi ra bản án trái pháp luật là bản án gì (hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động hay hành chính). Nếu không phải là bản án hình sự kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể căn nhắc áp dụng Điều 47 BLHS phạt dưới 3 năm tù, nhưng không được dưới 1 năm. [35, tr227]

Nếu người phạm tội ra bản án trái pháp luật là bản án hình sự kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 10 năm tù. Tuy nhiên, nếu là bản án hình sự trái pháp luật nhưng không thuộc trường hợp kết án người không có tội hoặc không kết án người có tội, mà chỉ là vi phạm tố tụng hoặc gây thiệt hại về vật chất cho người tham gia tố tụng thì cũng không coi là trường hợp phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

  • c) Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 295 Khoản 3 Điều 295 BLHS quy định 02 tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 295 BLHS, người phạm tội bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, là phạm tội rất nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 BLHS phạt dưới 5 năm tù nhưng không được dưới 3 năm. Nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 15 năm tù.

  • d) Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Tuy nhiên, đối với Thẩm phán và Hội thẩm ra bản án trái pháp luật thì sau khi có bản án có hiệu lực kết tội thì Thẩm phán và Hội thẩm đó đương nhiên bị bãi nhiễm. Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm thì còn có thể bị cấm làm việc trong các cơ quan tư pháp. Nói chung, đối với những người đã phạm tội này sau khi chấp hành xong hình phạt tù thì hầu như cũng chẳng bao giờ được tuyển dụng vào các cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc được bầu làm Thẩm phán hoặc Hội thẩm nữa. Do đó, họ cũng sẽ không được bổ nhiệm lại giữ các chức vụ như trước. Nếu có thì phải điều chuyển đi đơn vị khác.

Cho nên trên thực tế, một số Thẩm phán đã bị xét xử về tội ra bản án trái pháp luật dù hình phạt là hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc được miễn TNHS thì về nguyên tắc họ sẽ không được bổ nhiệm lại làm Thẩm phán hoặc Hội thẩm, nặng hơn có thể bị buộc thôi việc. Nhiều ý kiến cho rằng có thể hình phạt như những bản án vừa qua là nhẹ đối với Thẩm phán, nhưng thực chất đây là hình phạt tương đối nghiêm khắc đối với Thẩm phán. Họ từ vị trí nhân danh Nhà nước bảo vệ công lý, nay họ bị chính những đồng nghiệp, thậm chí cấp dưới của mình xét xử. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

2.3.2 Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với Tội ra bản án trái pháp luật

Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được quy định trong BLHS, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt. Các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, do Tòa án và một số trường hợp do Viện kiểm sát quyết định phải áp dụng đối với người phạm tội trong một số trường hợp nhất định. Theo BLHS hiện hành, các biện pháp tư pháp, gồm:

  • Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41);
  • Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
  • Buộc công khai xin lỗi nếu hành vi phạm tội gây thiệt hại về tinh thần (Điều 42);
  • Bắt buộc chữa bệnh ở một cơ sở điều trị chuyên khoa đối với người phạm tội bị mắc bệnh tâm thần (Điều 43).

Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội ra bản án trái pháp luật thường là buộc xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại.

Buộc xin lỗi công khai là việc Nhà nước phải khắc phục các hậu quả của thiệt hại về tinh thần và phục hồi lại các quyền bị tổn thất cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi ra bản án trái pháp luật của Tòa án gây Việc buộc xin lỗi, cải chính công khai nhằm mục đích bảo vệ quyền nhân thân và khôi phục danh dự, uy tín cho người bị xét xử oan.

Cách thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện, thì Toà án căn cứ vào tính chất hành vi xâm phạm và mức độ, hậu quả do hành vi đó gây ra quyết định về nội dung, thời lượng xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện. Việc xin lỗi, cải chính công khai có thể được thực hiện trực tiếp tại nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại hoặc đăng công khai trên báo hàng ngày của cơ quan trung ương, báo địa phương nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại trong ba số liên tiếp.

