Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một trong những vấn đề chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể để lại di sản cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế.
2.1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm chung và có những quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần xem xét khái niệm về diện thừa kế. Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm về diện thừa kế như sau: “Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật” [48, tr. 342]. Khái niệm về diện thừa kế còn có thể được hiểu là “phạm vi những người có thể được hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản” [24, tr. 278]. Nhìn chung các khái niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể hơn và tác giả đồng tình với quan điểm này bởi không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế. Phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định. Như đã đề cập trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến, bản chất của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống nội tộc, địa vị của người vợ trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước. Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình đổi mới, phát triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong ba mối quan hệ sau đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.1.1. Quan hệ hôn nhân
Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo pháp luật.
Như đã phân tích ở Chương 1, trước năm 1945, dưới chế độ phong kiến, quan hệ hôn nhân bị xem nhẹ và không được coi là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa vợ và chồng. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế. Địa vị của người phụ nữ nói chung và người vợ nói riêng trong gia đình ở thế yếu, không có sự bình đẳng với người đàn ông, người chồng về quan hệ sở hữu tài sản cũng như quan hệ thừa kế. Theo đó, người vợ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Hay nói cách khác, quan hệ hôn nhân không được ghi nhận là cơ sở để xác định diện thừa kế. Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ thì người vợ chính thất của người quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp bên chồng không còn người thân thuộc, trong khi đó người vợ thứ lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy quan hệ hôn nhân không có tính ràng buộc.
Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã có những thay đổi to lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ. Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [26, Điều 9]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ những quy định thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ HN&GĐ phong kiến để từ đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không quy định cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên chết trước nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, người vợ và người chồng thuộc diện thừa kế của nhau. Sắc lệnh số 97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hôn nhân trở thành một trong các căn cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật sau này như Luật HN&GĐ năm 1959, Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Luật HN&GĐ năm 2000 và BLDS năm 2005. Tại khoản 1 Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế” [33]. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 6 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 thì “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” [33]. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau được bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm bảo các điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” [33]. Để được đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết hôn, ý chí tự nguyện và không thuộc 5 trường hợp cấm kết hôn, bao gồm: người đang có vợ hoặc có chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; giữa những người cùng giới tính.
Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ không được coi là vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau.
Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên vẫn tồn tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập quán mà không đăng ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Câu hỏi được đặt ra là liệu những trường hợp này có được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp hay không? Thực trạng này đã được giải quyết theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986. Mục 2 của Nghị quyết đã đưa ra hướng dẫn giải quyết về trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8: Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với các điều 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 9 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 40 [43].
Quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hai bên nam, nữ, đặc biệt là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm giải quyết những vướng mắc trong các giao dịch do hai bên vợ chồng thực hiện với bên thứ ba.
Tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, Chánh án TANDTC đã chỉ rõ: Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Như vậy, trong trường hợp hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn, được Tòa án thừa nhận là trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người được thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Nhằm giải quyết triệt để những quan hệ vợ chồng không tuân thủ quy định của Luật HN&GĐ về đăng ký kết hôn. Khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng” [33]. Tiếp đó, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000, hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích kết hôn, tức là việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về mặt thời gian và quan hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày bắt đầu chung sống như vợ chồng chứ không phải từ ngày đăng ký kết hôn. Nhưng nếu nam, nữ sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn. Như vậy, tùy từng trường hợp mà pháp luật công nhận hôn nhân thực tế hay không và khi đã được công nhận là hôn nhân thực tế thì giữa vợ và chồng sẽ phát sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Giả thiết được đặt ra là trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng chưa đi đăng ký kết hôn và một bên chết trước trong khoảng thời gian từ sau ngày 01/01/2001 và trước ngày 01/01/2003 thì có thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau hay không? Mục II.1.b của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 06/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: “…cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế” [45]. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.
Nghị quyết còn quy định trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án [45].
Có thể nhận thấy quy định này không phù hợp với các quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10. Do đó, để có sự thống nhất hài hòa giữa các văn bản pháp luật, cần sửa quy định trên theo hướng ghi nhận những trường hợp sau ngày 01/01/2003 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên chết trước thì bên còn sống không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bên đã chết.
Việc thừa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để giải quyết thấu tình đạt lý những trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại. Hiện nay, khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được thừa nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng,… Vậy trong trường hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, sau đó một bên chết thì bên kia có được quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều 680 BLDS năm 2005 thì “Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản” [32]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời sống bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt quan hệ vợ chồng, do đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ, chồng với nhau. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 680 BLDS năm 2005 thì quyền thừa kế của nhau giữa vợ và chồng vẫn phát sinh kể cả trong trường hợp một bên chết trước tại thời điểm mà vợ, chồng đang xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, sau đó bên kia kết hôn với người khác thì vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chồng hoặc người vợ đã chết. Đây là quy định rất tiến bộ của pháp luật hiện hành phù hợp với đời sống xã hội cũng như nếp sống văn hóa hiện nay.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chủ trương để phát triển và bảo vệ gia đình bền vững, thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật để ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng. Pháp luật đã ghi nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ sở vật chất để người còn sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình.
2.1.2. Quan hệ huyết thống
“Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu…”. Quả đúng như vậy, từ trước tới nay, người Việt Nam đều rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho người còn sống mà còn bao hàm cả ý nghĩa tình cảm, tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho cháu con. Nếu như con cháu chính là sự nối tiếp trong dòng chảy của huyết thống qua các thế hệ thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Chính vì lẽ đó, một người được coi là đã chết chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn các mối liên hệ mà một phần con người đó vẫn còn hiện hữu trong con cháu, trong những di sản mà người đó để lại. Do vậy, quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp luật.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
Trong xã hội phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp là chính nên cần nhiều nhân công cùng hợp tác sản xuất. Tập quán nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà đã hình thành từ đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong xã hội phong kiến, tài sản của cá nhân chủ yếu là đất đai, do đó, thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì, bảo vệ và phát triển khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, diện thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống vẫn giữ nguyên vị trí quan trọng hàng đầu. Theo đó, các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên và di sản chỉ thuộc về bên họ ngoại khi không còn thân thuộc bên họ nội. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản trong đó có quy định về vấn đề thừa kế. Theo đó, trong những năm đầu dưới chế độ mới, diện thừa kế được xác định trên hai cơ sở là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống ban đầu được quy định khá hẹp. Căn cứ theo quy định tại Sắc lệnh số 97/SL thì diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống chỉ có con, cháu. Đến Thông tư 1742 – BNC, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở rộng, bao gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Tiếp đó, tại Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của TANDTC, diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng, bao gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột. Đến Thông tư số 81 đã quy định cụ thể, mở rộng hơn nữa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại của người chết. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống bàng hệ bao gồm anh chị em ruột. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 ra đời trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó và bổ sung những quy định mới để phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Theo đó, ngoài những đối tượng được quy định tại Thông tư số 81, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột.
