Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

TÓM TẮT

Tên đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nội dung: Luận văn này đã tiến hành tổng hợp lý thuyết liên quan đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (TNLCB) của các NHTM. Đồng thời, luận văn đã tiến hành lược khảo các nghiên cứu liên quan để xác định các khoảng trống nghiên cứu nhằm tạo cơ sở để đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu áp dụng cho bối cảnh NHTM Việt Nam.

Dựa trên số liệu của 24 NHTM Việt Nam đại diện cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trong giai đoạn 2013 – 2024 với sự trợ giúp của phần mềm STATA 14.0 để cho ra các kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Trong đó, tác giả đã dựa trên các giá trị trung bình của các biến số qua các năm để đánh giá tình hình chung và thống kê mô tả để xác định giá trị trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất và độ lệch chuẩn.

Tiếp đó là phân tích sự tương quan của các biến độc lập nhằm phát hiện không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng. Dựa trên kết quả hồi quy của ba mô hình OLS, FEM, REM để lựa chọn mô hình phù hợp nhất đó là REM. Từ đó, tiến hành kiểm định các khuyết tật của mô hình này và sử dụng phương pháp FGLS để khắc phục nhằm đưa ra kết quả nghiên cứu cuối cùng đó là quy mô ngân hàng, tỷ lệ chi phí hoạt động, hệ số an toàn vốn, đa dạng hóa thu nhập và tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng cùng chiều với NIM, ngược lại, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có ảnh hưởng ngược chiều với NIM. Dựa vào chiều hướng ảnh hưởng đó làm cơ sở đề đề xuất cho các NHTM nhằm tăng trưởng Thu nhập lãi cận biên trong thời gian tiếp theo.

Từ khóa: NIM, ngân hàng thương mại Việt Nam, đa dạng hóa thu nhập, GDP.

ABSTRACT Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Thesis title: Factors affecting the rate of profit margin of commercial banks in Vietnam.

Content: This thesis has conducted a synthesis of theories related to the rate of marginal interest income (CBT) of commercial banks. At the same time, the thesis has conducted a review of related studies to identify research gaps to create a basis for proposing research models and hypotheses applicable to the context of Vietnamese commercial banks.

Based on the data of 24 Vietnamese commercial banks representing the entire banking system in the period 2013 – 2024 with the help of STATA 14.0 software to produce empirical research results. In which, the author has based on the mean values of the variables over the years to evaluate the general situation and descriptive statistics to determine the mean, maximum, minimum and standard deviation. Next, the correlation analysis of the independent variables was performed to detect no serious multicollinearity. Based on the regression results of three models OLS, FEM, REM to choose the most suitable model that is REM. From there, test the defects of this model and use the FGLS method to overcome in order to give the final research results that are bank size, operating cost ratio, safety factor, capital, income diversification and inflation rate have a positive effect on NIM, on the contrary, the credit risk provision ratio has a negative effect on NIM. Based on that trend of iluence as a basis for proposals for commercial banks to increase equity capital in the next time.

Keywords: NIM, commercial banks in Vietnam, income diversification, GDP

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1. Lý do chọn đề tài

Ngân hàng thương mại (NHTM) “hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống NHTM tác  động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển” của nền kinh tế hàng hoá, “ngược lại kinh tế hàng hoá  phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó – kinh tế thị  trường – thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.” Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng được coi là hoạt động chính của các NHTM. Các NHTM hoạt động huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với chi phí chính cho hoạt động này là lãi huy động, và dùng số tiền trên để đầu tư hoặc cho vay các cá nhân, tổ chức đang thiếu hụt nguồn vốn với doanh thu là lãi cho vay. Sự chênh lệch giữa tổng doanh thu từ lãi và tổng chi phí trả lãi chia cho  tổng tài sản  sinh lời bình quân được gọi là tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net interest margin –  NIM), đây là chỉ tiêu tài chính quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM vì nó cho thấy khả năng kiểm soát tài sản sinh lời và khả năng duy trì nguồn vốn có chi phí thấp.

Sau khi gia nhập WTO vào ngày 11/01/2009 đến thời điểm hiện nay là 16 năm thì hệ thống NHTM Việt Nam có những cột mốc đánh dấu sự thăng trầm rất rõ rệt. Điều này được thể hiện thông qua khủng hoảng tài chính năm 2010, các NHTM Việt Nam chạy đua trong cuộc đua lãi suất và có thời điểm lãi huy động lên đến 21%/năm. Đến đầu năm 2013 thì việc tăng lãi suất giữa các ngân hàng trở nên căng thẳng hơn và chính điều này tạo ra những tiềm ẩn về nguy cơ rủi ro, với biến động lãi suất dao động từ 22% – 24%/năm và có những thời điểm lên đến 25% (Nguyễn Kim Thu và Đỗ Thị Thanh, 2016). Sau đó đến giai đoạn 2014 – 2015 tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam gia tăng nhanh chóng với sự đe dọa thanh khoản thấp nhất lịch sử và đe dọa hàng loạt các rủi ro vỡ nợ. “Trước tình hình đó, Chính phủ ra quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2014 về việc phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2013 – 2017 (Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương, 2017)”. Sau giai đoạn đó thì các NHTM Việt Nam bắt đầu nhìn nhận lại HĐKD của mình không phải cứ mãi chạy đua lãi suất huy động lẫn cấp tín dụng để kiếm lợi nhuận một cách bất chấp mà cần phải cân đối với tình hình nội tại NHTM cũng như vĩ mô nền kinh tế. Hay nói cách khác các NHTM Việt Nam cần phải nhận thức một cách đầy đủ tổng quát về Thu nhập lãi cận biên của mình không chỉ dừng lại tại việc huy động và cho vay mà còn dựa trên các tính chất và hoạt động đặc thù khác của NHTM và thị trường. Mặt khác, NHTM với vai trò là trung gian tài chính của thị trường và thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, do đó nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến rủi ro cũng như độ nhạy của thị trường. Vì vậy, bản chất của Thu nhập lãi cận biên là một trong những chỉ tiêu để phản ảnh thu nhập hay khả năng sinh lời của NHTM (Nguyễn Văn Tiến, 2017) nó cũng sẽ thể hiện cho sức mạnh hay sức khỏe tài chính của NHTM và là một chỉ tiêu để khẳng định năng lực kinh doanh hiệu quả của NHTM cũng như thay cho lời cam kết về tổn thất được hạn chế đối với cổ đông, trái chủ, khách hàng của NHTM.

Trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2024, khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra đã có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Năm 2021, kinh tế toàn cầu tăng chậm dưới ảnh hưởng căng thẳng thương mại giữa các nước lớn, nguy cơ Brexit không đạt được thỏa thuận, rủi ro địa chính trị tại nhiều khu vực, thương mại toàn cầu sụt giảm. Mặt bằng lạm phát và giá hàng hóa thế giới ở mức thấp hơn so với cùng kỳ. Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2021 đạt 2,9% thấp hơn mức 3,6% của năm 2020, lạm phát toàn cầu tăng chậm lại, từ mức 3,6% năm 2020 xuống mức 3,5% năm 2021. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không ngoại lệ trong các nước có nền kinh tế đang phát triển khi bị ảnh hưởng nghiệm trọng từ nền kinh tế toàn cầu, với thực tế là trong thời gian qua ngân hàng bộc lộ một số yếu điểm, tỷ suất sinh lợi trong những năm gần đây có tăng trưởng không đáng kể, điển hình đến cuối năm 2021, ROE và NIM toàn hệ thống lần lượt là 1,08% và 15,29%, tăng nhẹ so với năm 2020 (năm 2020 lần lượt là 0,9% và 11,8%). Vấn đề đặt ra là tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2013 – 2024 như thế nào? Cần có những nghiên cứu thường xuyên hơn để cập nhật những thông tin mới nhất ? Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Trên “thế giới đã có rất nhiều “nghiên cứu về thu nhập lãi cận biên, chẳng hạn như nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến Thu nhập lãi cận biên” của ngân hàng ở Đông Nam Á của Doliente (2007), Kasman (2012), Zhou (2010)… Ở Việt Nam, có nghiên cứu của Hoàng Kim Khánh (2017), Nguyễn Kim Thu (2013) đã xác định được các yếu tố tác động đến thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam” bao gồm quy mô ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn, tăng trưởng tín dụng, nợ xấu hay dự  phòng rủi ro tín dụng hoặc quản lý chi phí.  Tuy nhiên, đối với các nghiên cứu này thì dữ liệu nghiên cứu còn hạn chế, chưa được cập nhập, chưa “phù hợp với tình hình kinh tế thị trường hiện nay, do đó chưa phản ánh hết tác động của các yếu tố đến  thu nhập lãi cận biên trong giai đoạn hiện tại. Từ những minh chứng về hạn chế, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm tìm hiểu và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tỷ lệ thu nhập lãi cận biên với mong muốn có một số đóng góp giúp các nhà quản trị ngân hàng cải thiện tỷ lệ NIM và đưa ra những quyết định hợp lý, hiệu quả trong quá trình quản lý, vận hành hệ thống ngân hàng.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Luận văn được thực hiện nhằm xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng đến tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên  tại NHTM Việt Nam giai đoạn 2013 – 2024, tác giả đề xuất các hàm ý chính sách nhằm cải thiện tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên từ đó góp phần tăng trưởng tỷ lệ này tại NHTM Việt Nam.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn có những mục tiêu cụ thể như sau:

  • Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam giai đoạn 2013 –
  • Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố lên tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam giai đoạn 2013 – 2024.
  • Đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tăng trưởng tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam thời gian tới.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

“Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, đề tài nghiên cứu cần giải quyết các câu hỏi sau:”

  • Những yếu tố nào ảnh hưởng đến tỷ lệ tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam giai đoạn 2013 – 2024?
  • Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam giai đoạn 2013 – 2024 như thế nào?
  • Những hàm ý chính sách nào khả thi có thể đề xuất nhằm cải thiện tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của NHTM Việt Nam trong thời gian tới?

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của các NHTM.

Phạm vi nghiên cứu về không gian: 24 NHTM Việt Nam

Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của NHTM Việt Nam giai đoạn năm 2013 – 2024. Ngoài ra, nghiên cứu còn thu thập các số liệu kinh tế vĩ mô gồm: Tăng trưởng kinh tế (GDP), tỷ lệ lạm phát theo thống kê thực tế hàng năm của nền kinh tế Việt Nam. Lý do chọn thời gian nghiên cứu từ từ 2013 – 2024 là vì giai đoạn này các doanh nghiệp tái cấu trúc, giảm đòn bẩy nợ, thị trường chứng khoán và bất động sản sụt giảm sâu đã khiến tín dụng tăng không cao. Mặt khác, trong giai đoạn này thì các quy đinh và chính sách của NHNN về thắt chặt và xử lý các vi phạm liên quan đến hoạt động tín dụng ngày càng phổ biến, do đó các NHTM có những hoạt động đa dạng hóa thu nhập nhiều hơn để mở rộng lợi nhuận. Đến năm 2022 chứng kiến những giai đoạn đầu của dịch bệnh Covid-19 kéo dài đến năm 2023, do đó, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có nhiều sự ảnh hưởng nhất định. Do đó, tác giả muốn xem xét trong mốc thời gian 11 năm thì Thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam bị các yếu tố nào chi phối, ảnh hưởng.