Ví dụ: Ngày 23/10, Tại thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi (Bạc Liêu), đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã xin lỗi công khai tại nơi cư trú đối với bà Trần Thị Lệ Hoa. Tòa án đã xin lỗi gia đình vì những bản án dẫn đến oan sai cho bà Hoa đồng thời đề nghị chính quyền địa phương, các ngành đoàn thể tạo điều kiện tốt nhất để bà Hoa hòa nhập cộng đồng. Theo hồ sơ vụ án, ngày 9/1/2006, TAND tỉnh Bạc Liêu tuyên phạt bà Trần Thị Lệ Hoa 7 năm tù giam về tội “giết người”. Người bị giết là mẹ nuôi, bà Nguyễn Thị Hai. Ngày 4/4/2007, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm của TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Bạc Liêu, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại. Ngày 27/2/2008, Viện trưởng VKSND tỉnh Bạc Liêu quyết định đình chỉ mọi hoạt động tố tụng đối với vụ án. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Hoặc một trường hợp khác: Ngày 19/11, tại UBND xã Tân Lập, huyện Tân Biên (Tây Ninh), đại diện Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Công an tỉnh Tây Ninh đã tổ chức công khai xin lỗi ông Nguyễn Minh Hùng, sinh năm 1978 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh 2 lần tuyên án tử hình oan sai về tội “mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy”. Theo hồ sơ vụ án, ngày 18/6/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã đưa ra xét xử 16 bị cáo trong một đường dây vận chuyển, mua bán gần 100 bánh hêrôin xảy ra tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Trong số can phạm bị đưa ra xét xử, có 5 bị cáo bị Hội đồng xét xử tuyên án tử hình về tội “mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy”, trong đó có bị cáo Nguyễn Minh Hùng. Xét thấy chưa đủ chứng cứ để buộc tội, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh đã hủy án tử hình đối với Nguyễn Minh Hùng, trả hồ sơ cho Tòa cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại. Ngày 31/5/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lần 2 và tiếp tục tuyên án tử hình Nguyễn Minh Hùng về tội “mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy”. Nguyễn Minh Hùng tiếp tục chống án và được Tòa phúc thẩm xem xét, hủy án lần 2 để điều tra lại, với lý do: Không có tình tiết, chứng cứ gì mới để buộc tội Nguyễn Minh Hùng về tội mua bán ma túy. Qua quá trình điều tra lại, Công an tỉnh Tây Ninh cũng không tìm được chứng cứ để buộc tội Nguyễn Minh Hùng. Tại buổi công khai xin lỗi, ông Nguyễn Minh Hùng yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh phải bồi thường thiệt hại về tinh thần, vật chất trong suốt thời gian bị giam theo Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Trách nhiệm bồi thường của Tòa án đó là việc Nhà nước bồi thường hoàn toàn hoặc một phần thiệt hại về vật chất, khắc phục các hậu quả của thiệt hại về tinh thần và phục hồi lại các quyền bị tổn thất cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi ra bản án trái pháp luật của Tòa án gây ra. Tác giả sẽ phân tích cụ thể tại mục 2.4.

2.4 Trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong trường hợp ra bản án trái pháp luật

Trong một nhà nước pháp quyền, mọi hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra, cho dù chủ thể đó là ai. Trong quan hệ giữa Nhà nước với người dân, nếu người dân vi phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự đối với nhà nước và các chủ thể khác. Ngược lại, Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật mà gây thiệt hại cho người dân thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Chủ thể chịu trách nhiệm phải bồi thường trước cá nhân, tổ chức bị thiệt hại là Nhà nước (chủ thể công quyền) chứ không phải là bản thân Tòa án hoặc Thẩm phán, Hội thẩm vi phạm. Chi phí bồi thường được lấy từ ngân sách Nhà nước.

Điều 8 Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật”. [5, Điều 8]

Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm gây thiệt hại khi cố ý ra bản án trái pháp luật phải chịu trách nhiệm hoàn trả cho Nhà nước, tuy nhiên trách nhiệm hoàn trả là trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm đối với Nhà nước và mức hoàn trả chỉ là một phần tùy thuộc vào tính chất, mức độ lỗi, hậu quả gây ra và điều kiện kinh tế của Thẩm phán, Hội thẩm; nếu lỗi do vô ý thì không phải hoàn trả.