Trong tiến trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành BLDS đầu tiên vào năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996. Đây là là kết quả của quá trình pháp điển hóa luật dân sự Việt Nam trong suốt hơn 50 năm. BLDS năm 1995 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt lớn, lần đầu tiên các quy định về diện thừa kế nói chung và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống nói riêng được ghi nhận trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp. Những quy định về xác định phạm vi diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống không có sự thay đổi so với Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng, có những quy định của BLDS năm 1995 đã không còn thích hợp, một số điều khoản đã không phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ về tài sản, trong đó có những quy định về thừa kế. Năm 2005, Nhà nước ta đã ban hành BLDS bổ sung, sửa đổi, thay thế BLDS năm 1995. Theo đó, phạm vi các đối tượng thuộc diện thừa kế theo pháp luật trên cơ sở quan hệ huyết thống đã được mở rộng, bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột, chắt ruột. Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của BLDS năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và hợp lý bởi nó tuân theo quy tắc quyền thừa kế lẫn nhau giữa các chủ thể trong mối quan hệ huyết thống. Như vậy, xuôi theo dòng phát triển của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ cho đến nay, phạm vi các đối tượng thuộc diện thừa kế theo pháp luật xác định trên cơ sở quan hệ huyết thống theo quy định tại BLDS năm 2005 là đầy đủ và mở rộng nhất. Quy định này không chỉ thắt chặt hơn tình cảm gia đình giữa các thế hệ mà còn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mỗi cá nhân luôn muốn dành tài sản của mình sau khi chết cho những người gắn bó yêu thương, gần gũi với họ nhất.
Trong những mối quan hệ huyết thống được quyền hưởng thừa kế theo pháp luật đã nêu ở trên, trước hết phải kể đến mối quan hệ thiêng liêng, cao cả nhất, đó là mối quan hệ giữa con và cha mẹ. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Để đảm bảo quyền và lợi ích về tài sản cũng như lợi ích về nhân thân của cá nhân, việc xác định quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và các con là hết sức quan trọng và cần thiết. Vấn đề xác định cha, mẹ cho con (kể cả con trong giá thú và con ngoài giá thú) được Nhà nước ta rất quan tâm và được thể chế hóa bằng các quy định của pháp luật. Theo đó, tại khoản 1 Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng” [33]. Căn cứ theo Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000, “người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân” được xác định kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, nếu trong thời hạn 300 ngày (người vợ chưa kết hôn với người khác) mà sinh con thì đó cũng được xác định là “con chung” của hai vợ chồng. Thông thường, việc xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú sẽ phức tạp hơn bởi giữa cha, mẹ của người con không có hôn nhân hợp pháp nên không thể suy đoán dựa vào “thời kỳ hôn nhân”. Theo tinh thần tại khoản 2 Điều 63 và Điều 64 Luật HN&GĐ năm 2000, trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gen. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, quy định về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học, chẳng hạn như bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là rất phù hợp với thực tiễn đời sống, vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa đảm bảo được quyền lợi của những người liên quan.
Việc xác định cha, mẹ, con không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ nhân thân mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và con khi một trong các bên chết.
2.1.3. Quan hệ nuôi dưỡng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, diện thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng bao gồm quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, đó là trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu đáp ứng điều kiện nhất định. Như vậy, có thể khái quát quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật.
Trước hết xét đến quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo quy định tại Điều 678 BLDS năm 2005 thì “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và 677 của Bộ luật này” [32]. Trước đó, ngay từ Luật Hồng Đức đã ghi nhận con nuôi có quyền thừa kế của cha mẹ nuôi “Con nuôi mà có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem chia cho con đẻ và con nuôi…” [56, Điều 380]. Câu hỏi được đặt ra là sự kiện nào xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi? Đó chính là sự kiện nuôi con nuôi. Pháp luật Việt Nam quy định khá chặt chẽ việc nhận con nuôi nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi. Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đều có những quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nhận nuôi con nuôi. Đặc biệt, những quy định này đã được kế thừa và phát triển, ghi nhận đầy đủ, cụ thể hơn trong văn bản pháp lý chuyên sâu, đó là sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi đã giải thích: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi” [36]. Việc nhận nuôi con nuôi dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo nguyên tắc chung thì “Người được nhận làm con nuôi phải dưới 16 tuổi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng” [34, Điều 8]. Quy định này không có sự khác biệt đáng kể so với Luật HN&GĐ năm 2000. Vấn đề được đặt ra là liệu quy định trên chỉ giới hạn trường hợp hai người là vợ chồng thì cả hai phải đồng ý nhận nuôi con nuôi hay một bên vợ, chồng vẫn có thể nhận nuôi con nuôi? Khi đó, hậu quả pháp lý sẽ như thế nào, người được nhận làm con nuôi và một bên vợ (chồng) nhận con nuôi có thuộc diện thừa kế của nhau hay người con nuôi đó thuộc diện thừa kế của cả hai vợ chồng và ngược lại? Theo quy định của pháp luật thì chỉ hai trường hợp “một người độc thân” hoặc “cả hai người là vợ chồng” mới có quyền nhận con nuôi nên trong trường hợp một bên vợ (chồng) muốn nhận nuôi con nuôi nhưng bên kia không đồng ý thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ không được xác lập. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình đầm ấm.
Người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, cụ thể là:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
- Có tư cách đạo đức tốt;
- Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh…
- chí tự nguyện của người nhận nuôi con nuôi phải phù hợp với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và ghi vào sổ hộ tịch. Theo quy định tại Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi ở cấp cơ sở hay trung ương phụ thuộc vào tính chất lãnh thổ, cụ thể là:
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Việc nuôi con nuôi hợp pháp sẽ dẫn tới hệ quả:
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan [36, khoản 1 Điều 24].
Hay nói cách khác, con nuôi có đầy đủ quyền như con đẻ và được coi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha, mẹ nuôi.
Như vậy, quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi sẽ được xác lập nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về chủ thể, trình tự, thủ tục. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường hợp, nhất là ở các vùng nông thôn, rất coi trọng tình cảm, đã thiết lập quan hệ gắn bó, chăm sóc, coi nhau như cha, mẹ, con của nhau nhưng lại không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những trường hợp này có được pháp luật thừa nhận là nuôi con nuôi thực tế hay không? Đường lối giải quyết vấn đề này được quy định tại phần III.A.1 Thông tư số 81:
Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con nuôi phải được Ủy ban nhân dân cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tích việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được bảo đảm, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau [42].
Tiếp đó, mục 6.a Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP) quy định:
Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định [43].