1.5 Phương pháp nghiên cứu

Bước đầu tiên, tác giả sẽ tiến hành tổng hợp “khung lý thuyết liên quan đến Thu nhập lãi cận biên và các yếu tố tác động. Đồng thời kết hợp với các lược khảo các nghiên cứu trước để xác định các khoảng trống nghiên cứu nhằm đề xuất mô hình cùng với giả thuyết nghiên cứu về các yếu tố tác động đến Thu nhập lãi cận biên của các NHTM niêm yết trên TTCK Việt Nam. Sau đó, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu báo  cáo tài  chính, sau đó tiến hành xử lý và dựa trên kết quả mô hình hồi quy” đa biến để đánh giá chiều ảnh hưởng của các yếu tố trong mô hình  nghiên  cứu đến  Thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam. Nghiên“cứu định lượng được tiến hành thông qua xử lý kết quả thu thập các số liệu thứ cập của các NHTM Việt Nam từ 2013 – 2024. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Số liệu được thể hiện qua các mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM. Sau đó, tiến hành lựa chọn mô hình phù hợp và có tính vững nhất thông qua kiểm định Hausman. Từ mô hình cuối cùng được lựa chọn sẽ kiểm định các khuyết tật như đa cộng tuyến, tự tương quan, phương sai thay đổi. Nếu có xuất hiện các khuyết tật thì tiến hành thực hiện phương pháp FGLS để khắc phục. Sau đó, dựa trên kết quả khi đã khắc phục để kiểm định giả thuyết thống kê và tiến hành thảo luận kết quả nghiên cứu này.”Từ đó sẽ tiến hành đề xuất các hàm ý chính sách tương ứng theo các yếu tố ảnh hưởng đến Thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam.

1.6 Đóng góp của đề tài

Việc nghiên cứu về tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên chủ yếu tập trung vào ý nghĩa thực tiễn. Kết quả “nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về sự tác động cũng như mức độ của các yếu tố nội tại lẫn vĩ mô nền kinh tế đến Thu nhập lãi cận biên, thông qua số liệu thứ cấp được thu thập từ các NHTM Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu” sẽ đề xuất những hàm ý chính sách mang tính khả thi đến các đơn vị tổ chức có liên quan để duy trì tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên tại mức tăng trưởng tốt cùng với sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam trong tương lai.

1.7 Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 5 chương như sau:

  • Chương 1: Giới thiệu đề tài
  • Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tình hình nghiên cứu
  • Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu
  • Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
  • Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Chương 1 trình bày lý do chọn đề tài và các mục tiêu cũng như câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, cũng định ra đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Trong chương này cũng trình bày tổng quát về phương pháp nghiên cứu để giải quyết các vấn đề cần nghiên cứu của đề tài. Từ đó, tác giả xác định đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn của đề tài.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Tổng quan về tỷ lệ thu nhập lãi cận biên  

2.1.1. Khái niệm về tỷ lệ thu nhập lãi cận biên

Tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên (Net interest margin- NIM) của NHTM được định nghĩa là chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi chia cho tổng tài sản sinh lời. Biên độ được tính cho một khoảng thời gian, một quý hoặc một năm và được thể hiện bằng một tỷ lệ phần trăm (Golin, 2001). Hempel và cộng sự (1986) cho rằng Thu nhập lãi cận biên là rất hữu ích trong việc đo lường những thay đổi và xu hướng trong biên độ lãi suất và so sánh thu nhập lãi giữa các ngân hàng (Golin, 2001)

Nguồn: Golin (2001) Trong đó: Thu nhập lãi thuần là khoảng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Thu nhập lãi được xác định là tổng thu nhập từ cấp tín dụng, đầu tư tài chính trong năm tài chính. Chi phí lãi là các khoản lãi được thanh toán cho hoạt động huy động cũng như các khoản nợ phải trả của NHTM.

Tổng tài sản có sinh lời là tổng các khoản mục tiền gửi tại NHNN, các TCTD khác và cho vay các TCTD khác (không bao gồm Dự phòng rủi ro), cấp tín dụng (không bao gồm Dự phòng rủi ro), mua nợ (không bao gồm Dự phòng rủi ro), đầu tư TTTC được phản ánh trên BCĐKT về chế độ Báo cáo tài chính đối với các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Nguyễn Văn Tiến, 2017).

2.1.2. Ý nghĩa tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đối với các ngân hàng thương mại Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên chỉ ra năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo của NHTM trong việc cân đối sự tăng trưởng các khoản thu của ngân hàng (cấp tín dụng, đầu tư và thu phí dịch vụ) và tiết kiệm các khoản chi phí (chi lãi huy động TGTK, lãi vay, tiền lương và phúc lợi). Hay nói cách khác, tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên đo mức chênh lệch giữa khoản thu từ lãi và chi trả lãi của NHTM thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ sự sinh lời từ tài sản và tận dụng các nguồn vốn có chi phí sử dụng thấp.

Sự tăng giảm trong tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên giúp các nhà đầu tư có nhận định tương đối về LN chủ yếu của NHTM, từ đó đưa ra quyết định đầu tư hợp lý. Đối với nhà quản trị , tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên là thước đo trực quan về tính hiệu quả trong HĐKD truyền thống, đánh giá tính hợp lý giữa thu chi của NHTM (Phan Thị Thu Hà, 2015).