Ví dụ: Ngày 7-1-2010, tại UBND phường Cô Giang, quận 1, TP HCM, chị Trương Thị Kim Hoàn 26 tuổi đã được Tòa án quận 1 tổ chức xin lỗi công khai vì đã kết án oan. Theo phán quyết trước đó, Tòa án quận 1 đã tuyên chị Trương Thị Kim Hoàn 10 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy”, nhưng cuối cùng, sau hơn bốn năm ngồi tù, chị Hoàn đã được giải oan. Tòa án quận 1, TP HCM đã bồi thường hơn 143 triệu đồng và đăng lời xin lỗi trên báo chí.

Theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước (Luật TNBTNN), trách nhiệm bồi thường của Tòa án đối với những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi ra bản án trái pháp luật được quy định như sau:

2.4.1 Trách nhiệm bồi thường của Tòa án khi ra bản án hình sự trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Toà án cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án vì người đó không phạm tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội;
  2. b) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  3. c) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội;
  4. d) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.

Toà án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  2. b) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội;
  3. c) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm giữ nguyên bản án của Toà án cấp dưới tuyên bị cáo có tội trong các trường hợp sau đây: Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

  1. a) Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành phạm tội;
  2. Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  3. Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.

Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương (sau đây gọi chung là Toà có thẩm quyền) xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm giữ nguyên bản án của Toà án cấp dưới tuyên bị cáo có tội trong các trường hợp sau đây:

  1. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tối cao và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  2. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tối cao để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  3. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tối cao để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.

2.4.2 Trách nhiệm bồi thường của Tòa án khi ra bản án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính trái pháp luật

Tòa án cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp ra bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp ra bản án, quyết định phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp ra quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm đã có hiệu lực pháp mà bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

2.4.3  Thủ tục giải quyết bồi thường Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Theo quy định của Luật TNBTNN thì người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay khi cho rằng hành vi của người thi hành công vụ trái pháp luật, mà đòi hỏi phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật.

Tại khoản 3 Điều 3 của Luật TNBTNN quy định: “Văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ là quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Như vậy, văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người đã tiến hành tố tụng ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật là một trong các văn bản như:

Bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật xác định người đã tiến hành tố tụng đó phạm tội ra bản án trái pháp luật hoặc tội ra quyết định trái pháp luật hoặc tội làm sai lệch hồ sơ vụ án;

Các quyết định gồm Quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 164 BLTTHS, Quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 1 Điều 169 BLTTHS, Quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án theo quy định tại Điều 180 BLTTHS vì lý do người đã tiến hành tố tụng ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25 BLHS.

Quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo của Chánh án Tòa án xác định người đã tiến hành tố tụng có hành vi ra bản án mà biết rõ là trái pháp luật hoặc ra quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án trong trường hợp người đã tiến hành tố tụng chưa bị khởi tố hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử về những hành vi này thì bị chết…

Theo Tiến sỹ, Thẩm phán Nguyễn Văn Cường – Phó Viện trưởng Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, việc xác định hành vi của người có thẩm quyền “biết rõ là trái pháp luật” là rất khó khăn, trừ khi hành vi này cấu thành tội phạm theo các điều của BLHS. Đồng thời yếu tố “lỗi” của người có thẩm quyền cũng không được quy định rõ ràng, bởi nếu bản án, quyết định bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm thì trong các quyết định đó cũng không có nhận định là người ra bản án, quyết định có hành vi trái pháp luật. Trong khi đó, Luật TNBTNN quy định tại Điều 32 và Điều 33 xác định, Tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi ra bản án, quyết định sơ thẩm (đã có hiệu lực pháp luật); ra bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp bản án, quyết định bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà chỉ thực hiện bồi thường trong trường hợp ra bản án, quyết định mà “biết rõ” là trái pháp luật hoặc cố ý” làm sai lệch hồ sơ vụ án – tức là do lỗi cố ý (khoản 4 Điều 28 của Luật TNBTNN). Trong khi đó, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính thì cấp giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền xem xét đối với kết luận của bản án, quyết định bị kháng nghị có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hay không; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hay không, mà không có thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, kết luận các sai sót của bản án, quyết định bị kháng nghị là do lỗi cố ý hay do trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng.