Từ cơ sở pháp lý nêu trên, con nuôi thực tế được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như con nuôi có thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Điều này đồng nghĩa với việc con nuôi thực tế và người nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Ngoài hai văn bản pháp luật nêu trên, cho đến nay vẫn chưa có thêm bất kỳ văn bản nào khác quy định cụ thể về vấn đề nuôi con nuôi thực tế. Trên thực tế, Tòa án gặp phải nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế trong những tình huống này.
Quan hệ thừa kế được xác định dựa trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng còn bao gồm quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2000 thì bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình và ngược lại, con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình. Mặc dù giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế không có mối quan hệ sinh thành nhưng giữa họ đã thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Vấn đề này đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 679 BLDS năm 2005: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này” [32]. Trước đó, Thông tư số 81 cho đến Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và BLDS năm 1995 đều quy định con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên chết trước nếu giữa họ đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Như vậy, trải qua các thời kỳ, pháp luật về thừa kế chỉ thừa nhận con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi và chỉ khi đáp ứng điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Quy định này còn mang tính chủ quan, chung chung. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như thế nào sẽ được coi là như cha con, mẹ con? Pháp luật không đặt ra tiêu chí cụ thể nào dẫn đến việc áp dụng tùy nghi, không thống nhất trên thực tế giữa các Tòa khác nhau đối với cùng một sự việc. Do đó cần phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để trước hết bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của con riêng, bố dượng, mẹ kế đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thống nhất, tránh tranh chấp có thể xảy ra hoặc bị kéo dài.
Việc quy định về quyền thừa kế theo pháp luật giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế phù hợp với đạo đức xã hội và truyền thống chan chứa lòng nhân ái của người Việt Nam.
Tóm lại, ngoài ba quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản thì không có bất cứ quan hệ nào khác để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo pháp luật về thừa kế của một số quốc gia trên thế giới như pháp luật dân sự Pháp, Thái Lan, Nhật Bản, Liên bang Nga, quan hệ huyết thống trực hệ theo ngành dọc luôn được bảo vệ và ưu tiên hàng đầu, xuất phát từ nguyên tắc “chảy xuôi” từ thế hệ trước xuống thế hệ sau. Quyền hưởng thừa kế của những người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được xếp ở vị trí thứ yếu. Pháp luật dân sự Pháp còn phân biệt cả giữa anh em đồng huyết (cùng cha, cùng mẹ) với anh em cùng cha khác mẹ (hoặc cùng mẹ khác cha) trong việc hưởng thừa kế. Trong khi đó, pháp luật thừa kế của Việt Nam, xuất phát từ quan niệm trọng tình nghĩa vợ chồng, coi con nuôi cũng như con đẻ, con trong giá thú cũng như con ngoài giá thú nên dù là người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản vẫn được xem xét ngang bằng với những người có quan hệ huyết thống. Thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà quan hệ huyết thống trực hệ được pháp luật thừa kế của các quốc gia coi trọng hơn bởi mục đích của thừa kế là duy trì và phát triển khối tài sản, bảo vệ sự trường tồn của gia đình. Do đó, để thực hiện tối ưu mục đích này, không ai khác ngoài các con đẻ của người để lại di sản là những người có điều kiện nhất trong việc tiếp nối và duy trì di sản và cứ thế truyền lại cho đời sau. Pháp luật thừa kế Việt Nam nên chăng cần điều chỉnh lại những người được thừa kế dựa trên quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng ở một hàng thừa kế khác không phải là hàng thừa kế thứ nhất.
2.2. HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Không phải ai thuộc diện thừa kế theo pháp luật cũng được hưởng di sản thừa kế mà họ chỉ có thể được hưởng nếu thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện do pháp luật quy định hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thừa kế. Trên cơ sở xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế, pháp luật sắp xếp những người đó theo từng nhóm với thứ tự ưu tiên dựa trên tính chất gần gũi giữa họ với người để lại di sản. Mỗi nhóm được gọi là một hàng thừa kế và những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Như vậy, có thể rút ra định nghĩa về hàng thừa kế như sau:
Hàng thừa kế là nhóm những người có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản thừa kế và theo đó những người trong cùng một hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Hàng thừa kế được sắp xếp theo nguyên tắc ưu tiên. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản một cách hợp pháp. Theo pháp luật hiện hành, số lượng hàng thừa kế được chia thành ba hàng và cơ sở để ghi nhận những người trong cùng một hàng tùy thuộc vào mức độ gần gũi, thân thích với người để lại di sản.
2.2.1. Số lượng các hàng thừa kế và nguyên tắc phân chia người thừa kế theo các hàng thừa kế Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật thừa kế của một số quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới có những quy định khác nhau về hàng thừa kế theo pháp luật. Pháp luật thừa kế của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Nga đều quy định các con của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất mà không bao gồm cha, mẹ của người để lại di sản. Một đặc điểm chung nữa trong quy định về thừa kế theo pháp luật của các quốc gia này là đều quy định hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế, thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản.
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan phân chia làm 6 hàng thừa kế theo thứ tự: Con cái; Bố mẹ; Anh, chị, em đồng huyết thống; Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; Ông, bà; Chú, bác, cô, dì. Pháp luật thừa kế Thái Lan có quy định quyền thừa kế di sản của nhau giữa vợ và chồng nhưng lại không ghi nhận cụ thể trong một hàng thừa kế nhất định nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản.
Trong khi đó, BLDS của Nhật Bản lại chia làm 3 hàng thừa kế theo thứ tự: Con (cháu) trực hệ (hàng 1); những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên (hàng 2); anh, chị, em ruột của người để lại di sản (hàng 3). Pháp luật thừa kế Nhật Bản quy định về hàng và bậc thừa kế có cơ cấu về số người được ưu tiên hưởng di sản theo quan hệ huyết thống trực hệ bề trên và trực hệ bề dưới của người để lại di sản. Khác với pháp luật thừa kế ở nước ta, pháp luật dân sự Nhật Bản có sự phân biệt trong việc phân chia di sản giữa những người cùng hàng thừa kế: trường hợp vợ (chồng) và các con là người thừa kế thì các con được hưởng 2/3 và vợ (chồng) chỉ được hưởng 1/3; trường hợp vợ (chồng) và người thân trực hệ bề dưới là những người thừa kế thì mỗi bên được hưởng ½; trường hợp vợ (chồng) và anh, chị, em ruột là những người thừa kế thì vợ (chồng) được hưởng 2/3.