Nếu chỉ xét đến vấn đề LN thì tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên cao sẽ có lợi cho NHTM, vì tỷ lệ lãi tạo ra trên tài sản sinh lời cao, là một dấu hiệu cho thấy NHTM đang quản trị tốt TS có và TS nợ. Mặt khác, Thu nhập lãi cận biên cao mang đến sự ổn định nhất định cho hệ thống NHTM, khi mà lợi nhuận NHTM tăng lên từ Thu nhập lãi cận biên cao và LN này được chuyển thành VCSH (lợi nhuận giữ lại) của NHTM sẽ giúp NHTM đứng vững trước những biến động vĩ mô và những cú sốc kinh tế khác (Saunders và Schumacher, 2000). Ngược lại, khi tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên thấp, phản ánh hệ thống NHTM có tính cạnh tranh một cách tương đối, với mức chi phí trung gian tài chính thấp có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, nó cũng hàm ý rằng NHTM không thể cân đối nguồn TS có sinh lời hay chi phí lãi phát sinh quá nhiều. Khi đó, cho dù LN chung của NHTM cao nhưng hiệu quả sử dụng vốn thật sự của NHTM vẫn thấp, vì điều đó chứng tỏ NHTM đã phụ thuộc nhiều vào các khoản thu ngoài lại – các khoản thu không ổn định và không phải là chức năng trọng tâm của NHTM. Theo Doliente (2007), nếu tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên rất thấp thì không thể được cho là kết quả tích cực, đặc biệt là trong môi trường kinh tế có sự can thiệp vào những ngân hàng yếu kém về vốn và hoạt động không ổn định đang tồn tại.

Hạn chế của chỉ số tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên chỉ mang tính tương đối khi so sánh LN thuần từ lãi so với tổng TS có sinh lời. Một tỷ lệ thấp không hẳn do chi phí trả lãi để huy động nguồn vốn của NHTM quá cao, mà có thể do ngân hàng chưa cân đối nguồn TS có sinh lời, khiến chi phí lãi lấn át thu nhập lãi tạo ra. Đồng thời, đôi khi tỷ lệ này cao không phải do NHTM có nguồn thu lãi lớn mà do kết quả từ giảm thiểu chi phí và quản lý hiệu quả TS sinh lời. Ngoài ra, tỷ lệ này còn bị ảnh hưởng bởi chiến lược HĐKD trong từng thời kỳ hay tình hình khó khăn chung của nền kinh tế. Vì vậy, việc đánh giá tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên của các NHTM cần có sự thận trọng xem xét đa dạng nhiều yếu tố cả vi mô lẫn vĩ mô (Saunders và Schumacher, 2000).

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên tại các ngân hàng thương mại Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Theo Trầm Thị Xuân Hương (2015) thì LN là điều kiện quan trọng để đánh giá sự phát triển của một NHTM, hay nói cách khác nâng cao Thu nhập lãi cận biên cũng chính là nâng cao năng lực hay sức mạnh tài chính của NHTM. Tuy nhiên, để gia tăng được Thu nhập lãi cận biên của NHTM thì cần phải xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến nó, trong đó NHTM là trung gian tài chính của các đối tượng trong nền kinh tế vì vậy Thu nhập lãi cận biên của NHTM sẽ chịu ảnh hưởng của cả hai nhóm yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng. Cụ thể đó là:

2.2.1. Nhóm yếu tố khách quan

Tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người (GDP): Đối với một nền kinh tế thì NHTM có mức độ liên quan mật thiết đến gần như tất cả các ngành nghề hay lĩnh vực đời sống vì vậy mọi sự thay đổi của kinh tế – xã hội đều sẽ ảnh hưởng ngược trở lại hệ thống NHTM. Nền kinh tế phát triển, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP cao, ổn định từ đó cũng tạo điều kiện cho sự phát triển thuận lợi cho NHTM, thúc đẩy quả trình sản xuất kinh doanh cũng như hấp thụ vốn và hoàn trả vốn cho các đối tượng trong nền kinh tế. Theo nghiên cứu của Almeida và Divino (2017) thì GDP có mối quan hệ đồng biến với Thu nhập lãi cận biên. Theo Nasserinia và cộng sự (2016) thì lại cho rằng đây là mối quan hệ ngược chiều và theo Wahdan và cộng sự (2019) thì lại cho rằng không tồn tại mối quan hệ của hai yếu tố này.

Tỷ lệ lạm phát: Tại bất cứ nền kinh tế của quốc gia nào trên thế giới thì luôn có tồn tại lạm phát, lạm phát tăng cao sẽ làm thay đổi mức giá chung trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến sâu sắc đến ngân hàng kể cả các hoạt động huy động vốn cũng như cho vay, nó cũng tác động đến cả doanh thu hay chi phí và LN của doanh nghiệp. Vì vậy trên thế giới cũng có nhiều nghiên cứu liên quan đến mối liên hệ giữa lạm phát với LN của NHTM. San và cộng sự (2015) cho kết quả lạm phát tác động cùng chiều với Thu nhập lãi cận biên, Khrawish (2013) thì lại kết luận ngược lại lạm phát lại có quan hệ ngược chiều với Thu nhập lãi cận biên và Wahdan và cộng sự (2019) thì lại cho rằng không có sự tồn tại mối quan hệ của lạm phát và Thu nhập lãi cận biên.