Mặt khác, để xác định việc ra bản án, quyết định trái pháp luật (không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật) do cố ý hay do trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng là điều không dễ dàng. Thực tế cho thấy, số vụ án cố tình xử trái pháp luật bị phát hiện chỉ là một phần nhỏ. Phần lớn các trường hợp xét xử sai do cố tình đổi trắng thay đen (có tiêu cực) bị cấp giám đốc thẩm xử hủy án nhưng khi kiểm điểm để xét tái bổ nhiệm lại đỗ lỗi cho là do trình độ, năng lực hạn chế. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Vậy, để có cơ sở cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thì ai, cơ quan nào có trách nhiệm điều tra, kết luận khi ra bản án, quyết định bị hủy mà biết rõ là trái pháp luật – Điều này Luật còn bỏ ngỏ. Do đó, số lượng người được bồi thường do hành vi ra bản án trái pháp luật hiện nay còn ở số lượng rất hạn chế. Thiết nghĩ, nếu Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước quy định trong mọi trường hợp xử sai (trừ trường hợp xử sai vì lý do khách quan) đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thì không chỉ bảo đảm sự bình đẳng và triệt để trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại mà còn góp phần hạn chế tiêu cực trong hoạt động xét xử.

Ngày 18/9/2012 vừa qua, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp đã ký kết Thông tư liên tịch “Hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính”. Thông tư này gồm có 5 chương và 28 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 12/11/2012 đã góp phần đảm bảo thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiệu quả hơn trong thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; đảm bảo nguyên tắc giải quyết bồi thường kịp thời, công khai, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và Nhà nước. Ngoài ra, Thông tư đã góp phần khắc phục một phần nào những hạn chế, vướng mắc đang tồn tại trong thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính gây ra do chưa có văn bản hướng dẫn thi hành thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.

2.5 Các nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng ra bản án trái pháp luật

2.5.1  Các nguyên nhân khách quan Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Thứ nhất, các quy định của pháp luật chưa đầy đủ và chưa hoàn thiện.

Trong những năm vừa qua, Quốc hội đã ban hành nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh quan trọng về lĩnh vực tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nhìn chung, khối lượng văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua khá nhiều, song một số văn bản chất lượng chưa cao. Các văn bản hướng dẫn thường chậm, đôi khi còn chưa đầy đủ và rõ ràng nên việc nhận thức và áp dụng còn chưa thống nhất giữa các cấp xét xử hoặc giữa các địa phương, tạo kẽ hở cho việc lợi dụng để vi phạm pháp luật. Do đó, nhiều bản án áp dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ.

Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, …) cũng chưa thật chặt chẽ và đầy đủ, làm cho quá trình giải quyết vụ án, thực hiện các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng gặp những khó khăn, vướng mắc. Các quy định về nâng cao chất lượng tranh tụng nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa thực sự được chú ý, sự tham gia của luật sư vào quá trình tố tụng còn gặp cản trở về mặt thực tiễn.

Các quy định về điều tra, truy tố và xét xử về Tội ra bản án trái pháp luật còn khiêm tốn, chưa tạo được cơ sở pháp lý chặt chẽ nên việc phát hiện, truy tố và xét xử về loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn. Các bản án xét xử quyết định hình phạt đối với người phạm tội còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe và phòng ngừa chung. Nhiều trường hợp còn được miễn truy cứu TNHS, miễn hình phạt.

Thứ hai, cơ sở vật chất ngành Tòa án còn thiếu thốn, chế độ đãi ngộ còn quá thấp, chưa tương xứng với vị trí và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân.

