Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Phương hướng, Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra – từ huyện đình lập, Tỉnh Lạng Sơn dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện

Trong mô hình của nền hành chính công mới, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhưng, hệ thống luật pháp về thanh tra còn một số nội dung chưa phù hợp với Hiến pháp mới. Điều này đặt ra trách nhiệm phải hoàn thiện lại một cách chuẩn mực các định chế mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra theo hướng kiện toàn về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thanh tra theo hướng có tính độc lập hơn để tránh việc cơ quan thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp.

Thứ hai, nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học quy định chức năng giám sát hành chính của cơ quan thanh tra.

Thứ ba, cần nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học, xây dựng quy định về việc trao cho thanh tra quyền khởi tố ban đầu đối với vụ việc có hành vi vi phạm nghiêm trọng đến mức độ phải xử lý hình sự.

Hoàn thiện quy định về thẩm quyền của cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Trước tình hình thực tiễn hiện nay việc hoàn thiện những quy định pháp luật về thanh tra là rất cần thiết, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Ngành Luật

3.1.1. Dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Hiến pháp 2013 của nhà nước ta đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3) và “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [21]. Như vậy Nhà nước ta đang tiến hành tạo dựng những nền tảng cần thiết để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa không tách rời với qua trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài đặc điểm là Nhà nước luôn luôn xác định mục tiêu cao nhất là vì con người, là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân và đặc biệt quan trọng đó là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng dân chủ, văn minh, là phương pháp cơ bản nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khắc phục được sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.

Để thực hiện tốt vai trò, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước cần phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đảm bảo chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước là đấu tranh chống các vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, nhằm ổn định duy trì sự công bằng trong xã hội.

3.1.2. Dựa trên quan điểm, mục tiêu phát triển ngành Thanh tra đã được xác định trong Chiến lược phát triển nghành Thanh tra đến 2020 và tầm nhìn 2030

Chiến lược phát triển nghành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định ban hành vào ngày 08 tháng 12 năm 2015 Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Quan điểm phát triển nghành Thanh tra đó là:

Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thanh tra, kiểm tra; thể chế hóa kịp thời tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có liên quan đến công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với ngành Thanh tra.

Xây dựng cơ quan thanh tra nhà nước có thực quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng và từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập hiện nay. Phát triển ngành Thanh tra với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phòng, chống tham nhũng và hội nhập quốc tế [30].

Mục tiêu chung phát triển nghành thanh tra là: “ Xác lập địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; xây dựng ngành Thanh tra, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế” [30].

Mục tiêu cụ thể: Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Giai đoạn đến năm 2020: Kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế; chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao chất lượng các mặt công tác, đặc biệt là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng và xử lý sau thanh tra trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có liên quan.

Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030: Xây dựng và tăng cường tính hệ thống của ngành Thanh tra theo hướng quản lý tập trung, thống nhất về tổ chức, biên chế; nâng cao vai trò của các cơ quan thanh tra trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Thanh tra.

Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển mạnh sang xem xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.

Các cơ quan thanh tra ngành, lĩnh vực tập trung kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm của các tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày và lợi ích của người dân.

Với quan điểm và mục tiêu phát triển nghành Thanh tra được ghi nhận trong Chiến lược là cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của nghành thanh tra, trong đó có thanh tra cấp huyện.

3.1.3. Đáp ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, việc đáp ứng được các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mở cửa, hội nhập đón các nguồn đầu tư từ nước ngoài mở ra nhiều thời cơ đồng thời cũng đặt ra những thách thức. Để quản lý được nền kinh tế xã hội trong giai đoạn mới, việc đổi mới và tổ chức các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan thanh tra nói riêng là điều tất yếu. Không chỉ dừng lại ở việc phát hiện và xử lý các phạm pháp luật mà quan trọng hơn, từ thực tiễn hoạt động, cơ quan thanh tra chủ động kiến nghị, đề xuất, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý.

Có thể thấy xuất phát từ những yêu cầu khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra hiện nay, yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước thì việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toàn nghành thanh tra trong đó có thanh tra huyện là việc làm cần thiết.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra

Pháp luật về thanh tra xuất phát từ yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn nhất định, dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng về thanh tra của Hiến pháp hiện hành. Luật Thanh tra năm 2010 về các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay đã nảy sinh nhiều bất cập, không còn phù hợp. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về thanh tra, trong đó có tổ chức và hoạt động thanh tra huyện, đảm bảo phù hợp với giai đoạn hiện nay.

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Thanh tra huyện Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành hoạt động của mỗi cơ quan thanh tra phụ thuộc trực tiếp tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra. Sau khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu lực, bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra tra nhà nước có sự thay đổi đáng kể. Việc bố trí, sử dụng cán bộ có tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm, tâm lý của cán bộ trong ngành. Bên cạnh đó, lực lượng cán bộ hiện có còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về cơ cấu ngành nghề.

Về cơ cấu, tổ chức của Thanh tra huyện

Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010, “thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên”. Để hướng dẫn thi hành nội dung này, Điều 18 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/09/2011 của Chính phủ ngoài nhắc lại các chức danh Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên được quy định trong Luật Thanh tra năm 2010, còn bổ sung thêm chức danh “công chức khác”. Xét dưới góc độ pháp lý, việc Nghị định số 86/2011/NĐ-CP bổ sung thêm chức danh “công chức khác” là không phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010 bởi theo quy định Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên thuộc thanh tra huyện là công chức và được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra cũng như các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước [2]. Trong khi đó, “công chức khác” được quy định trong Nghị định số 86/2011/NĐ-CP tuy có thể là công chức nhưng lại không được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Trên thực tế, thanh tra là một hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ rất cao. Do đó, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động của Thanh tra huyện nói riêng phải được tiến hành bởi các thanh tra viên được đào tạo bài bản về công tác thanh tra. Ngoài những yêu cầu liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ, văn bằng, chứng chỉ, một chủ thể muốn được bổ nhiệm ngạch thanh tra viên phải có thời gian ít nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự, thử việc). Tuy nhiên trên thực tế, một người được tuyển dụng vào ngạch công chức chỉ cần trải qua thời gian tập sự là được bổ nhiệm ngạch công chức.