Bộ luật Dân sự Pháp chia thành 4 hàng và 6 bậc thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất cũng chỉ giới hạn trong phạm vi “con và ti thuộc của con”, vợ, chồng hay cha, mẹ không thuộc hàng thừa kế này. Pháp luật dân sự Pháp quy định về các hàng thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống. Người vợ (chồng) cũng có quyền hưởng di sản với những mức khác nhau tùy thuộc vào việc họ thừa kế cùng với người thân thích nào của người để lại di sản. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Pháp luật của các quốc gia nêu trên có những quy định khác nhau về số lượng hàng thừa kế cũng như những người thuộc cùng một hàng thừa xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xuất phát từ điều kiện kinh tế – xã hội, điều kiện lịch sử, quan niệm khác nhau về gia đình, nghĩa vụ của các cá nhân trong quan hệ gia đình. Bên cạnh đó còn bị chi phối bởi truyền thống văn hóa, phong tục tập quán. Nhưng nhìn chung, pháp luật về thừa kế của các quốc gia nói trên đều coi trọng quan hệ huyết thống hơn cả và việc dịch chuyển di sản đều được thực hiện theo nguyên tắc “dòng chảy xuôi” nên cha mẹ không bao giờ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con khi con chết, cũng như vợ, chồng không thuộc hàng thừa kế thứ nhất khi một bên chết. Tất cả di sản của người chết dồn hết cho con của họ được hưởng, chỉ khi nào họ không có con hưởng thừa kế, di sản mới được chuyển dịch cho cha, mẹ theo “dòng chảy ngược”.
Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định 3 hàng thừa kế và những người thuộc cùng một hàng thừa kế bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Với số lượng hàng thừa kế được giới hạn rất ít và những người thuộc cùng hàng thừa kế thuộc nhiều mối quan hệ khác nhau với người để lại di sản, dường như chưa tạo ra được sự công bằng cũng như chưa phù hợp với nguyên tắc di sản được chuyển cho người có quan hệ gần gũi nhất với người để lại di sản theo “dòng chảy xuôi, cha truyền con nối”.
Nguyên tắc chia di sản thừa kế, trước hết sẽ chia di sản cho những người thừa kế ở hàng trước, theo thứ tự ưu tiên chia trước, chia hết và chia đều bằng nhau cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không có ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản mới được chuyển xuống và chia đều cho những người ở hàng thừa kế thứ hai. Tương tự như vậy đối với hàng thừa kế thứ ba. Theo quy định hiện hành của pháp luật thừa kế Việt Nam, việc phân nhóm những người thừa kế về từng hàng thừa kế sẽ phụ thuộc vào mức độ thân thích, gần gũi với người để lại di sản xét trên cả quan hệ huyết thống (trước hết là quan hệ huyết thống trực hệ), quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
Để có cái nhìn toàn diện hơn về hàng thừa kế ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, tác giả xin phân tích cụ thể từng hàng thừa kế đồng thời xen kẽ những nhận xét nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
2.2.2. Hàng thừa kế thứ nhất Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Quy định về hàng thừa kế cũng như phạm vi những người trong cùng một hàng thừa kế có sự khác nhau ở mỗi thời kỳ. Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật về thừa kế quy định về hàng thừa kế trước hết là bảo vệ quyền hưởng di sản của những người trong quan hệ huyết thống nội tộc với người để lại di sản và nhằm củng cố gia đình theo ý thức hệ phong kiến. Bộ luật Hồng Đức quy định hai hàng thừa kế trong đó các con là hàng thừa kế thứ nhất. Đến Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, diện những người thừa kế không được chia thành hàng cụ thể mà quy định thành năm thứ tự ưu tiên hưởng di sản trong đó thứ tự đầu tiên là con cái của người để lại di sản (bao gồm con đẻ, con nuôi). Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta đã có nhiều đổi mới, trong đó bao gồm cả hệ thống pháp luật. Những ngày đầu xây dựng đất nước, Sắc lệnh số 97 ra đời quy định chỉ có một hàng thừa kế là vợ góa, chồng góa, các con của người để lại di sản. Những quy định về hàng thừa kế trong các văn bản ở những giai đoạn sau này như Pháp lệnh thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995 đều có xu hướng mở rộng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thân thích, gần gũi nhất với người để lại di sản.
Bộ luật Dân sự hiện hành quy định ba hàng thừa kế theo pháp luật tại Điều 676. Theo đó, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối quan hệ bao gồm quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Trong đó, những người ở bề trên gồm có: ông, bà; ngang bậc gồm có: vợ, chồng và bề dưới bao gồm: các con. Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, là giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện luật định.
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là mối quan hệ mang tính đối nhau, nghĩa là bên này chết thì bên kia thuộc hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân như với các điều kiện như được phân tích tại mục 2.1.1. Bên cạnh đó, cần lưu ý trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền Nam, tập kết ra Bắc (năm 1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Sau khi đất nước thống nhất (30/04/1975) họ trở về đoàn tụ gia đình và thực tế đã tồn tại là một người có hai vợ hoặc hai chồng. Theo hướng dẫn của Thông tư số 60/DS ngày 22/02/1978 của TANDTC thì đây là những trường hợp đặc biệt, “là hậu quả của chiến tranh, một vấn đề xã hội phức tạp, vấn đề tình cảm, hạnh phúc gia đình, nhất là của người vợ và con cái” [41]. Do đó, TANDTC đã hướng dẫn:
…Khi giải quyết phải xem xét một cách thận trọng, thấu tính, đạt lý…Tòa án nhân dân trước hết phải giải thích cho các đương sự nhận thức rõ được hoàn cảnh đặc biệt của đất nước và tình hình thực tế của gia đình họ, mặc dù họ không muốn như vậy…Nếu cả hai người vợ vẫn tha thiết mong muốn gia đình sum họp thì khuyên họ bàn bạc, thu xếp sao cho ổn thỏa [41].