Thực tế, chưa nói đến vùng sâu, vùng xa, ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, trụ sở Tòa án, cơ sở vật chất còn rất yếu kém. Có thời điểm, ở Hà Nội có tới 4 Tòa án cấp huyện phải đi thuê trụ sở và chịu cảnh chật chội. Mỗi năm, có một số Tòa án cấp huyện xét xử và giải quyết trên 1.000 vụ án. Số lượng án tăng lên hàng năm nhưng vì trụ sở phải đi thuê hoặc quá chật chội và không có kinh phí nên nhiều Tòa không thể tuyển và bố trí thêm nhân sự. Dẫn đến công việc quá tải, án giải quyết nóng vội, chủ quan hoặc để tồn đọng, quá hạn. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Thực tiễn hoạt động xét xử thời gian qua cho thấy tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện, tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp hơn về tính chất. Thực tiễn giai đoạn tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện vừa qua cho thấy, cường độ lao động của cán bộ Tòa án nhân dân cấp huyện gia tăng, tính chất công việc ngày một phức tạp nhưng chế độ tiền lương, phụ cấp chưa được cải thiện nên có những cán bộ Tòa án còn gặp nhiều trong công tác và đời sống. Ví dụ như lương của Thẩm phán cấp huyện khởi điểm là 2,34 cao nhất cũng chỉ là 5,44 tính cả phụ cấp thì mức lương dao động cũng chỉ từ 2 – 4,5 triệu đồng. Với vật giá đắt đỏ như hiện nay thì Thẩm phán rất khó sống bằng đồng lương.

Chính vì đời sống khó khăn nên đáng buồn là có số ít Thẩm phán không giữ được phẩm chất đạo đức nghề nghiệp người Thẩm phán, không vượt qua được những cám dỗ về vật chất, vi phạm những quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, dẫn đến tỷ lệ án bị hủy, sửa cao. Thậm chí có những Thẩm phán đã vi phạm pháp luật hình sự bị truy tố trước pháp luật, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi thiết nghĩ Nhà nước cần phải coi Thẩm phán là một nghề đặc biệt, cần có chế độ ưu đãi đối với đội ngũ Thẩm phán nói riêng và cán bộ ngành Tòa án nói chung, làm sao để họ và gia đình có thể sống bằng đồng lương của họ. Có như vậy họ mới không phải có những lấn bấn riêng tư, sẵn sàng dẹp bỏ những mưu cầu lợi ích cá nhân để thực hiện phép công, để mang lại một bản án thực sự công bằng, đúng pháp luật.

Có một điều nữa, đó là tính nguy hiểm của nghề Thẩm phán, đã có không ít Thẩm phán bị tấn công, trả thù… nhưng Nhà nước chưa có cơ chế bảo vệ Thẩm phán. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại thời điểm giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội đã từng chia sẻ: “Đúng là ngành này rất khó thu hút người vì ơn thì ít mà oán thì nhiều, cộng việc vừa khó vừa khổ”. Chính vì chưa có quy định bảo vệ Thẩm phán nên đã có những trường hợp nhà của một Thẩm phán ở Bắc Giang bị đặt mìn nhiều lần mới bắt được thủ phạm hay một nữ Thẩm phán ở Hà Nội bị tạt axit hủy hoại cả khuôn mặt. Tuy kẻ thủ ác đã bị trừng trị nhưng vết thương trên thân thể những người Thẩm phán lại theo họ suốt quãng đời còn lại. Đây chính là những thiệt thòi không thể bù đắp được đối với những người Thẩm phán đã xả thân để công lý được thực thi.

2.5.2  Các nguyên nhân chủ quan Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Thứ nhất: Các Thẩm phán hoặc cán bộ Tòa án có vi phạm đa phần do mang nặng chủ nghĩa cá nhân; thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lỗi sống; chưa ý thức rõ trách nhiệm, đạo đức, tác phong của người cán bộ Tòa án; có lối sống buông thả, thực dụng, cơ hội; chưa thực hiện nghiêm túc quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân.

Đây được coi là nguyên nhân chính, gắn liền với những yếu tố tiêu cực như bệnh quan liêu, cửa quyền, thiếu công khai, minh bạch và tham nhũng … dẫn đến các hiện tượng như cố ý vi phạm pháp luật, chạy án, làm sai lệch hồ sơ vụ án. Việc cố ý vi phạm này bắt nguồn từ sự thiếu bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng vững vàng và sự sa ngã trước cám dỗ của quyền lực, lợi ích vật chất của một bộ phận biến chất, tha hóa.