Hiện nay, trong tổ chức, Thanh tra huyện thường bố trí một “công chức khác” – là người không có ngạch thanh tra viên để đảm nhận những công việc cụ thể theo sự phân công của Chánh thanh tra. Về mặt pháp lý, công chức này vẫn tham gia hoạt động thanh tra và trở thành thành viên của Đoàn thanh tra[23]. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của các công chức này chú trọng hơn vào công tác văn thư hành chính, tổng hợp báo cáo, lưu trữ văn bản. Như vậy, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định thêm chức danh “công chức khác” để công chức này đảm nhận các công việc mang tính chất văn phòng là phù hợp với thực tiễn của công tác quản lý. Nếu không có công chức này, Thanh tra huyện phải cắt cử một thanh tra viên phụ trách công việc mang tính chất văn phòng. Tất nhiên, công việc này vẫn phải mang tính chuyên môn nghiệp vụ nhưng thiên về yếu tố kỹ thuật nhiều hơn. Cắt cử một thanh tra viên người được bổ nhiệm ngạch thanh tra vào các công việc mang tính kỹ thuật và ít gắn với chuyên môn thanh tra sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực. Điều này càng trở nên không cần thiết trong bối cảnh lực lượng thanh tra huyện còn ít và việc bổ nhiệm ngạch thanh tra viên có những khó khăn nhất định do yêu cầu về điều kiện bổ nhiệm khắt khe hơn rất nhiều so với các ngạch công chức khác. Tuy nhiên, tính hợp lý này lại bị “phủ định” bởi tính hợp pháp vì Luật Thanh tra năm 2010 không quy định chức danh “công chức khác” trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện.

Thứ hai, về số lượng Phó Chánh thanh tra Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Theo khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010, Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP giải thích rõ “Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện và chịu trách nhiệm trước phát luật, trước Chánh Thanh tra huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Ngày 05/05/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Theo khoản 3 Điều 5 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, ngoài người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (gọi là Trưởng phòng) thì số lượng Phó Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện không quá 03 người. Là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, về cơ cấu tổ chức, Thanh tra huyện đương nhiên vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 3 Điều 5 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP. Nói cách khác, Thanh tra huyện ngoài Chánh Thanh tra, có thể có không quá 03 Phó Chánh thanh tra. Tuy nhiên,Điều 8Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08/09/2014 của Tổng Thanh tra Chính phủ phối hợp Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành lại giới hạn: “Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra và không quá 02 Phó Chánh Thanh tra”. Rõ ràng, trong trường hợp này, Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV đã quy định số lượng Phó Chánh Thanh tra không phù hợp với Nghị định số 37/2014/NĐ-CP. Một điều cần nói là khi ban hành Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV, người có thẩm quyền vẫn căn cứ vào Nghị định số 37/2014/NĐ-CP nhưng không hiểu vì lý do gì mà số lượng Phó Chánh thanh tra được quy định trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV lại không phù hợp với Nghị định số 37/2014/NĐ-CP.

Từ những bất cập trên, việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra, trong đó có tổ chức thanh tra huyện là rất cần thiết, đảm bảo phù hợp với giai đoạn hiện nay. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Một là, cần sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng thừa nhận chức danh “công chức khác” trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện. Theo đó, khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010 có thể được sửa đổi như sau: “Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên và công chức khác”. Sửa đổi này vừa đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất trong hệ thống pháp luật vừa loại trừ tình trạng thiếu hụt nhân lực trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.

Thứ hai, Chính phủ cần ban hành văn bản sửa đổi số lượng cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện trong Nghị định số 37/2014/NĐ-CP theo hướng giảm số lượng cấp phó như quy định trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV. Theo đó, số lượng Phó Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện không quá người. Với quy định này thì Thanh tra huyện sẽ có không quá 02 Phó Chánh Thanh tra.

Thứ ba, trong thời gian tới một mặt hoàn chỉnh bộ máy của các cơ quan thanh tra nhà nước; mặt khác phải nâng cao năng lực công tác cho cán bộ, Thanh tra viên:

  • Tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước theo quy định của Luật Thanh tra và các Nghị định của Chính phủ.

Đối với Thanh tra huyện cần tập trung làm rõ vị trí, vai trò của tổ chức này với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về công tác thanh tra trên địa bàn lãnh thổ; tăng cường bổ sung đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên đủ về số lượng và có chất lượng để hoạt động. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra với nhiều cấp độ, nâng cao năng lực cho cán bộ, Thanh tra viên, trong đó chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước.

Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên ổn định, sử dụng gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng. Thông qua tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ Thanh tra viên ổn định, đủ mạnh. Đặc biệt cần có kế hoạch, chính sách tạo nguồn cán bộ quản lý, kết hợp phát triển tại chỗ đảm bảo tính liên tục, tính kế thừa, trẻ hoá cán bộ; sử dụng cán bộ, Thanh tra viên gắn liền với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, tiêu chuẩn hoá.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi là đòi hỏi có tính nguyên tắc trong định hướng chiến lược phát triển ngành Thanh tra đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để ngành Thanh tra phát triển ngang tầm với nhiệm vụ, những đòi hỏi đó, phải được thể hiện trước hết công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước.

2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động Thanh tra huyện

Đầu tiên các kế hoạch, chương trình thanh tra của thanh tra huyện nên giao quyền phê duyệt cho Chánh thanh tra tỉnh. Việc này sẽ giúp Chánh thanh tra tỉnh xử lý kịp thời tình trạng chồng chéo trong hoạt động thanh tra trong phạm vi của tỉnh.

Nên tăng cường thêm thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và thời gian kết luận thanh tra. Nên giao cho Trưởng đoàn thanh tra kết luận thanh tra vì việc giao cho ra quyết định thanh tra ký kết luận thanh tra như hiện nay làm hạn chế tính tích cực, chủ động và chịu trách nhiệm của trưởng đoàn thanh tra trong phát hiện qua thanh tra. Trưởng đoàn tra là người trực tiếp tiến hành thanh tra nên sẽ năm được diễn biến, tình hình của sự việc, còn người ra quyết định thanh tra do không trực tiếp tiến hành thanh tra nên không nắm được tình hình thực tế của cuộc thanh tra dẫn đến thời gian xem xét, ra kết luận kéo dài. Trong khi, thực tế hiện nay kết luận thanh tra vẫn thường được giao cho Trưởng đoàn thanh tra chuẩn bị.