Như vậy, các trường hợp vi phạm trên không phải do ảnh hưởng của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến mà là do hoàn cảnh khách quan, điều kiện lịch sử, đất nước trải qua mấy chục năm chiến tranh khắc nghiệt. Do đó, việc kết hôn của họ mặc dù đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng nhưng không bị coi là việc kết hôn trái pháp luật. Khi giải quyết các trường hợp này, quyền và lợi ích của tất cả các bên (trong đó có quyền được hưởng thừa kế di sản của nhau) được pháp luật quan tâm và bảo vệ. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005 thì con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo nhiều cách thức với nhiều mục đích khác nhau và chỉ những trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (theo Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986) hoặc có đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo Luật HN&GĐ năm 2000) mới phát sinh quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật. Hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta không công nhận quan hệ nuôi dưỡng thực tế (quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội). Đó là trường hợp nhận con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi trong thực tiễn đời sống xã hội có thể bắt nguồn từ phong tục tập quán, chẳng hạn như tục nối nòi ở một số vùng miền núi dân tộc thiểu số như dân tộc Ê Đê. Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ nên việc nói nòi theo dòng họ mẹ, để dòng họ mẹ không bị tuyệt tự là một điều quan trọng. Vì vậy, quyền thừa kế cũng được xác định theo dòng họ mẹ nên trong trường hợp một người phụ nữ không có con thì “phải tìm nuôi lấy một đứa con của người chị hay của người em gái mình, không có đứa này thì phải tìm một đứa khác trong cùng một họ với mình” và khi đó, người con được thừa kế mọi của cải của người phụ nữ để lại (Điều 106 Luật tục Ê Đê). Người Mường, Thái, Dao, Mông đều có phong tục nhận nuôi con nuôi. Các gia đình dân tộc Mường, Thái mà không có con, họ thường nhận một người con của người anh hay người em làm con nuôi và coi như con đẻ của mình. Những quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán như vậy có thể vì lợi ích của người nuôi, của gia đình dòng họ người nhận nuôi nhiều hơn vì lợi ích của con nuôi. Phong tục tập quán này đã tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và đến nay vẫn còn tồn tại. Việc nuôi con nuôi cũng có thể tồn tại dưới dạng danh nghĩa hoặc với mục đích để lấy phúc. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình cảm và không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử, xưng hô là cha mẹ và con nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Nuôi con nuôi để lấy phúc cũng là trường hợp khá phổ biến xuất phát từ quan niệm nhận một đứa trẻ về nuôi, coi như con của mình để làm phúc, như thế sẽ có thể giảm bớt tai họa, những điều không may mắn cho gia đình. Những trường hợp nuôi con nuôi trên có đặc điểm chung là đều không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải các hình thức nuôi con nuôi đó đều là nuôi con nuôi thực tế. Nuôi con nuôi thực tế phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: giữa người nhận nuôi và con nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đã thật sự coi nhau và đối xử với nhau như cha mẹ và con; người nhận nuôi và người được nhận nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật về độ tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng…; các bên đã cùng chung sống, gắn bó với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trên thực tế được họ hàng và những người xung quanh công nhận, việc nhận nuôi không trái với mục đích của việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Trên thực tiễn, khi giải quyết các tranh chấp về nuôi con nuôi, đặc biệt là tranh chấp về thừa kế, Tòa án cũng dựa vào những dấu hiệu trên để xem xét, đánh giá quan hệ nuôi con nuôi thực tế. Khi được công nhận là quan hệ nuôi con nuôi thực tế thì giữa người nhận nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của quan hệ cha mẹ và con. Điều này đồng nghĩa với việc con nuôi thực tế và người nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Quan hệ nuôi con nuôi thực tế chỉ được ghi nhận tại hai văn bản, đó là Thông tư số 81 và Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP như đã phân tích chi tiết tại mục 2.1.3 ở trên để áp dụng giải quyết những trường hợp nuôi con nuôi từ trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký nhưng đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu của quan hệ nuôi con nuôi thực tế thì vẫn được công nhận là nuôi con nuôi thực tế và phát sinh đầy đủ quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi như trường hợp có đăng ký. Tuy nhiên, những trường hợp nuôi con nuôi thực tế này chỉ được công nhận trong thời gian Luật HN&GĐ năm 1986 còn hiệu lực, nếu sau khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực mà quan hệ nuôi con nuôi đó vẫn chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì sẽ không có giá trị pháp lý. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Pháp luật dân sự hiện hành ghi nhận con đẻ, con nuôi, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất thể hiện sự bình đẳng, không phân biệt quan hệ cha mẹ con trên cơ sở huyết thống và trên cơ sở nuôi dưỡng. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi. Hơn nữa, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng xuất phát trên cơ sở tình cảm gắn bó, thương yêu, thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ nên con nuôi được xếp ngang hàng với con đẻ trong việc hưởng di sản thừa kế là điều tất yếu.
Tóm lại, có thể nhận thấy rằng quy định về hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết là phù hợp với văn hóa, truyền thống gia đình Việt Nam. Nhóm người này có mối quan hệ thân thuộc, gần gũi nhất với người chết được xác định trên nền tảng gia đình. Đây là những người đầu tiên được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Khi không có ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 BLDS năm 2005 hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản thì mới xét đến hàng thừa kế thứ hai.
2.2.3. Hàng thừa kế thứ hai
Hàng thừa kế thứ hai được xác định căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005 bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Như vậy, những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai dựa trên mối quan hệ huyết thống.
Ông nội, bà nội là người sinh ra cha của cháu. Ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ của cháu. Ông bà nội ngoại là những người thân thích thuộc bề trên của người để lại di sản, có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Do đó, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người cháu chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, trong trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại chết thì cháu ruột là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nét đẹp đặc thù trong văn hóa Việt Nam: “kính trên, nhường dưới, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”.
Trước đây, theo qui định của BLDS năm 1995 thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, được thừa kế của cháu, nhưng cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà trừ trường hợp thừa kế thế vị. Quy định này bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, không những không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người cháu mà còn tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật. Không có lý do gì khi pháp luật quy định ông bà là người thuộc hàng thừa kế thứ hai của cháu nhưng lại không thừa nhận cháu có quyền thừa kế của ông bà hàng thứ hai trong khi quyền và nghĩa vụ giữa ông bà và cháu là tương xứng với nhau. Với những hạn chế này, BLDS năm 2005 đã bổ sung kịp thời quy định về quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của cháu ruột đối với ông bà. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005 thì trường hợp cha, mẹ của người nuôi dưỡng có được hưởng di sản của người được nhận làm con nuôi theo hàng thừa kế thứ hai không lại chưa được quy định. Theo tinh thần tại điểm Đ Mục 4 của Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của TANDTC hướng dẫn áp dụng một số qui định của Pháp lệnh thừa kế (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 02) thì: “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ của người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi. Do đó, con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ và con đẻ của người nuôi” [44].
Hàng thừa kế thứ hai còn bao gồm anh, chị, em ruột của người chết. Quan hệ thừa kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống, bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Từ Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995 đến BLDS năm 2005, đều quy định như nhau về anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết thuộc hàng thừa kế thứ hai theo pháp luật, được hưởng di sản của người chết khi không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất. Theo đó, quy định về thế nào là anh chị em ruột đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số qui định của Pháp lệnh Thừa kế:
Anh ruột, chị ruột, em ruột là anh, chị, em cùng mẹ hoặc cùng cha, nghĩa là một người mẹ sinh bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau không phụ thuộc vào việc các người con đó là cùng cha hay khác cha. Cũng tương tự như vậy, một người cha sinh ra bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con đó cùng mẹ hay khác mẹ. Con riêng của vợ và con riêng của chồng thì không phải là anh, chị, em ruột của nhau [44, Điểm E mục 4].