2.2.2. Nhóm yếu tố chủ quan

Quy mô ngân hàng: Theo Nguyễn Đăng Dờn  (2020) thì quy mô NH thể hiện thông qua cơ cấu tài sản hay nguồn vốn của NHTM trên bảng Cân đối kế toán, nó thể hiện sự lớn mạnh trong hoạt động của NHTM và thị phần trong hệ thống NHTM trong quốc gia, quy mô NH nó thể hiện rất nhiều thông qua những tiêu chí như TS, cơ cấu nguồn vốn huy động – cho vay, thị trường hoạt động của ngân hàng,… Theo nghiên cứu của Wahdan và cộng sự (2019) thì không có mối quan hệ giữa hai yếu tố quy mô NH và Thu nhập lãi cận biên vì mặc dù quy mô ngân hàng lớn nhưng các hoạt động quản trị không hiệu quả thì cũng không chắc chắn được việc duy trì tỷ lệ này phát triển hay sụt giảm tương ứng. Nhưng theo Petria và cộng sự (2017); San và cộng sự (2015); Vincent và cộng sự (2015) thì Thu nhập lãi cận biên có mối quan hệ với quy mô của NH, do các NH tham vọng trong việc gia tăng TS để mở rộng quy mô nhưng vận hành kinh doanh lại không tốt hay áp lực chi trả các khoản vay các tổ chức khác lớn thì vẫn sẽ làm cho Thu nhập lãi cận biên suy giảm. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Tỷ lệ đòn bẩy tài chính: Theo Nguyễn Khắc Minh (2006) thì hoạt động huy động vốn của NHTM quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển bền vững của NH. Vốn đóng vai trò chi phối cũng như quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM trong đó VCSH giúp NHTM tiến hành hoạt động kinh doanh và quyết định quy mô của NH. Tỷ lệ VCSH trên tổng TS của NH cho thấy khả năng chịu thiệt hại cũng như khả năng phục hồi của NH khi đối diện với khủng hoảng. Theo Islam and Nishiyama (2018) đều sử dụng tỷ số vốn chủ sở hữu/tổng tài sản làm biến độc lập để nghiên cứu về vấn đề Thu nhập lãi cận biên của ngân hàng vì họ cho rằng “VCSH càng nhiều thì rủi ro của NH cũng từ đó được giảm thiểu và tạo được niềm tin của khách hàng.” Hay nói cách khác, đòn bẩy tài chính càng được duy trì với mức tỷ lệ tốt thì tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên cũng càng dễ dàng được tăng trưởng. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Hiệu quả quản lý của ngân hàng: Có thể hiểu là hiệu quả quản lý “nguồn nhân lực, hoạch định chiến lược kinh doanh, hiệu quả trong việc quản lý chi phí. Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn thì tác giả đề cập đến hiệu quả quản lý chi phí để xem đây là một yếu tố ảnh hưởng đến Thu nhập lãi cận biên của NH. Trong quản lý chi phí được đề cấp thì bao gồm cả việc quản lý các yếu tố đầu vào lẫn đầu ra và xem xét xem các yếu tố này có đem lại LN hay Hiệu quả hoạt động (Trần Huy Hoàng, 2012).

Mục đích quản lý chi phí để đảm bảo nguồn vốn mà NH huy động được luôn được sử dụng hiệu quả và tránh lãng phí. Mặt khác, quản lý chi phí của NHTM quyết định sự tồn tại của NH, giúp NH có thể sử dụng nguồn lực tối ưu nhất (Dawood, 2016; Almeida và Divino, 2017), đồng thời quản lý chi phí càng hiệu quả thì Thu nhập lãi cận biên cũng được nâng cao. Với chiến lược tối đa hóa lợi nhuận, các NHTM thường nâng cao Hiệu quả hoạt động của mình bằng cách giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ nhân viên. Vì vậy, thước đo phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của NH và năng suất lao động của nhân viên đó là chỉ tiêu sau: Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động, đây là một thước đo phản ánh mỗi quan giữa đầu vào và đầu ra hay nói cách khác nó phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của NH. Dựa trên công thức phản ảnh dễ dàng nhận ra nếu tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ hoạt động quản lý chi phí của NHTM không tốt dẫn đến lợi nhuận của NHTM sẽ suy giảm và tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên cũng giảm theo.

Tỷ lệ nợ xấu: Theo Nguyễn Đăng Dờn (2012) thì NHTM được xem là trung gian tài chính, là cầu nối của người cho vay và đi vay. Nhờ có NHTM mà quá trình sản xuất kinh doanh và vận hành trong nền kinh tế được diễn ra một cách liên tục, cũng từ đó mà ta có thể thấy lợi nhuận chủ yếu “của NHTM đến từ hoạt động cho vay của nó. Tuy nhiên tại bất cứ NHTM nào thì song song với hoạt động tín dụng chính là rủi ro tín dụng. Chất lượng tín dụng hay chất lượng các khoản cho vay thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu nó tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM.” Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì NHTM có nguy cơ đối diện với tổn thất càng cao và lợi nhuận của ngân hàng cũng từ đó mà giảm xuống, chỉ tiêu nợ xấu được đo lường bằng tổng nợ xấu trên tổng số dư cho vay. Nợ xấu là nợ xấu nội bảng, gồm nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 (TT 11/2023/TT-NHNN). Vì nợ xấu được định nghĩa là khoản cho vay thuộc nhóm 3,4 và 5 có “khả năng thu hồi dài hoặc không thể thu hồi cả gốc lẫn lãi, nên TN từ lãi của NHTM sẽ giảm khi NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao. Hay nói cách khác tỷ lệ nợ xấu có mối quan hệ nghịch biến” với Thu nhập lãi cận biên (Were và Wambua, 2016). Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Tỷ lệ thanh khoản: Tại các NHTM thì tính thanh khoản được hiểu là việc mà các NHTM có thể thực hiện các nghĩa vụ như tất toán các khoản TGTK, các khoản nợ phải trả khi đến hạn thanh toán, nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành thì sẽ đe dọa đối với NHTM về rủi ro thanh khoản hay các NHTM không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của mình (Trần Huy Hoàng, 2012). Do đó, các NHTM dù HĐKD tại bất cứ quy mô nào thì việc luôn duy trì một tỷ lệ thanh khoản nhất định nhằm giúp cho NHTM tránh được các tình huống mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản hoặc đe dọa Hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, để có thể nâng cao tính thanh khoản thì buộc các NHTM phải gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn chế cho vay và huy động vốn một cách liên tục với mức lãi suất cao. Xuất phát từ việc hạn chế cho vay thì LN của NHTM cũng từ đó bị ảnh hưởng theo xu hướng suy giảm, thay thế vào đó là các khoản vay được thẩm định khắt khe và chặt chẽ hơn là những khoản vay được gia tăng nhằm phát triển tín dụng nóng. Chính vì vậy thì nhu cầu vay của các đối tượng khách hàng sẽ suy giảm, ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của NHTM hay nói cách khác tính thanh khoản tăng sẽ làm làm giảm Thu nhập lãi cận biên.

Đa dạng hóa thu nhập: Theo Baele và cộng sự (2009) với tình hình cạnh tranh của các NHTM về HĐKD và gia tăng thị phần trong hệ thống thì các NHTM ngoài những sản phẩm kinh doanh truyền thống thì phải tích cực cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ mới hay bán chéo nhằm phục vụ được các nhu cầu mới của khách hàng cũng như kiếm được thu nhập nhiều hơn. Đồng thời, việc đa dạng hóa HĐKD của mình thì NHTM có thể tận dụng được các yếu tố đầu vào lao động và công nghệ vào nhiều mảng kinh doanh của mình để gia tăng LN, hay nói cách khác tránh lãng phí và thực hiện được hết công suất TS của NH (Stiroh, 2006).

2.3. Tình hình nghiên cứu Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

2.3.1. Các nghiên cứu trong nước

Nguyễn Kim Thu và Đỗ Thị Thanh (2016) trong nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến TN lãi thuần của các NHTM đã sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập của 5 NHTM có vốn sở hữu nhà nước và 28 NHTM tư nhân của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2013. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất lượng quản lý có quan hệ tỉ lệ nghịch với Thu nhập lãi cận biên,  mức ngại rủi ro của ngân hàng, rủi ro tín dụng có quan hệ đồng biến với Thu nhập lãi cận biên. Mối quan hệ đồng biến giữa rủi ro tín dụng hay mức ngại rủi ro với Thu nhập lãi cận biên, tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2017), tuy nhiên nhóm tác giả đã mở rộng hơn về dữ liệu thu thập từ 27 NHTMCP trong giai đoạn 20102015. Luận giải cho kết quả Rủi ro tín dụng và rủi ro NH lại ảnh hưởng tích cực đến Thu nhập lãi cận biên vì các tác giả cho rằng các NHTM luôn gia tăng tốc độ cạnh tranh với nhau thông qua việc mở rộng tín dụng hay tăng trưởng tín dụng nóng từ đó nới lỏng các quy định hay chính sách cho vay, chính điều này làm gia tăng rủi ro tại NHTM nhưng có thể sẽ làm gia tăng Thu nhập lãi cận biên của ngân hàng từ việc thu lãi vay. Mặt khác, trong nghiên cứu Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2017) quy mô VCSH, quy mô NH lại có ảnh hưởng cùng chiều với Thu nhập lãi cận biên.

Tuy nhiên, Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2018) khi nghiên cứu TN ngoài lãi và hiệu quả tài chính của các NHTM dựa trên dữ liệu của 33 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2015 thì cho rằng ngược lại. Luận giải cho việc này thì Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2017) cho rằng khi quy mô NH cũng như quy mô VCSH tăng thì các NHTM lại gia tăng được tiềm lực tài chính của mình tạo sự thuận lợi cho việc gia tăng LN hay Thu nhập lãi cận biên hơn. Nhưng Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2018) lại cho rằng khi muốn gia tăng quy mô NH thì cần phải gia tăng TS làm cho NHTM phải đối diện với áp lực vay nợ hay thanh toán để mở rộng, ngoài ra gia tăng VCSH mặc dù tận dụng được nguồn vốn dài hạn nhưng chi phí sử dụng vốn cao hơn chi phí sử dụng nợ thì vẫn sẽ làm cho lợi nhuận giảm nếu NHTM không hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, hai nhóm tác giả vẫn khẳng định việc gia tăng quy mô cho vay là một trong những điều kiện ảnh hưởng lớn đến việc gia tăng LN ròng của NHTM.

Đối với những nghiên cứu gần đây điển hình của Batten và Võ Xuân Vinh (2021) thì nhóm tác giả đã sử dụng số liệu thứ cấp của các NHTMCP niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016 với phương pháp GMM, kết quả nghiên cứu quy mô NH có ảnh hưởng cùng chiều với Thu nhập lãi cận biên, tương đồng với kết quả của Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2017). Nhưng lại cho rằng chi phí quản lý lại ảnh hưởng cùng chiều với Thu nhập lãi cận biên vì NHTM cần phải bỏ ra một số chi phí cố định để có thể mở rộng thị phần, gây được sự ảnh hưởng hay thu hút khách hàng đến với mình nhiều hơn. Đồng thời, tỷ lệ an toàn vốn và Rủi ro tín dụng cũng được nhóm tác giả khẳng định có mối quan hệ ngược chiều với LN. Đối với các nhân tố thuộc vĩ mô nền kinh tế, điển hình là tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát thì các nghiên cứu trong nước của các tác giả sau kết quả thực nghiệm cũng có những kết luận ngược so với khung lý thuyết, cụ thể Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2017); Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2018) cho rằng tốc độ GDP lại ảnh hưởng ngược chiều với LN của NHTM vì tốc độ này được duy trì với mức tăng trưởng nhưng đối với hoạt động cho vay thì vẫn phụ thuộc vào thiện chí trả nợ của khách hàng hoặc nếu NHTM không giảm được nợ xấu hay tỷ lệ dự phòng Rủi ro tín dụng từ những khoản vay khó đòi trong quá khứ thì LN vẫn không tăng trưởng. Đồng thời Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2018); Batten và Võ Xuân Vinh (2021) cùng đồng quan điểm cho rằng tỷ lệ lạm phát không gây ảnh hưởng ngược chiều đến LN mà lại còn tạo cơ hội thuận lợi cho các NHTM gia tăng LN, lý giải cho việc này các nhóm tác giả dựa trên kết quả thực nghiệm cho thấy dù tỷ lệ lạm phát tăng cao có thể làm giá cả hàng hóa tăng, sức mua chậm lại nhưng các NHTM có chiến lược bền vững trong việc kiềm chế các khoản vay với mối nguy hại lớn hay rủi ro cao, thay vào đó là tập trung các hợp đồng uy tín và của các khách hàng kinh doanh những mặt hàng ít bị phụ thuộc vào môi trường kinh doanh thì các món vay này vẫn mang được lợi nhuận cho NHTM. Hay nói cách khác, tỷ lệ lạm phát cao không đồng nghĩa với việc là các NHTM sẽ bị chi phối làm suy giảm hoạt động kinh doanh.