Để tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng mang lại hiệu quả cao hơn, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra nhà nước với các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát, điều tra khác.

Để nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra cần xây dựng quy trình xử lý sau thanh tra để theo dõi, giám sát việc thực thi kết luận thanh tra. Thông qua đó xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; cơ quan tổ chức có liên quan trong việc thực hiện kết luận, quyết định xử lý thanh tra. Bên cạnh đó cần quy định một cách cụ thể các chế tài được áp dụng đối với đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan mà không thực hiện hoạc thực hiện không đúng theo thời gian đã quy định. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Cần quy định đối tượng thanh tra thuộc thẩm quyền của thanh tra huyện theo hướng dẫn mở rộng đối tượng thanh tra và được quy định rõ trên từng lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn như việc chấp hành chính sách pháp luật về tài chính ngân sách, nên quy định đối tượng thanh tra thược thẩm quyền của thanh tra huyện là tất cả các đơn vị dự toán do Uỷ ban nhân dân huyện giao, kể cả cơ quan Đảng, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện. Vì các đơn vị này trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước cũng phải tuân thủ Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan.

Cần tăng thêm chức năng giám sát cho các cơ quan thanh tra nhà nước. Thông qua hoạt động giám sát đó sẽ góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân, đồng thời ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng có thể xảy ra…

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo

Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận tại điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đó là: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền về những việc về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [21, tr.22]. Luật khiếu nại năm 2011 và luật tố cáo năm 2011 được quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 02 thông qua ngày 11/11/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2012. Hai đạo luật này và các văn bản hướng dẫn thi hành đã khắc phục được nhiều hạn chế, bất cập của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trước đây. Tuy nhiên pháp luật về khiếu nại, tố cáo hiện nay vẫn còn không ít hạn chế, bất cập cần phải hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời góp phần bảo vệ, bảo đảm cho các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo.

3.2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Luật khiếu nại năm 2011 quy định về chủ thể của quyền khiếu nại chưa thống nhất giữa các điều luật. Khoản 1,2 điều 2 của Luật khiếu năm 2011 không quy định người nước ngoài và người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam là chủ thể của quyền khiếu nại. Tuy nhiên tại khoản 1 điều 3 luật khiếu nại 2011: “Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” [24] thì cá nhân nước ngoài vẫn có quyền khiếu nại và vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của luật khiếu nại năm 2011. Vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung quy định này theo tinh thần của Hiến pháp 2013 là “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [21]

Việc quy định chủ thể giải quyết khiếu nại cũng chưa thống nhất: Khoản 6 Điều 2 quy định: “Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tố chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại” nhưng tại Khoản 1 Điều 7 lại quy định: “Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng Hành chính” [24]. Quy định trên không thống nhất với quy định thẩm quyền giải quyết được ghi nhận từ Điều 17 đến Điều 26 (chỉ xác định thẩm quyền của cá nhân mà không quy định thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tố chức). Do đó cần phải sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng người giải quyết khiếu nại chỉ là cá nhân có thẩm quyền. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Theo quy định của Luật khiếu nại thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. Do đó, nếu như phát hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật thì người khiếu nại phải khiếu nại đến người đứng đầu cơ quan, tổ chức chứ không khiếu nại đến người đã ra quyết định hành chính, càng không phải là cơ quan có người có hành vi hành chính trái pháp luật. Tuy nhiên, với quy định không rõ ràng như khoản 1, điều 7 Luật khiếu nại 2011 thì trong nhiều trường hợp người khiếu nại có thể gửi đơn khiếu nại lòng vòng, không đúng người có thẩm quyền giải quyết và mất quyền khiếu nại khi thời hiệu khiếu nại đã hết.

Theo quy định hiện hành, công dân chỉ có quyền khiếu nại một quyết định hành chính mang tính cá biệt mà không có quyền khiếu nại quyết định mang tính quy phạm của cơ quan nhà nước. Đây là một hạn chế đối với quyền khiếu nại của công dân vì trên thực tế, chính những quyết định này mới gây nhiều bức xúc trong nhân dân và thậm chí dẫn đến những khiếu nại đông người, vượt cấp. Theo thống kê của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), qua kết quả kiểm tra bước đầu từ năm 2002 đến năm 2005 đã phát hiện 33 tỉnh, thành ban hành 86 Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị có nội dung trái pháp luật. Lĩnh vực có nhiều văn bản sai trái nhất là: xử lý vi phạm hành chính, ưu đãi đầu tư, biên chế, đất đai, lệ phí. Tuy nhiên quá thời hạn ngày 10/2/2006 (theo đề nghị của Bộ Tư pháp) chỉ có 16/33 địa phương tự bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của mình.

Về việc xác định khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng không được giải quyết. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 7 Luật khiếu nại 2011 về trình tự khiếu nại: “Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết lần đầu…”. Đồng thời, Điều 18, 19 và Điều 21 Luật khiếu nại 2011 quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai: “Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của… đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng không được giải quyết” [24]. Theo quy định tại các điều luật này, khi khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn mà không được giải quyết thì người khiếu nại phải thực hiện thủ tục khiếu nại lần hai và người có thẩm quyền phải thực hiện trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1, Điều 31 Luật khiếu nại 2011: “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại”. Đoạn 2, khoản 1, Điều 33 quy định: “Trong trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai” [24]. Thực tế cho thấy, quy định này chỉ đúng với trường hợp khiếu nại lần đầu được thụ lý giải quyết, còn trong trường hợp người khiếu nại lần hai với lý do “khiếu nại lần đầu đã hết hạn nhưng không được giải quyết” [24] thì không thể thực hiện theo quy định nêu trên vì khiếu nại lần đầu không được giải quyết thì không thể có quyết định giải quyết lần đầu để gửi kèm theo đơn khiếu nại lần hai. Bên cạnh đó, việc quy định “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại” [24] cũng sẽ dẫn đến cách hiểu nếu khiếu nại lần đầu chưa được xem xét, giải quyết thì không thể ban hành quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không thể coi là khiếu nại đã được giải quyết.