Thứ hai: do lãnh đạo đơn vị chưa nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, Thẩm phán.

Đội ngũ lãnh đạo ở một số Tòa án địa phương có trình độ quản lý còn hạn chế, chưa sâu sát trong công tác quản lý cán bộ, thiếu những hình thức, biện pháp thích hợp để quản lý, kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, Thẩm phán nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn ngay từ đầu đối với những biểu hiện sai trái của Thẩm phán, cán bộ, công chức để phòng ngừa vi phạm. Chưa làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ; nhất là áp dụng các biện pháp về phòng chống tham nhũng nên việc phòng ngừa chưa cao. Đôi khi một số lãnh đạo có phong cách làm việc quan liêu, cửa quyền, dung túng, chỉ đạo cho cán bộ vi phạm, dùng quyền lực để áp đặt, buộc cấp dưới phải vi phạm pháp luật, dẫn đến các hiện tượng như chạy án, làm sai lệch hồ sơ vụ án để che dấu tội phạm … Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Thứ ba: do năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật của một số Thẩm phán, Hội Thẩm còn non yếu, chưa nắm vững và cập nhật các kiến thức pháp lý; chưa có ý thức tự học hỏi, trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật các kiến thức mới liên quan tới lĩnh vực công việc của mình nên ngày càng lạc hậu, lúng túng khi được giao giải quyết.

Một số Tòa án địa phương chưa quan tâm làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thuộc quyền quản lý. Do đó, nhiều lĩnh vực đòi hỏi nghiệp vụ như (công nghệ thông tin, giao dịch dân sự – kinh tế – hợp đồng, tài chính ngân hàng, chứng khoán …) nhưng chưa được bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ đầy đủ nên không nắm bắt được.

Đối với các nguyên nhân của việc ra bản án trái pháp luật nêu trên thì nguyên nhân chủ quan là chính.

Kết luận chương 2 Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

Theo quy định Bộ luật hình sự 1985 thì đối tượng tác động của tội phạm này còn bao gồm cả những quyết định có tính chất như bản án do Thẩm phán và Hội thẩm ban hành như: quyết định hoà giải thành, quyết định kê biên tài sản, quyết định xử lý vật chứng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù … Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 1999 đã quy định Tội ra quyết định trái pháp luật thì các quyết định trên thuộc đối tượng tác động của Tội ra quyết định trái pháp luật.

Các quy định tại chương XXII của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể chế hóa được một phần đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về đường lối xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ tư pháp khi thực hiện nhiệm vụ chức năng của mình. Việc sửa đổi lần này đã phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tuy nhiên, kể cả sau khi sửa đổi, một số quy định trong Bộ luật này vẫn còn bộc lộ những vấn đề bất cập, khó áp dụng trong thực tiễn:

Điều luật quy định “biết rõ là trái pháp luật”, tức là người phạm tội phải biết rõ bản án mà mình ban hành là trái pháp luật, các quyết định trong bản án là không đúng với các quy định của pháp luật, không đúng với sự thật khách quan của vụ án; nếu do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc vì lý do khách quan mà Thẩm phán, Hội thẩm không biết rõ là trái pháp luật thì không phạm tội ra bản án trái pháp luật.

Thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều bản án trái pháp luật ở mức độ khác nhau, trong đó có không ít bản án bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm huỷ để điều tra xét xử lại, thậm chí có bản án kết án oan người vô tội nhưng hầu hết những Thẩm phán ra bản án này thường chỉ nhận là do nhận thức, do trình độ nghiệp vụ non kém, chứ không có ai nhận là “biết rõ là trái pháp luật”. Đây thực sự là một trong những vấn đề hết sức khó khăn và bất cập khi điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này.

Việc xác định hậu quả của hành vi ra bản án trái pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc định khung hình phạt. Tuy nhiên, BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể nào để xác định trong trường hợp nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn trong việc truy tố và xét xử, nên trong một số trường hợp ra bản án trái pháp luật, người phạm tội chỉ bị xử lý hành chính hoặc hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, chưa đủ sức răn đe. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993