Mặt khác, như đã đề cập tại khung lý thuyết thì tỷ lệ đa dạng hóa thu nhập là một trong nhưng thành phần quan trọng đối với NHTM hiện nay trong việc gia tăng LN và chuyển mình để tái cơ cấu các HĐKD truyền thống. Nghiên cứu của Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2017) về sự ảnh hưởng đa dạng hóa thu nhập tại các NHTM ở Việt Nam đối với LN và rủi ro, sử dụng phương pháp ước lượng hồi quy dữ liệu, với dữ liệu bảng gồm 37 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2015 đã kết luận rằng các NHTM càng đa dạng hóa các HĐKD thì LN thu về càng cao. Tuy nhiên khi phân tích các yếu tố rủi ro cho thấy các NHTM đa dạng hóa càng cao thì LN điều chỉnh rủi ro càng giảm và điều này không có lợi cho các NHTM ở Việt Nam.

2.3.2. Các nghiên cứu nước ngoài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Các nghiên cứu nước ngoài đa phần tập trung vào các nhóm nhân tố nội tại cũng như vĩ mô, điển hình là nghiên cứu của San và cộng sự (2015) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến LN của các NHTM ở Malaysia giai đoạn 2005 – 2011, nhóm tác giả đã các đặc điểm đặc thù của NHTM và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế ảnh hưởng đến Hiệu quả kinh doanh của NHTM. Nhóm tác giả đã sử dụng ba chỉ tiêu đo lường LN của NHTM đó là ROA, ROE, NIM cùng với các biến độc lập để tạo ra mô hình nghiên cứu. Trong ba biến giải thích trên thì NIM được xem là phù hợp nhất để lý giải về khả năng sinh lời của NHTM và trong đó tỷ lệ VCSH/Tổng TS, tính thanh khoản, quy mô NH có tương quan đồng biến với LN.

Mối quan hệ đồng biến này cũng tương đồng với kết quả của Islam và Homaidi và cộng sự (2020); Sanko và cộng sự (2021). Tuy nhiên, Islam và Nishiyama (2018); Al-Homaidi và cộng sự (2022); Were và Wambua (2016) cũng có những kết luận trái ngược về quy mô NH ảnh hưởng tiêu cực đến LN của NHTM, các nhóm tác giả cũng cho rằng khi quy mô gia tăng thì các NHTM lại có xu hướng chi nhiều hơn các khoản chi phí để mở rộng do đó cũng sẽ làm suy giảm LN của NHTM. Lợi nhuận của NHTM sẽ được tính sau khi các ngân hàng đã loại trừ các khoản chi phí hay các NHTM luôn tập trung vào việc làm sao để tối ưu hóa các khoản chi phí, do đó, chi phí ảnh hưởng ngược chiều với LN trong ngân hàng (San và cộng sự, 2015; Were và Wambua, 2016; Rahman và cộng sự, 2017). Nhưng ngược lại các nghiên cứu Islam và Nishiyama (2018); Birchwood và cộng sự (2019); Al-Homaidi và cộng sự (2022) lại có kết quả thực nghiệm cùng chiều.

Đối với tỷ lệ thanh khoản thì Were và Wambua (2016); Al-Homaidi và cộng sự (2022) thì các nhóm tác giả này lại cho rằng tương âm hoặc không ảnh hưởng đến LN của NHTM, hay nói cách khác họ cho rằng tỷ lệ thanh khoản là tỷ lệ chủ yếu tập trung vào việc các NHTM có đủ khả năng đối mặt với việc thanh toán các khoản nợ đến hạn hay duy trì các hoạt động chủ yếu cho NHTM chứ chưa hẳn đã tập trung vào việc phát triển HĐKD của NHTM. Ngoài ra, khi đề cập đến chất lượng tín dụng thì các nghiên cứu của San và cộng sự (2015); Were và Wambua (2016); Sanko và cộng sự (2021) đều cho rằng các khoản nợ xấu hay nợ quá hạn sẽ dẫn đến tình trạng HĐKD của NHTM có những cản trở và phải đối mặt với rủi ro thu hồi nhằm thanh toán cho các khoản tiền gửi đến hạn. Ngoài ra, các nghiên cứu còn chỉ ra các khoản nợ này theo quy định của Basel II về các khoản trích lập dự phòng Rủi ro tín dụng sẽ làm gia tăng chi phí nội bảng để bảo hiểm rủi ro, điều này sẽ làm cho LN của NHTM cũng suy giảm. Tuy nhiên, vẫn có một số khẳng định khác của các nghiên cứu Rahman và cộng sự (2017); Birchwood và cộng sự (2019) vẫn cung cấp bằng chứng thực nghiệm là Rủi ro tín dụng vẫn tương quan cùng chiều với lãi suất NHTM, các tác giả luận giải rằng việc các NHTM đối mặt với các Rủi ro tín dụng khi buông lỏng các quy định hay chính sách vẫn sẽ giúp cho NHTM kiếm được các khoản lợi nhuận đến từ các Rủi ro tín dụng không chắc chắn xảy ra, hay nói cách khác việc thẩm định tư cách khách hàng chỉ là một kênh để đưa ra quyết định cho vay chứ không phải sẽ xuất hiện tính chắc chắn sẽ xảy ra nợ quá hạn hay nợ xấu với khách hàng đó.