Nếu anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột sẽ là người thuộc hàng thừa kế thứ hai đối với di sản của anh, chị đã chết và ngược lại. Như đã chỉ ra ở trên, con nuôi không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi nên giữa con nuôi và con đẻ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
Tương tự như những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những người thừa kế thuộc hàng thứ hai cũng được hưởng phần di sản bằng nhau, không phân biệt là người bề trên, người bề dưới hay người cùng bậc với người để lại di sản. Quy định như vậy là phù hợp với mục đích duy trì, bảo vệ và phát triển di sản thừa kế qua các thế hệ trong gia đình.
2.2.4. Hàng thừa kế thứ ba Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Hàng thừa kế thứ ba được quy định để dự liệu trường hợp cả hai hàng trên không còn người thừa kế. Quy định như vậy nhằm đảm bảo sự nối tiếp về quyền sở hữu tài sản trong dòng họ, đảm bảo quyền lợi của những người thân thích, gần gũi với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005, bao gồm “cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại” [32]. Có thể nhận thấy, những người ở hàng thừa kế thứ ba gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên – dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống.
Cụ nội là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của cha đẻ. Cụ ngoại là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của mẹ đẻ. Khi người để lại di sản (chắt) chết thì cụ là người thuộc hàng thừa kế thứ ba của chắt và ngược lại.
So sánh với quy định tương ứng trong BLDS năm 1995, cũng giống như trường hợp giữa ông bà và cháu, BLDS năm 1995 không xếp chắt là hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại. Đến BLDS năm 2005 đã có sự bổ sung, khắc phục những hạn chế của những qui định trước đó, ghi nhận chắt thuộc hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại.
Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Chú ruột là em trai ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Cậu ruột là em trai ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Cô ruột là em gái ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Dì ruột là em gái ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản.
Như chúng ta đã biết, trong thực tiễn cuộc sống, cách xưng hô trong gia đình người Việt Nam rất phong phú và tinh tế, có tôn ti trật tự, thể hiện nét đặc trưng của mỗi vùng miền. Bậc bề trên của cha mẹ nói chung gọi là là ông bà tổ tiên. Nếu như ở miền Bắc gọi là “cụ” thì ở miền Trung lại có cách xưng hô là “ông bà cố”. Trong mối quan hệ cha mẹ con cái, anh chị em: cả ba miền Bắc Trung, Nam đều gọi là “cha, ba”, ở miền Bắc còn gọi là “bố”, miền Nam còn gọi là “tía”, ở miền Trung một vài nơi còn gọi cha bằng chú; cả ba miền đều gọi là “mẹ”, ở miền Bắc thời xưa thường xưng hô là “u, bu”, ở miền Nam gọi là “má”, miền Trung là “mạ”. Trong mối quan hệ anh chị em của cha mẹ: anh ruột của cha gọi là bác, em trai ruột của cha gọi là chú, chị ruột của cha gọi là “bác” ở miền Bắc và “cô, o” ở miền Trung, Nam; em gái ruột của cha gọi là “cô” ở miền Bắc và xưng là “o” ở miền Trung; anh trai ruột của mẹ, ở miền Bắc gọi là “bác” còn ở miền Trung, Nam lại gọi là “cậu”; chị gái ruột của mẹ, người miền Bắc gọi là “bác” trong khi người miền Trung, Nam gọi là “dì”; em gái ruột của mẹ đều được gọi là “dì” ở cả ba miền. Mặc dù cách xưng hô ở các vùng miền có sự khác nhau nhưng đều chỉ chung một chủ thể và do đó phải tuân thủ theo quy định chung của pháp luật.
Quan hệ thừa kế giữa những người này và người để lại di sản hình thành trên cơ sở mối quan hệ huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Như vậy, khi chia thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế trong cùng một hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau và theo thứ tự ưu tiên tuyệt đối giữa các hàng. Trước hết, quyền ưu tiên thuộc về những người ở hàng thừa kế thứ nhất bởi giữa họ có mối quan hệ thân thích, gần gũi nhất. Tiếp đó, nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì hàng thừa kế thứ hai sẽ được ưu tiên nhận di sản. Tương tự, chỉ xét đến hàng thừa kế thứ ba khi không còn ai ở hai hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai. Khi tất cả các hàng thừa kế không còn người thừa kế thì di sản thuộc về Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế xét theo trình tự hàng thừa kế và thứ tự ưu tiên, rất hiếm trường hợp những người ở hàng thứ ba được hưởng thừa kế và việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế thứ ba gặp nhiều khó khăn so với việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai. Lý do là bởi hàng thừa kế thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau, cả bên nội và bên ngoại của người để lại di sản. Do đó, để xác minh liệt kê, tập hợp được đầy đủ những người thuộc hàng thừa kế thứ ba không phải là đơn giản và rất dễ xảy ra tình trạng bỏ sót.
2.3. THỪA KẾ THẾ VỊ
2.3.1. Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị
Theo nguyên tắc, người thừa kế là người có khả năng được hưởng di sản theo qui định của pháp luật và phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp người thừa kế không còn sống vào thời điểm mở thừa kế (chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản). Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích cho những người có quan hệ huyết thống trực hệ gần gũi, thừa kế thế vị đã được quy định tại Điều 677 BLDS năm 2005:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống [32].
Theo nghĩa Hán – Việt từ “thế” có nghĩa là “thay vào”, từ “vị” có nghĩa là “ngôi thứ”, “ngôi vị”, “vị trí”. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1999, thừa kế thế vị được giải thích như sau: “Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế” [47].
Như vậy, thừa kế thế vị được hiểu là việc cháu (chắt) được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ (ông hoặc bà) để hưởng di sản của ông hoặc bà (cụ) trong trường hợp cha hoặc mẹ (ông hoặc bà) đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông hoặc bà (cụ). Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Từ định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thừa kế thế vị như sau:
Thứ nhất, thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong quan hệ thừa kế theo pháp luật. Điều này được lý giải bởi người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc thì phần di chúc liên quan đến người chết trước đó sẽ vô hiệu.
Thứ hai, thừa kế thế vị được quy định để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cháu, chắt trong trường hợp cha, mẹ của cháu, chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà hoặc các cụ. Đây là những người có quan hệ huyết thống gần gũi nhất với người để lại di sản.
Thứ ba, thừa kế thế vị phát sinh trên cơ sở quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với con cháu của người đó. Về quan hệ huyết thống, thừa kế thế vị xét trên các yếu tố quan hệ huyết thống giữa người để lại di sản và người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quan hệ cha con, mẹ con. Thừa kế thế vị không những phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống mà còn phát sinh giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng nhau. Con nuôi chết trước cha, mẹ nuôi thì con của con nuôi được hưởng thừa kế thế vị thay cha, mẹ nuôi. Con riêng của vợ hoặc chồng với cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì con đẻ của họ sẽ được hưởng thừa kế thế vị khi họ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha kế, mẹ kế. Quy định này vừa thể hiện tính nhân đạo nhằm giáo dục, củng cố tình yêu thương, chăm sóc lẫn nhau trong quan hệ giữa những thành viên trong gia đình mặc dù không có quan hệ ruột thịt.