Thực tế nêu trên dẫn đến người giải quyết khiếu nại lần hai không thể xác định được khiếu nại trong trường hợp này là lần đầu hay lần hai bởi vì những mâu thuẫn ở ngay chính các quy định của pháp luật khiếu nại. Vì nếu xác định là giải quyết khiếu nại lần đầu thì sẽ phát sinh thẩm quyền giải quyết lần hai ở cấp cao hơn, điều này là không đúng về thẩm quyền giải quyết, còn nếu xác định là giải quyết lần hai vì cho rằng người có thẩm quyền đã giải quyết lần đầu từ bỏ trách nhiệm giải quyết thì có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền lợi của người khiếu nại, đồng thời sẽ không đề cao trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại. Đây là vấn đề cần có hướng dẫn cụ thể trong các văn bản dưới luật để thống nhất áp dụng và bảo đảm quyền của người khiếu nại.

Về thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Luật khiếu nại 2011 quy định về việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật song lại chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành như: trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên có liên quan, trình tự thủ tục trong việc triển khai, việc tổ chức cưỡng chế, việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, việc phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức thi hành cũng chưa được chặt chẽ và đầy đủ. Vì vậy, quá trình tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thậm chí dẫn đến sai phạm, gây bức xúc cho người dân và dư luận xã hội.

Trên thực tế, có không ít vụ việc đã được giải quyết hết thẩm quyền, đúng chính sách, pháp luật, đã được rà soát, thông báo nhưng công dân vẫn không đồng ý, tiếp tục khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều ngành kể cả lên Trung ương, nhưng không cung cấp được bằng chứng, tình tiết mới. Các cơ quan nhà nước lại thiếu thống nhất trong việc chấm dứt, từ chối không thụ lý giải quyết, nên vụ việc kéo dài, gây lãng phí thời gian, công sức của cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, một trong những lý do của khiếu nại không có điểm dừng, nhất khiếu nại về đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng, do chính sách áp dụng trong giải quyết lần đầu và các lần tiếp theo thiếu nhất quán, nên không được sự đồng tình của nhân dân, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần nghiên cứu một cơ chế riêng để giải quyết khiếu nại về đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách đất đai.

Nguyên nhân dẫn đến những bất cập, hạn chế nêu trên xuất phát từ những hạn chế, bất cập của Luật khiếu nại 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những vấn đề này cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại.

3.2.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tố cáo

Về thẩm quyền giải quyết tố cáo của Thanh tra huyện và Chánh Thanh tra huyện Khoản 1 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp QLNN về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Với quy định này, có thể hiểu, Thanh tra huyện không chỉ tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng mà còn được trực tiếp có quyền “giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Điều 27 Luật Thanh tra năm 2010 khẳng định: “Thanh tra huyện giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”. Do đó, để thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thì Thanh tra huyện cần được thừa nhận quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo chứ không đơn thuần chỉ là chủ thể tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện trong việcgiải quyết khiếu nại, tố cáo.

Qua các phân tích trên, có thể thấy, Luật Thanh tra năm 2010 không “ngần ngại” quy định quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Thanh tra huyện.

Liên quan đến quyền giải quyết khiếu nại, Điều 17 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”. Là thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chánh thanh tra huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Như vậy, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra huyện được quy định thống nhất giữa Luật Thanh tra năm 2010 với Luật Khiếu nại năm 2011. Tuy nhiên, liên quan đến quyền giải quyết tố cáo thì nghịch lý phát sinh bởi Luật Tố cáo năm 2018 không quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo cho Chánh thanh tra huyện. Ở địa phương, đối với Chánh thanh tra, Luật Tố cáo năm 2018 chỉ quy định Chánh Thanh tra tỉnh có quyền giải quyết tố cáo và hoàn toàn “phớt lờ” thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh Thanh tra huyện. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Theo pháp luật về thanh tra, hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Thủ trưởng cơ quan QLNN ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra. Trong quyết định thanh tra phải thể hiện rõ nội dung liên quan đến thành phần của Đoàn thanh tra bao gồm: “Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn thanh tra”. Khi tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra có thể ban hành các quyết định hay thực hiện các hành vi trái pháp luật. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đối tượng thanh tra có quyền khiếu nại, tố cáo [3]. Theo điểm l khoản 1 Điều 48 Luật Thanh tra năm 2010, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra sẽ thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra hành chính.

Như vậy, khi tiến hành thanh tra đối với phòng, ban chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã), đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị khác do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập thì thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra thuộc về Chánh Thanh tra huyện. Đối với vụ việc phức tạp, vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị thì thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra (hoặc Đoàn thanh tra liên ngành) để thực hiện nhiệm vụ thanh tra thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu đối tượng thanh tra khiếu nại, tố cáo thì thẩm quyền giải quyết thuộc về người ra quyết định thanh tra hành chính – tức là Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc Chánh Thanh tra huyện. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp huyện ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra thì không có vấn đề gì đáng nói. Lúc này Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ là người trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, nếu Chánh Thanh tra huyện là người ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra thì phát sinh bất cập. Như đã trình bày, Chánh Thanh tra huyện chỉ có quyền giải quyết khiếu nại mà không có quyền giải quyết tố cáo. Việc giải quyết tố cáo sẽ chuyển sang cho Chủ tịch UBND cấp huyện mặc dù Chủ tịch UBND cấp huyện là người không ra quyết định thanh tra và cũng không thành lập Đoàn thanh tra trong trường hợp này.

Như vậy trước những bất cập trên, nhằm bảo đảm sự tương thích giữa Luật Thanh tra năm 2010 với Luật Tố cáo năm 2018 thì cần cân nhắc kỹ lưỡng về thẩm quyến giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện. Nếu thừa nhận thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện thì phải tiến hành sửa đổi Luật Tố cáo năm 2018. Tuy nhiên, Luật Tố cáo năm 2018 vừa mới được ban hành nên vấn đề sửa đổi luật này khó khả thi. Ngược lại, nếu không thừa nhận thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện thì cần sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng quy định rõ: “Chánh thanh tra huyện giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại”. Sửa đổi này tạo ra sự rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật. Theo đó, Chánh thanh tra huyện có quyền trực tiếp “giải quyết khiếu nại”, còn về tố cáo thì chỉ “tham mưu, giúp” Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết tố cáo.