Ngoài ra trong các nghiên cứu được luận văn đề cập thì chỉ có Islam và Nishiyama (2018) tập trung vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc (CAR) có mối quan hệ với tỷ suất sinh lợi ròng tại 230 NHTM tại 4 quốc gia Nam Á (Băng-la-đét, Ấn Độ, Nê-pan và Pa-ki-xtan) trong giai đoạn năm 1997-2014, cùng với Phương pháp nghiên cứu định lượng và mô hình hồi quy tác động cố định (FEM). Nhóm tác giả đã chỉ ra rằng CAR giúp cho các NHTM duy trì được sự an toàn trong hoạt động và có thể đối mặt với những rủi ro kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, khi duy trì được CAR ổn định thì các NHTM sẽ có danh mục đầu tư vào các kênh một cách hợp lý sẽ thúc đẩy LN được tăng trưởng phù hợp. Cùng với đó là đa dạng hóa thu nhập khi nghiên cứu về Hiệu quả hoạt động kinh doanh của 37 NHTMCP niêm yết trên sàn chứng khoán Bombay Exchange (BSE), Ấn Độ trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2019 thì Al-Homaidi và cộng sự (2022) nhấn mạnh rằng các HĐKD truyền thống của NHTM đa phần tập trung vào tín dụng và các sản phẩm tương đồng trong khi đó các sản phẩm bán lẻ như bảo hiểm, đầu tư hay các khoản thu từ phí dịch vụ ít rủi ro thì đang được các NHTM bắt đầu tái cơ cấu danh mục kinh doanh để thu được LN đa dạng hơn, hay hạn chế Rủi ro tín dụng. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Cuối cùng là các biến số liên quan đến vĩ mô nền kinh tế cũng được các tác giả đề cập đến như Rahman và cộng sự (2017); Sanko và cộng sự (2021) thì cho rằng GDP ảnh hưởng cùng chiều đến LN nhưng Islam và Nishiyama (2018); Homaidi và cộng sự (2020); Al-Homaidi và cộng sự (2022) thì lại cho rằng ngược lại. Đối với tỷ lệ lạm phát cũng gặp phải những kết luận trái chiều nhau đến từ Homaidi và cộng sự (2020); Sanko và cộng sự (2021); Al-Homaidi và cộng sự (2022). Mặt khác, Hasriadi (2023) và Obeidat (2023) có xem xét đến tình hình TNLCB của các NHTM trong giai đoạn có Covid 19 nhưng kết quả cho thấy sự suy giảm về LN do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch.

2.3.3. Khoảng trống nghiên cứu  

Các nghiên cứu trong và ngoài nước mà tác giả lược khảo chủ yếu vẫn sử dụng các số liệu của các NHTM tại các quốc gia trong giai đoạn từ 1995 – 2021. Tuy nhiên đến hiện nay với tình trạng của đại dịch Covid 19 có những ảnh hưởng cơ bản đến nền kinh tế hay nói cách khách là những tác động tiêu cực đến ngành NH. Vì vậy, điều này sẽ tạo ra khoảng trống nghiên cứu liên quan đến phạm vi thời gian nghiên cứu. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

Thứ hai, trong các nghiên cứu mà tác giả tổng hợp có hai nhân tố ít được tập trung để nghiên cứu nhất đó là đa dạng hóa thu nhập và tỷ lệ an toàn vốn. Đây được xem là khoảng trống nghiên cứu về kết quả thực nghiệm cần bổ sung cho bối cảnh của NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2013 – 2024. Có thể nói rằng, hai hoạt động đa dạng hóa thu nhập hay trích lập tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hai hoạt động cơ bản của các NHTM. Tuy nhiên, đối sánh với hoàn cảnh các NHTM tại mỗi quốc gia khác nhau, do đặc thù HĐKD khác nhau. Mặt khác, trong giai đoạn Covid – 19 khi nền kinh tế đóng cửa, hoạt động mua bán kinh doanh tại Việt Nam gần như phải đóng cửa, các khoản vay đứng dưới tình trạng chủ yếu để cầm cự và có nhiều rủi ro. Tuy nhiên, các hoạt động thanh toán trực tuyến, bán lẻ của NHTM lại phổ biến, giúp các NHTM có được những khoản thu lớn. Vì vậy, ta thấy vai trò lớn của đa dạng hóa thu nhập rất lớn tại thời điểm đó và kéo dài về sau. Ngoài ra, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc dường như là tỷ lệ cam kết mà các NHTM cần phải làm đúng theo quy định của NHNN, hay nói cách khác NHTM với vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế, nhưng vẫn phải đặt sự ổn định của hệ thống NH lên trên lợi ích riêng của tổ chức và nhu cầu của khách hàng. Do đó, LN thì các NHTM thật sự cần để tăng trưởng và lớn mạnh nhưng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể buộc các NHTM phải hy sinh LN hay tạo những nền tảng khác để gia tăng LN cho ngân hàng thì cần được nghiên cứu thực nghiệm thực sự để kết luận.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Chương 2 trình bày tổng quan về khái niệm tỷ lệ Thu nhập lãi cận biên cũng như các cách đo lường và NIM được dùng đo lường cho Thu nhập lãi cận biên của NHTM. Đồng thời, tại chương này tác giả đã tổng hợp khung lý thuyết cũng như chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố đến Thu nhập lãi cận biên, trong đó các yếu tố được chia vào hai nhóm chính đó là bên trong và bên ngoài ngân hàng. Ngoài ra, chương 2 cũng đã tổng hợp các công trình liên quan về các yếu tố ảnh hưởng đến Thu nhập lãi cận biên của NHTM. Từ đó, tác giả rút ra các khoảng trống nghiên cứu, sẽ làm cơ sở đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu cho chương sau ứng dụng vào bối cảnh hệ thống NHTM Việt Nam. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: PPNC ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi của ngân hàng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993