Thứ tư, thừa kế thế vị có mối quan hệ mật thiết với thừa kế theo hàng. Mặc dù quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Những người thừa kế thế vị chỉ được hưởng chung một suất thừa kế được chia theo pháp luật mà người được thừa kế theo hàng được hưởng nếu còn sống nhưng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản.
2.3.2. Các trường hợp thừa kế thế vị Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Nếu như BLDS năm 1995 chỉ quy định thừa kế thế vị trong trường hợp con hoặc cháu của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì BLDS năm 2005 còn ghi nhận thêm trường hợp con hoặc cháu của người để lại di sản chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Điểm mới của thừa kế thế vị theo qui định của pháp luật hiện hành là phù hợp với thực tế và phù hợp với bản chất của thừa kế thế vị.
Thứ nhất, cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông bà.
Cháu sẽ được thay thế vị trí của cha mẹ để hưởng di sản của ông bà trong trường hợp cha đẻ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông nội hoặc bà nội thì con được thay thế vị trí của cha để hưởng di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống. Trong trường hợp mẹ đẻ chết trước hoặc cùng thời điểm với ông ngoại hoặc bà ngoại thì con được thay thế vị trí của mẹ để hưởng phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống.
Tương tự đối với trường hợp con ruột của người con nuôi hoặc con riêng của vợ hoặc chồng sẽ được hưởng thừa kế thế vị của cha, mẹ nuôi hoặc cha dượng, mẹ kế.
Thứ hai, chắt thế vị cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ.
Chắt sẽ được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Một là, trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, cháu của người để lại di sản cũng chết trước người để lại di sản nhưng chết sau con của người để lại di sản thì chắt của người để lại di sản sẽ được hưởng phần di sản mà cháu của người để lại di sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết.
Hai là, trường hợp con, cháu của người để lại di sản đều chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cháu của người để lại di sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Ba là, trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, cháu của người để lại di sản chết sau con của người để lại di sản nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cháu của người để lại di sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp con của người để lại di sản không được quyền hưởng di sản của người để lại di sản và cháu của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì chắt cũng không được thế vị cháu để hưởng thừa kế đối với di sản của người để lại di sản (nếu người để lại di sản không còn người thừa kế di sản ở hàng thứ nhất).
2.4. DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ CHIA DI SẢN THỪA KẾ Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
2.4.1. Di sản thừa kế theo pháp luật
Di sản thừa kế không phải là một thuật ngữ xa lạ, tuy nhiên vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí ngay trong pháp luật qua mỗi thời kỳ cũng quy định khác nhau. Chẳng hạn như trước năm 1945, có tục lệ “phụ trái tử hoàn” buộc các con phải trả toàn bộ các khoản nợ của người cha đối với các chủ nợ kể cả trong trường hợp tài sản để lại không đủ để thực hiện nghĩa vụ. Hay nói cách khác, ở thời kỳ này, di sản thừa kế được xác định bao gồm tất cả tài sản và nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại. Quy định này hoàn bất hợp lý bởi nếu di sản để lại ngang bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ tài sản thì khi đó không có di sản để chia, quan hệ thừa kế không phát sinh. Mặt khác, người thừa kế không phải là người được chuyển giao nghĩa vụ mà chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi giá trị tài sản để lại.
Pháp luật về thừa kế dưới chế độ mới đã có sự tiến bộ rõ rệt, tục lệ bất công “phụ trái tử hoàn” bị xóa bỏ, thay vào đó, quy định di sản thừa kế chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại (theo Sắc lệnh số 97/SL). Đến Thông tư số 594 và Thông tư số 81, di sản thừa kế được xác định bao gồm tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Người thừa kế không phải chịu nghĩa vụ vượt quá phạm vi di sản. Tiếp đó, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định di sản thừa kế bao gồm tài sản, quyền tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người đó.
Hiện nay, theo qui định của pháp luật hiện hành, tại Điều 634 BLDS năm 2005 thì “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác” [32].
Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp, quyền về tài sản của người đã chết (gồm cả quyền sử dụng đất) mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của người đó và được chuyển dịch hợp pháp cho những người thừa kế có quyền hưởng. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Di sản thừa kế theo pháp luật được xác định như sau:
Thứ nhất, tài sản riêng của người chết.
Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [32]. Như vậy, thành phần di sản bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng, giá trị. Tài sản riêng là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp, được tặng cho, được thừa kế,… Tài sản riêng thuộc quyền sở hữu độc lập của người đó khi còn sống, chẳng hạn như tiền lương, tiền thưởng, tư trang. Trong quan hệ hôn nhân, tài sản riêng của vợ hoặc chồng bao gồm tài sản của vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn; tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ hoặc chồng được chia trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ hai, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
Di sản của người chết không chỉ bao gồm tài sản riêng của người đó để lại mà còn bao gồm cả tài sản trong khối tài sản chung với người khác. Trên thực tế, có nhiều trường hợp tài sản là tài sản chung của nhiều người do được tặng cho chung, thừa kế chung hoặc cùng góp vốn để hợp tác kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận… Do đó, khi một đồng chủ sở hữu chết thì phần tài sản thuộc sở hữu của người đó có trong khối tài sản chung được xác định là di sản. Theo qui định của pháp luật có hai hình thức sở hữu chung đó là sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất và tài sản chung với người khác là sở hữu chung theo phần.
Theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn; những tài sản không đủ chứng cứ để xác định là tài sản riêng; tài sản riêng của các bên nhưng thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung. Đối với tài sản này, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần di sản của người chết trước được xác định bằng một nửa giá trị trong tổng giá trị tài sản chung.
Trong trường hợp người để lại di sản khi còn sống là một trong những đồng sở hữu chung theo phần, khi chết phần quyền tài sản của người này trong khối tài sản chung sẽ là di sản thừa kế.
Ngoài những trường hợp điển hình ở trên, BLDS hiện hành còn quy định rõ các quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo hiểm là di sản thừa kế của người chết để lại. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Điểm đáng chú ý ở trường hợp này là không phải tất cả các tài sản, quyền tài sản của người đã chết đều được coi là di sản thừa kế. Quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân người để lại di sản không được coi là di sản thừa kế như quyền nhận trợ cấp, quyền được nhận lương, nghĩa vụ cấp dưỡng của người để lại di sản khi còn sống cho con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động….vì đây là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác.
2.4.2. Chia di sản thừa kế theo pháp luật
Người được hưởng thừa kế theo pháp luật có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản mà họ được hưởng.
Sau khi đã thanh toán xong nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo thứ tự ưu tiên và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế, phần di sản còn lại sẽ được chia cho những người thừa kế.