3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Luật phòng chống tham nhũng được Quốc hội khóa XI thông qua năm 2005 và đã qua sửa đổi bổ sung. Luật phòng chống tham nhũng đã từng bước giúp tạo ra môi trường thể chế ngày càng công khai, minh bạch; từng bước tăng cường sự tham gia của người dân vào công tác phòng, chống tham nhũng; cơ chế kiểm soát đối với cán bộ, công chức, viên chức và chế độ công vụ cũng ngày càng được cải thiện; việc xử lý người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng cũng được chú trọng và nâng cao hiệu quả; bộ máy cơ quan phòng, chống tham nhũng bước đầu được củng cố, kiện toàn.

Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện còn ít, một số vụ việc xử lý còn kéo dài, chưa nghiêm, thu hồi tài sản tham nhũng đạt kết quả thấp, gây tâm lý bức xúc và hoài nghi trong xã hội về quyết tâm PCTN của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy việc hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng là một yêu cầu tất yếu khách quan, nhằm đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng có hiệu lực hiệu quả.

Thứ nhất, quy định về công khai, minh bạch cần mang tính bao quát hơn và có các biện pháp bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, cần quy định một cách đầy đủ, toàn diện về các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ làm giảm hiệu quả phòng ngừa và phát hiện tham nhũng.

Thứ ba, các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình cần cụ thể, đẩy mạnh tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Thứ tư, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát được biến động về tài sản, thu nhập; việc xử lý người kê khai không trung thực hoặc không giải trình được một cách hợp lý về biến động tài sản, thu nhập còn chưa hiệu quả. Vì vậy cần có những quy định cụ thể để việc kiểm soát biến động về tài sản, thu nhập hiệu quả hơn.

Thứ năm, cần có các quy định phù hợp về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán nhà nước, thanh tra nhà nước và giám sát, để phát huy được vai trò, chức năng của mỗi cơ quan.

Thứ sáu, các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo cần phải đầy đủ hơn nữa, để phát huy được sự tham gia của người dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng.

Thứ bảy, mối quan hệ giữa Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản pháp luật khác cần phải xác định rõ vị trí, vai trò để vận dụng một cách thống nhất và phải có biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật phòng chống tham nhũng.

Thứ tám, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử trong phát hiện tham nhũng, đặc biệt quy định về chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra nhằm đảm bảo tính kịp thời; quy định phương thức phối hợp giữa cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán với các cơ quan điều tra, kiểm sát ngay trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm nhằm xử lý nhanh chóng vụ việc.

3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của UBND huyện Đình Lập đối với Thanh tra huyện

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra: Công tác kiểm tra của Đảng và Nhà nước cùng với hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước với mục đích giữ gìn kỷ cương pháp luật, có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng quản lý, phát hiện, khắc phục kẽ hở của các chính sách, pháp luật góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh tra là công tác quan trọng, do vậy phải được tiến hành thường xuyên, vì nếu công tác thanh tra không được tiến hành thường xuyên sẽ dẫn tới bệnh quan liêu, mệnh lệnh và từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác cho sự nghiệp cách mạng.

Bác Hồ đã thường căn dặn cán bộ Thanh tra: “Cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các cấp địa phương kịp thời sửa chữa, uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm. Cho nên trách nhiệm của công tác thanh tra là quan trọng” (Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra. Uỷ Ban Thanh tra của Chính phủ, 1977). Người còn nói: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát” [ 9, tr.287]

Thực tế cho thấy, những cơ quan, đơn vị mà người lãnh đạo chú trọng công tác thanh tra và tiến hành thường xuyên hoạt động thanh tra thì không những kỷ cương, pháp luật trong quản lý duy trì mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý, thúc đẩy các hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý, kinh doanh của các doanh nghiệp. Những nơi không chú trọng công tác thanh tra, sẽ dễ dẫn đến những vi phạm, thậm chí là vi phạm nghiệm trọng tới mức phạm tội hình sự. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” [9]. Với quan niệm như vậy, Người chỉ ra rằng, hoạt động thanh tra không những giúp cho người lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị thấy được kết quả và mức độ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; mà còn có tác dụng giúp cho việc xem xét, đánh giá những chủ trương, chính sách và pháp luật đã đề ra có đúng và có sát thực tiễn hay không. Từ kết quả thanh tra, người lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị kịp thời xem xét, điều chỉnh và có những biện pháp cụ thể thích hợp giúp cho công tác quản lý, chỉ đạo; điều hành của mình sát thực tiễn và có hiệu quả; đồng thời cũng là biện pháp để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhân viên ngày một tốt hơn. Với cách tiếp cận như vậy cho thấy thanh tra chính là “cánh tay nối dài của trên”.

Đối với các cấp lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức khi được thanh tra kết luận sẽ giúp cho đối tượng được thanh tra nhận thức đầy đủ về ưu điểm và những vi phạm, thiếu sót của mình. Thấy được những việc làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy; những việc làm chưa đúng, những sai phạm, thiếu sót để khắc phục sửa chữa và nâng cao năng lực, trách nhiệm của mình. Như vậy, thanh tra chính là đã giúp đỡ mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước và thanh tra cũng là “bạn của dưới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng, công tác thanh tra phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với đời sống kinh tế – văn hóa – xã hội, công tác thanh tra có vai trò quan trọng như vậy nên cần được tiến hành thường xuyên trong hoạt động quản lý nhà nước.

Vì sự quan trọng đó nên:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền huyện đối với thanh tra huyện là yêu cầu khách quan, thiết yếu. Để lãnh đạo, chỉ đạo tốt, UBND huyện cần có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Sự lãnh đạo của đảng và chính quyền đối với hoạt động thanh tra của thanh tra huyện chỉ mang tính định hướng chung, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thanh tra, không can thiệp quá sâu vào hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra huyện. Mặc dù thanh tra huyện là cơ quan tham mưu, giúp việc cho thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, nhưng trong hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật. Nguyên tắc hoạt động thanh tra quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Thanh tra 2010 đó là “Tuân theo pháp luật: bảo đảm chính xác, khách quan, trưng thực, công khai, dân chủ, kịp thời” [23].

3.3.2. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên cơ quan Thanh tra huyện

Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra huyện Đình Lập đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết. Cán bộ thanh tra nếu chỉ có chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức thì vẫn chưa đủ, mà đòi hỏi cán bộ thanh tra còn phải có bản lĩnh nghề nghiệp, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, có năng lực phân tích, tổng hợp vấn đề, có khả năng phối hợp tốt trong công tác cũng như có thể độc lập trong nghiên cứu và tiến hành thực thi nhiệm vụ. Ngoài ra, cán bộ thanh tra phải thường xuyên cập nhật và nắm vững chủ trương của Đảng, những chính sách pháp luật mới trên tất cả các lĩnh vực, có kiến thức và ứng dụng được khoa học công nghệ trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng.

Với những đòi hỏi mang tính khách quan này, đội ngũ cán bộ, thanh tra viên trong hệ thống thanh tra nhà nước nói chung, đội ngũ cán bộ thanh tra viên của huyện Đình Lập nói riêng còn rất nhiều hạn chế, thiếu về số lượng và hạn chế về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng được mục đích, yêu cầu của hoạt động thanh tra hành chính. Do đó để đấp ứng các yêu cầu của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, thanh tra viên cần phải làm tốt việc tuyển dụng, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thanh tra viên: Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Thứ nhất, quan tâm làm tốt khâu tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức làm việc ở cơ quan thanh tra.

Việc tuyển dụng người vào cơ quan thanh tra nên chọn phương thức điều động cán bộ công chức đủ tiêu chuẩn về văn bằng, chứng chỉ, có trình độ, năng lực công tác tốt. Đối với sinh viên mới ra trường thì cần yêu cầu người có đầy đủ văn bằng liên quan đến nghành nghề. Đã có ý kiến cho rằng hạn chế tuyển dụng sinh viên mới ra trường vì chưa có kinh nghiệm. Tuy nhiên thực tiễn tại Thanh tra huyện Đình Lập trong những năm qua đã tuyển dụng 02 cán bộ là sinh viên mới tốt nghiệp đại học và khả năng làm việc được Chánh thanh tra huyện đánh giá rất cao. Khả năng xử lý công việc cũng như năng lực rất tốt.

Thứ hai, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ, công chức thanh tra. Trình độ và nghiệp vụ của cán bộ, công chức thanh tra có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động thanh tra. Nếu trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức này cao thì góp phần quan trọng có tính quyết định trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Ngược lại, nếu trình độ, nghiệp vụ của cán bộ công chức thanh tra thấp thì sẽ làm cho hiệu quả hoạt động thanh tra không đạt được mục đích. Vì vậy, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ, công chức thực hiện thanh tra là một giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra.

Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, công chức thực hiện thanh tra cần được sự quan tâm của cả hai phía: nhà nước và cán bộ, công chức thực hiện thanh tra. Cấp ủy, chính quyền huyện cần quan tâm nhiều hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra dưới nhiều hình thức khác nhau: Cần quan tâm đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức tổng hợp và chuyên sâu ở một số nghành, lĩnh vực, những phương pháp, kĩ năng cho đội ngũ cán bộ thanh tra viên. Trên thực tế ở huyện Đình Lập cán bộ thanh tra cũng được bồi dưỡng kiến thức pháp luật về thanh tra, khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng và nghiệp vụ về hoạt động thanh tra. Việc bồi dưỡng cán bộ thanh tra của huyện Đình Lập ở những lĩnh vực khác cần được chú trọng hơn. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức thanh tra phải lươn tự nâng cao trình độ của bản thân mình về chuyên môn đã được đào tạo và không ngừng học hỏi, lĩnh hội kiến thức chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra.

Thứ ba, kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ quan thanh tra, trong đó trước hết tăng thêm biên chế cho thanh tra huyện, hiện nay số lượng cán bộ thanh tra huyện còn thiếu dẫn đến việc đáp ứng hiệu quản công việc chưa cao. Bên cạnh đó thực tế đội ngũ cán bộ thanh tra huyện Đình Lập hiện nay đều có trình độ chuyên môn đảm bảo quy định, song sự am hiểu về nghiệp vụ thanh tra, về kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên, Uỷ ban nhân dân huyện cần phải tăng thêm biên chế cho cơ quan Thanh tra huyện vì số lượng biên chế hiện nay của huyện gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện tất cả các lĩnh vực công tác của nghành thanh tra dẫn đến hiệu quả công tác không cao. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Thứ tư, nâng cao đạo đức và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức Thanh tra huyện.

Bên cạnh trình độ và nghiệp vụ, cán bộ công chức thực hiện thanh tra cần phải có đạo đức và trách nhiệm công vụ để định hướng lương tâm, hành vi khi thực hiện nhiệm vụ. Nếu cán bộ, công chức thực hiện thanh tra không có đạo đức và tinh thần trách nhiệm thấp thì rất dễ thực hiện những hành vi pháp luật ngăn cấm như: sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra; cố ý kết luận sai sự thật; bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật… Vì vậy nâng cao đạo đức và trách nhiệm công vụ của cán bộ công chức thực hiện thanh tra là một giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra.

Để thực hiện được điều này phía nhà nước cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, công chức thực hiện thanh tra về những hành vi bị ngăn cấm, những hành vi cần phải thực hiện đúng đắn và có hiệu quả; Đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát cán bộ làm thanh tra và các đoàn thanh tra, xử lý nghiêm minh cán bộ thanh tra vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi công vụ. Về phía cán bộ, công chức thực hiện thanh tra cần tự rèn luyện bản thân để nâng cao đạo đức và trách nhiệm công vụ.

3.3.3. Đổi mới hoạt động thanh tra huyện

Từ thực tiễn Thanh tra huyện Đình Lập hiện nay còn nhiều hạn chế trong hoạt động. Do vậy đổi mới hoạt động của Thanh tra huyện là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác thanh tra.

Thứ nhất, tập trung mạnh vào việc thực hiện chức năng giám sát hành chính, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Trưởng phòng, các chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng. Thông qua hoạt động thanh tra nhằm xác định trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý cấp xã trong việc thực thi nhiệm vụ, công vụ; Xác định trách nhiệm của các cấp, các nghành trong việc để xảy ra các sai phạm; phát hiện sơ hở trong chính sách, yếu kém trong quản lý, từ đó có kiến nghị, sửa đổi, bổ sung hoặc khắc phục.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch và tiến hành thanh tra cần có trọng tâm, trọng điểm, xác định nội dung, đối tượng chính xác, tập trung vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm để vừa góp phần làm ổn định tình hình, vừa kịp thời xử lý những sai phạm. Trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo cần tăng cường đối thoại với nhân dân, lắng nghe các kiến nghị phản ánh của công dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của dân phải kịp thời, đúng pháp luật và phải thực sự công tâm.

Thứ ba, việc thành lập Đoàn thanh tra, đặc biệt là trưởng đoàn thanh tra phải lựa chọn người có đủ năng lực và có chuyên môn về nội dung thanh tra. Hoạt động của đoàn thanh tra phải đảm bảo các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Kết quả thanh tra phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra cần có quyết định xử lý chính xác, kịp thời, đúng pháp luật theo thẩm quyền hoạc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kịp thời, ngay trong quá trình thanh tra và sau khi kết thức thanh tra, tránh phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan nhà nước khác.

Thứ tư, nâng cao chất lượng báo cáo kết quả thanh tra và kết luận thanh tra. Nội dung báo cóa và kết luận cần cụ thể, rõ ràng, có trọng tâm và phải nêu bật được tính chất mức độ sai phạm, hậu quả do sai phạm gây ra, nguyên nhân và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan. Trên cơ sở đó kiến nghị xử lý sai phạm chính xác, đúng pháp luật.

Thứ năm, các thành viên Đoàn thanh tra phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục thanh tra theo quy định của pháp luật, không để ảnh hưởng hay chịu bất cứ tác động nào cho dù đó là người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Để thành viên Đoàn thanh tra trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của Đoàn thanh tra chỉ tuân theo pháp luật, ngoài việc đòi hỏi thành viên Đoàn Thanh tra phải có bản lĩnh nghề nghiệp, tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, rất cần người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước không được can thiệp vào các hoạt động nghiệp vụ của Đoàn Thanh tra.

Thứ sáu, cần tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Tính hiệu lực, hiệu quả của cuộc thanh tra phụ thuộc vào kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Vì nếu cuộc thanh tra chỉ dừng ở mức độ phát hiện và kết luận, kiến nghị thì hiệu quả của cuộc thanh tra đạt được rất hạn chế. Để kết luận, kiến nghị thanh tra đi vào cuộc sống thì việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra phai được quan tâm đúng mức. Thông thường sau khi kết thức thanh tra thì Đoàn thanh tra hết nhiệm vụ, nên việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị không được theo dõi một cách thường xuyên, chặt chẽ, do đó không theo sát được việc đối tượng thanh tra có thực hiện hay không hoặc thực hiện ở mức độ nào, nghiêm túc hay không nghiêm túc… để kịp thời có biện pháp đảm bảo kết luận, kiến nghị được thi hành đúng. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Để thực hiện tốt công tác này người đứng đầu cơ quan thanh tra là chánh thanh tra, chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện phải đề cao vai trò có trách nhiệm, kiên quyết chỉ đạo mạnh mẽ các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra và có biện pháp xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng quy định theo kết luận, kiến nghị sau thanh tra.

3.3.4. Đảm bảo tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động thanh tra

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện là quá trình đổi mới về tổ chức bộ máy, bổ sung tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức và xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ khối lượng công việc mà thanh tra huyện đang đảm nhiệm thì việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và điều kiện làm việc không những là nội dung mà còn là yêu cầu, nhiệm vụ cần thiết được gắn liền với quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nghành thanh tra. Vì vậy công tác dây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và điều kiện làm việc cho hoạt động thanh tra cần thực hiện đó là: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại như xây dựng trụ sở làm việc, đảm bảo đầy đủ máy vi tính, máy phô tô, máy in…đảm bảo đủ cho cán bộ thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do đặc thù của nghành thanh tra là rất khó khăn, phức tạp, phải thường xuyên đi cơ sở để thâm tra, xác minh, trưng cầu giám định vì vậy cần đảm bảo kinh phí cho hoạt động thanh tra.

3.3.5. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [ 21, tr.8]. Để có được “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì Nhân dân” ở nước ta hiện nay, một trong những điều rất quan trọng là phải “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức phải hướng vào mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu, có khả năng làm chủ các kiến thức khoa học kỹ thuật trên cơ sở áp dụng các trang thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu quản lý hành chính trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chiến lược, những chuyên gia trong các lĩnh vực quản lý và đội ngũ công chức trẻ, cán bộ có năng năng lực.

Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác đánh giá, thanh tra, kiểm tra mọi hoạt động công vụ của cán bộ, công chức. Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá công chức cụ thể, phù hợp với từng đối tượng công chức, phù hợp với công chức chuyên môn đồng thời cán bộ, công chức phải biết vận dụng đúng đắn pháp luật để giải quyết tốt công việc được giao. Chính vì vậy giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức có vai trò quan trọng.

3.3.6. Ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động thanh tra

Việt Nam đang nỗ lực “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ”, trong đó, lĩnh vực công nghệ thông tin được xác định là ngành kinh tế – kỹ thuật mũi nhọn và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng bước hiện thực hóa chiến lược “phát triển rút ngắn”, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho quản lý nhà nước. Một nền quản lý nhà nước có hiệu quả sẽ góp phần phát huy các thế mạnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Ngành Thanh tra cần có những định hướng, chỉ đạo cụ thể nhằm tăng cường năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0 trong hoạt động quản lý nhà nước. Việc triển khai ứng dụng kết quả cách mạng công nghiệp 4.0 thông qua triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước và các ứng dụng khác của ngành công nghiệp này là điều cấp thiết trong thời đại mới. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Trong toàn bộ hoạt động quản lý nói chung, hoạt động thanh tra nói riêng việc ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật trở thành yếu tố có ý nghĩ rất quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới hoạt động thanh tra huyện Đình Lập không thể không đề cập đến vấn đề ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động thanh ta. Bởi vì: Tuy là Thanh tra huyện nhưng phạm vi hoạt động thanh tra cũng rất rộng, nội dung thanh tra đa dạng, phức tạp, bao gồm tất cả các nghành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; đối tượng thanh tra có xu hướng ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và phương tiện hiện đại để thực hiện, che giấu hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy hoạt động thanh tra luôn đòi hỏi người cán bộ thanh tra không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải tinh thông về nghiệp vụ, về kiến thức pháp luật, có trình độ khoa học kĩ thuật hiện đại vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn hoạt động thanh tra đặt ra.

Một trong những nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là phải đảm bảo chính xác, khách quan, kịp thời. Do vậy, việc ứng dụng tốt các thành tự khoa học kĩ thuật, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra sẽ giúp cho việc lưu trữ, bảo vệ hồ sơ, tài liệu thanh tra một cách khoa học, dễ tra cứu, sử dụng góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả cồng tác thanh tra, phục vụ tốt hơn yêu cầu của công tác quản lý.

Kết luận chương 3

Từ cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện, thực tiễn tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Chương này đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra, đặc biệt là tổ chức và hoạt động thanh tra huyện, nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra huyện Đình Lập. Đó là: Hoàn thiện pháp luật về thanh tra; pháp luật khiếu nại tố cáo và pháp luật về phòng chống tham nhũng. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng và chính quyền huyện Đình Lập đối với thanh tra huyện; đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức làm công tác thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên cơ quan thanh tra huyện; đổi mới hoạt động của thanh tra huyện, đảm bảo tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động thanh tra huyện; đảm bảo tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động thanh tra; tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức; ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động thanh tra.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, vấn đề được đặt lên hàng đầu là là cải cách nền hành chính nhà nước. Cải cách nền hành chính nhà nước trước hết là quản trị tốt nền hành chính, làm cho nền hành chính có năng lực, hiệu lực hiệu quả, nhằm tác động trực tiếp vào quá trình xã hội. Trong sự tác động này, hoạt động thanh tra giữ vai trò hết sức quan trọng.

Nói đến vị trí, vai trò của công tác thanh tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan điểm “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của thanh tra trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội, Người ví thanh tra quan trọng như tai và mắt của con người, như một bộ phận cấu thành của cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp cho con người phát triển trí tuệ. Điều đó có nghĩa là cũng giống như tai, mắt của cơ thể con người. Thanh tra được xem là một bộ phận cấu thành hữu cơ của cơ quan quản lý Nhà nước, là phương tiện nhận thức của quá trình quản lý Nhà nước, giữa chúng không có khoảng cách. Bởi quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà không có thanh tra, kiểm tra xem như không có quản lý.

Nếu tách rời tai, mắt ra khỏi cơ thể con người, tách khỏi phương tiện nhận thức phát triển của con người ra khỏi cơ thể của con người.

Thanh tra là tai mắt của trên: bởi qua thanh tra, kiểm tra giúp cho người quản lý cấp trên thấy được những yếu kém, thiếu sót, những quan điểm chưa phù hợp, thiếu đồng bộ của đường lối, chủ trương, chính sách của hệ thống pháp luật, đánh giá được năng lực, trách nhiệm điều hành và quản lý của người lãnh đạo quản lý cấp dưới. Đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn nơi nào, cá nhân nào làm tốt để biểu dương, chưa làm tốt để uốn nắn. Như vậy, đối với người lãnh đạo, quản lý, thanh tra đúng là phương tiện giúp cho người lãnh đạo, quản lý nhận thức và phát triển tư duy, kiểm tra lại chính mình để chủ động điều chỉnh lại chủ trương, chính sách, pháp luật cho phù hợp với quá trình quản lý Nhà nước.

Thanh tra là người bạn của dưới: có ý nghĩa là đối với người lãnh đạo, quản lý cấp dưới, thì thanh tra chính là người bạn giúp họ thấy được những việc mình làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy, những việc làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách nhiểm để khắc phục, sửa chữa, nâng cao năng lực, trách nhiệm của mình, là người bạn của dưới có nghĩa là người làm công tác thanh tra phải luôn gần gũi với nhân dân ngay cả đối với đối tượng thanh tra.

Với đề tài “Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra – Từ thực tiễn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn” tác giả đã giải quyết cơ bản mục đích, yêu cầu đặt ra của đề tài, hình thành cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra cấp huyện, các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.

Qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện và thực tiễn huyện Đình Lập có thể thấy bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Một số quy định của pháp luật không còn phù hợp; số lượng cán bộ, công chức thanh tra huyện còn rất hạn chế, khó để thực hiện tốt nhiệm vụ của nghành thanh tra; trình độ chuyện môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thanh tra cấp huyện chưa đáp ứng cao yêu cầu nhiệm vụ; sự can thiệp quá sâu của thủ trưởng cơ quan đã làm tính chủ động, tính độc lập cần thiết của cơ quan thanh tra. Trong khi đó, pháp luật còn thiếu các quy định đảm bảo độc lập cho hoạt động thanh tra. Cụ thể như thủ trưởng cơ quan thanh tra không có thẩm quyền phê duyệt chương trình kế hoạch thanh tra kể cả quyết định thanh tra đột xuất. Trưởng đoàn thanh tra và thanh tra viên không được ra kết luận và không chịu trách nhiệm về kết luận thanh tra. Tính công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra còn thấp…Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Thứ nhất, Hoàn thiện pháp luật về thanh tra, pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của đảng và chính quyền huyện Đình Lập đối với thanh tra huyện.

Thứ ba, đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên của cơ quan thanh tra huyện.

Thứ tư, đổi mới hoạt động thanh tra huyện

Thứ năm, đảm bảo tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động thanh tra.

Thứ sáu, tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức Thứ bảy, ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động thanh tra.

Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra huyện Đình Lập phải gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra của toàn nghành thanh tra. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề và cần được tiến hành từng bước. Để làm được điều đó cần có sự quyết tâm của các cấp Đảng, chính quyền huyện và lãnh đạo thanh tra huyện, đồng thời mỗi cán bộ, công chức cơ quan thanh tra huyện phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tu dưỡng về đạo đức. Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra.

Phát huy những kết quả đạt được sau hơn 70 năm hình thành và phát triển của ngành thanh tra, nghành thanh tra nói chung và Thanh tra huyện Đình Lập nói riêng chắc chắn sẽ ngày càng vững mạnh và có nhiều đóng góp cho đất nước trong công cuộc đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra ở Lạng Sơn

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Giải pháp Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993