Khác với việc phân chia di sản theo di chúc, phân chia di sản theo pháp luật không dựa vào ý chí của người để lại di sản mà phân chia theo ý chí của Nhà nước đồng thời có tính đến sự thỏa thuận của những người thừa kế. Nếu như phân chia di sản theo di chúc, người được hưởng di sản có thể là bất kỳ ai, phần di sản mỗi người được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau thì phân chia di sản theo pháp luật, người được hưởng thừa kế chỉ có thể là cá nhân, xét theo hàng thừa kế và phần di sản được hưởng ngang nhau.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005 thì khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng. Nếu người này được sinh ra và còn sống sau thời điểm người để lại di sản chết nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì được hưởng phần di sản này. Trong trường hợp người này được sinh ra mà chết ngay hoặc chết trước khi được sinh ra thì phần di sản này sẽ được chia đều cho những người thừa kế khác ở cùng hàng. Quy định như vậy nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quan hệ huyết thống gần gũi sẽ được sinh ra. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Theo tinh thần tại khoản 2 Điều 685 BLDS năm 2005, khi tiến hành phân chia di sản theo pháp luật, những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật. Tuy nhiên, di sản để lại vô cùng đa dạng, gồm nhiều loại khác nhau và không phải vật nào cũng chia được. Theo quy định tại Điều 177 BLDS năm 2005 thì:
- Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu.
- Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá thành tiền để chia.
Giải pháp đặt ra đối với trường hợp vật không chia được thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Nếu di sản là các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,…) thì giá trị của quyền tài sản được xác định bằng khoản tiền cụ thể sau đó chia đều cho những người được hưởng thừa kế.
Xác định di sản thừa kế và phương thức phân chia thừa kế theo pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi không có di sản thừa kế thì sẽ không bao giờ phát sinh quan hệ thừa kế.
2.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo pháp luật
Chia di sản thừa kế theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền thừa kế của những người có quyền hưởng thừa kế trong trường hợp không được định đoạt theo ý chí của người để lại di sản trong di chúc. Trong cuộc sống muôn hình, muôn vẻ, có rất nhiều tình huống mới phát sinh nên việc dự liệu các quy phạm pháp luật là hết sức cần thiết. Liên quan đến vấn đề phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo quy định tại Điều 687 BLDS năm 2005 đã đưa ra giải pháp giải quyết cho hai trường hợp có thể phát sinh, đó là có người thừa kế mới hoặc người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế.
Thứ nhất, trường hợp có người thừa kế mới: Người thừa kế mới được hiểu là sau khi di sản được phân chia mới xuất hiện người thừa kế này. Trước hết phải kể đến trường hợp những người thừa kế dành lại một suất di sản cho người thừa kế cùng hàng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết được sinh ra và còn sống sau khi người để lại di sản chết, nhưng sau đó lại xảy ra sự kiện sinh đôi hoặc sinh ba,… Hoặc trường hợp bản án, quyết định của Tòa án xác nhận một người là cha, mẹ, con của người chết nhưng bản án, quyết định này có hiệu lực sau thời điểm phân chia di sản thừa kế. Trong những trường hợp này, theo quy định tại khoản 1 Điều 687 BLDS năm 2005, hướng xử lý như sau: không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật nhưng những người đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận. Bên cạnh đó, những người thừa kế có thể thỏa thuận với nhau theo phương thức nhất định nhưng không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Trên thực tế có thể phát sinh trường hợp cha, mẹ, con của người để lại di sản bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết, sau khi phân chia xong di sản, người đó lại trở về. Đối với tình huống này, theo khoản 3 Điều 83 BLDS năm 2005 thì “Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn” [32]. Như vậy, người hưởng di sản thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết sau đó lại trở về có nghĩa vụ hoàn trả cho người trở về phần tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Tài sản hiện còn được hiểu là tài sản đó vẫn còn tồn tại ở dạng tài sản này hay dạng tài sản khác đều mang giá trị tài sản. Trong trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết mặc dù biết người này còn sống nhưng vẫn cố tình giấu giếm tài sản có được do được thừa kế thì phải hoàn trả lại toàn bộ tài sản đã nhận bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, trường hợp người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế: người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế được hiểu là người sau khi phân chia di sản họ mới được xác định là không có quyền hưởng di sản. Người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế có thể là người nhận di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Khoản 2 Điều 687 BLDS năm 2005 quy định như sau:
Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác [32].
Người bị bác bỏ quyền thừa kế được xác định trong trường hợp họ không có quyền hưởng thừa kế do vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 (được phát hiện sau khi chia thừa kế) hoặc có thể xảy ra trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đã nhận di sản thừa kế được chia nhưng sau đó phần di chúc liên quan đến người này bị xác định là vô hiệu.
Người thừa kế đã nhận di sản mà sau đó bị bác bỏ quyền thừa kế thì người này phải trả lại di sản hoặc thanh toán khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế hoặc phương thức trả lại được xác định theo sự thỏa thuận của những người thừa kế và người bị bác bỏ quyền thừa kế.
Phần di sản mà người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế hoàn trả sẽ được chia cho những người thừa kế trong cùng hàng có quyền hưởng di sản. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đã nhận phần di sản nhưng sau đó bị bác bỏ quyền thừa kế do phần di chúc liên quan đến người này bị vô hiệu, thì người bị bác bỏ có nghĩa vụ thanh toán như đã nêu ở trên và phần di sản này được chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo hàng có quyền hưởng thừa kế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, thừa kế (bao gồm hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) luôn được coi là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người đã chết cho người còn sống theo điều kiện, trình tự hàng thừa kế. Nội dung chính để xác định những người thừa kế theo pháp luật chính là việc xác định diện và hàng thừa kế. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người để lại di sản. Điểm đặc biệt và tiến bộ là không có sự phân biệt giữa con trai, con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, tất cả đều được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp. Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ thể về hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên dựa trên tính chất gần gũi với người để lại di sản. Một điểm đặc biệt nữa tạo nên sự khác biệt giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc chính là thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, về bản chất là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quan hệ huyết thống gần nhất với người để lại di sản mà ở đây không ai khác ngoài các con, các cháu của người để lại di sản. Trên cơ sở đó, các cháu, chắt sẽ được thay thế cha, mẹ hoặc ông bà để hưởng di sản của ông, bà, cụ trong trường hợp cha mẹ hoặc ông bà đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà hoặc cụ. Bên cạnh đó, pháp luật về thừa kế còn dự liệu và đưa ra giải pháp giải quyết các trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo pháp luật, chẳng hạn như trường hợp có người thừa kế mới hoặc người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế. Những qui định này không những bảo vệ được quyền thừa kế của công dân mà còn thể hiện chủ trương đường lối phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Kiến nghị hoàn thiện qui định về thừa kế theo pháp luật
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam […]