Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của Đề tài
Các quốc gia trên thế giới đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng trong đảm bảo tính ổn định nguồn thu của ngân sách nhà nước và sự gia tăng của mức dư nợ công trong bối cảnh phải liên tục tăng chi để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này và yêu cầu đảm bảo bền vững tài khóa đang là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hiện nay của ngành tài chính. Trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và quốc tế dự báo tiếp tục có những diễn biến khó lường, nhiệm vụ đặt ra đối với nền tài chính quốc gia hết sức nặng nề, đòi hỏi cần phải có những giải pháp toàn diện và đồng bộ. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Là một cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, hàng năm, Ngân hàng Nhà nước đều được ngân sách nhà nước cấp kinh phí khoán để đảm bảo hoạt động như các khoản chi cho cán bộ công chức, chi hoạt động quản lý công vụ… Bên cạnh đó, những năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã có những đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước với những khoản thu từ hoạt động đặc thù như nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở, dịch vụ thanh toán… Cùng với cả nước, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện nhiệm vụ của mình, góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược và cấp thiết là việc xây dựng hệ thống Kiểm soát nội bộ trở thành cơ chế tự phòng chống rủi ro và bảo vệ an toàn tài sản, tăng cường hiệu quả công tác quản lý tài chính.
Hệ thống Kiểm soát nội bộ ngân hàng tại Việt Nam mới phát triển trong những năm gần đây. Chính vì vậy qui trình thực hiện, hiệu quả của hoạt động đó cho đến nay còn nhiều thiếu sót, cần được quan tâm và nâng cao. Ngân hàng Nhà nước cần phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống Kiểm soát nội bộ đủ mạnh để có thể hướng các hoạt động của đơn vị theo đúng quy định của pháp luật, ngăn ngừa các sai phạm, chống thất thoát nguồn vốn, tài sản, từ đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính.
Với Đề tài “Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, Tác giả mong muốn tiếp tục quá trình nghiên cứu về hệ thống Kiểm soát nội bộ với việc quản lý tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và đạt được các mục tiêu mà Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã đặt ra.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Tài Chính Ngân Hàng
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Tại Việt Nam, có nhiều tác giả quan tâm đến đề tài về hệ thống kiểm soát nội trong Ngân hàng. Các đề tài đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Một số đề tài, bài viết có thể kể đến là:
“Hệ thống Kiểm soát nội bộ của một ngân hàng hiện đại” – bài viết của tác giả ThS. Vũ Thúy Ngọc (công tác tại Ngân hàng Nhà nước) trên Tạp chí Ngân hàng số 9/2006 ngày 29/05/2006. Bài viết mới chỉ dừng lại ở việc nêu khái niệm của hệ thống Kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, mục tiêu và các cấu phần của hệ thống; một số nhận xét, đánh giá và các giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997 và Quy chế về kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Một vài ý kiến về “Hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ hiện nay” – bài viết của tác giả Bùi Thị Thư – Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VII trên web tạp chí Kiểm toán ngày 12/01/2013, đã mở rộng đối tượng hơn khi nêu được đặc điểm hoạt động của kiểm toán nội bộ với ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại, các hình thức của kiểm toán nội bộ, những vấn đề khó khăn trong thực trạng hoạt động của bộ máy Kiểm toán nội bộ lĩnh vực ngân hàng; một số đánh giá chung về công tác kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ lĩnh vực ngân hàng. Tác giả bài viết đã có những đóng góp đáng kể khi nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề của hệ thống Kiểm toán nội bộ trong cả Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại dựa trên kinh nghiệm kiểm toán của mình. Tuy nhiên, Tác giả chỉ đi sâu vào một yếu tố trong hệ thống Kiểm soát nội bộ là kiểm toán nội bộ mà chưa có cái nhìn tổng quát về cả hệ thống, và cũng chưa đánh giá được vai trò của kiểm toán nội bộ với công tác quản lý tài chính.
Về luận văn Thạc sĩ có thể kể đến các tác giả:
Đề tài “Giải pháp hoàn thiện kiểm toán nội bộ trên cơ sở đánh giá rủi ro tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”- của tác giả Chu Sỹ Thế (công tác tại Ngân hàng Nhà nước) năm 2016. Đề tài nghiên cứu với mục đích hỗ trợ cho việc triển khai phương pháp kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn trong đó trọng tâm nghiên cứu là những giải pháp để việc triển khai phương pháp kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có hiệu quả. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Tác giả Vũ Đức Long (2022) với đề tài “Hoạt động kiểm toán nội bộ trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận chung, các văn bản pháp lý có liên quan điều chỉnh hệ thống kiểm toán nội bộ của ngân hàng trung ương; phân tích góp phần hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước; phân tích thực trạng hoạt động Kiểm toán nội bộ trong những năm qua tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, từ đó đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại và tìm ra nguyên nhân của tồn tại; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới.
Các công trình nghiên cứu trên đã khái quát những lý luận cơ bản về hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng và các tiêu chí đo lường hiệu quả, qua đó phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng trung ương, so sánh với hoạt động kiểm soát nội bộ tại các Ngân hàng trung ương trên Thế giới và đưa ra những giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả kiểm soát nội bộ.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có tác giả nào đi sâu vào việc đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ gắn với quản lý tài chính tại một chủ thể nghiên cứu là một cơ quan nhà nước có đặc thù phức tạp như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai Dự án hiện đại hóa ngân hàng (FSMIMS), trong đó có cấu phần về SG 3.1- Kế toán ngân hàng lõi, lập kế hoạch tài chính trên hệ thống công nghệ thông tin. Đây là một phương pháp làm việc mới phục vụ công tác quản lý tài chính; tiếp cận với phương pháp mới đòi hỏi hệ thống kiểm soát nội bộ cũng cần đồng bộ, khắc phục những tồn tại, hạn chế của của phương pháp cũ. Xuất phát từ những lý do trên tác giả quyết định lựa chọn đề tài Luận văn “Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Tác giả muốn từ cách nhìn tổng quan về hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước đến việc phân tích sâu cụ thể vào lĩnh vực tài chính để thấy được thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, từ những hạn chế tồn tại đưa ra những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ đối với công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống Kiểm soát nội bộ nói chung, hệ thống Kiểm soát nội bộ với công tác quản lý tài chính nói riêng, Luận văn hướng tới giải quyết những vấn đề nghiên cứu như sau:
Thứ 1: Phân tích các cơ sở khoa học của hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung, hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng.
Thứ 2: Thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ gắn với công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đánh giá những ưu, nhược được, tìm ra nguyên nhân của các hạn chế.
Thứ 3: Tìm ra các phương hướng để hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ gắn liền với công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
- Về nội dung: đề tài khảo sát, nghiên cứu và đánh giá vấn đề kiểm soát nội bộ có gắn với công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong đó, tác giả xin tập trung sâu hơn vào vấn đề kiểm soát các khoản chi phí quản lý thực hiện theo cơ chế khoán của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Về không gian: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Về thời gian: Nghiên cứu trong 02 năm 2021, 2022 và định hướng đến năm 2030.
1.5. Phương pháp nghiên cứu của Đề tài
1.5.1 Phương pháp luận
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhận thức khoa học. Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu có sự đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn một cách biện chứng.
1.5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp đối chiếu, liên hệ và so sánh. Với phương pháp thu thập số liệu, thông tin, cụ thể tác giả đã sử dụng hai nguồn dữ liệu cơ bản là nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp.
Đối với nguồn dữ liệu thứ cấp đó là các văn bản liên quan đến hoạt động kiểm soát, Kiểm toán nội bộ nói chung có hiệu lực (hệ thống chuẩn mực), các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng như Luật Ngân hàng Nhà nước, văn bản nội bộ do Ngân hàng Nhà nước ban hành, các báo cáo, hồ sơ lưu trữ…. Việc thu thập các nguồn dữ liệu này chủ yếu dựa vào việc tra cứu thông tin trên các file lưu trữ văn bản bằng bản cứng và bản mềm được lưu hành nội bộ Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh đó tác giả còn sử dụng thông tin trên các trang mạng điện tử được pháp luật công nhận
Đối với nguồn dữ liệu sơ cấp, thông qua quan sát, thu thập thông tin thông qua bảng hỏi đồng thời thu thập dữ liệu cụ thể về hệ thống Kiểm soát nội bộ, khảo sát các biểu phân tích của các kiểm soát viên có kinh nghiệm, khả năng bao quát vấn đề tốt về Phòng/bộ phận kiểm soát các đơn vị; thăm dò lấy ý kiến của trưởng, phó phòng Kiểm toán nội bộ về những bất cập, tồn tại của hoạt động kiểm soát, Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước. Các kết quả, số liệu về công tác quản lý tài chính được lấy từ Phòng Quản lý Tài chính – Vụ Tài chính – Kế toán. Sau khi thu thập được nguồn dữ liệu sơ cấp trên, tác giả sẽ đi vào phân tích và đưa ra những kết luận chung về hoạt động kiểm soát cụ thể về qui trình, chất lượng của hoạt động Kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính.
1.6. Ý nghĩa của Đề tài nghiên cứu Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Trên phương diện thực tiễn: Tác giả Luận văn đưa ra những luận giải thực tế về hệ thống Kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói chung và với công tác quản lý tài chính nói riêng, từ đó thấy được những ưu nhược điểm và đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống Kiểm soát nội bộ trong việc tăng cường công tác quản lý tài chính tại đơn vị.
Trên phương diện lý luận: tác giả luận văn đưa ra lý luận về Kiểm soát nội bộ trong việc tăng cường công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước.
1.7. Kết cấu nghiên cứu của Đề tài
Kết cấu Luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học về hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1.1. Hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.1. Khái niệm về hệ thống kiểm soát nội bộ Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Kiểm soát cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người và có liên quan mật thiết đến quản lý. Đích cuối cùng mà quá trình quản lý hướng tới là đạt được mục tiêu đã đặt ra trong khuôn khổ một đơn vị nhất định. Việc thực hiện kế hoạch luôn phải đối mặt với những thay đổi môi trường bên trong và bên ngoài đơn vị. Nếu không có kiểm soát, nhà quản lý sẽ không có những thông tin để ra những quyết định thích hợp nhằm thích ứng với môi trường, do đó khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đặt ra. Chính vì vậy, nghiên cứu và thực hiện kiểm soát hiệu quả luôn là nội dung gắn liền với quản lý.
Theo các tác giả Schoderbek, Cosier và Aplin (1988), kiểm soát là hoạt động đánh giá và chỉnh sửa những lệch lạc từ tiêu chuẩn. Kiểm soát do đó bao gồm các hoạt động: thiết lập tiêu chuẩn, đánh giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn, và chỉnh sửa những lệch lạc từ thực tế so với tiêu chuẩn đã xác lập. Cách thức này được áp dụng chung cho mọi hệ thống kiểm soát có thể là kiểm soát chất lượng, kiểm soát hành vi, kiểm soát nhân sự. Các tác giả Jones và George (2003) cho rằng kiểm soát là quá trình nhà quản lý giám sát và điều tiết tính hiệu quả và hiệu lực của một tổ chức và các thành viên trong việc thực hiện các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Tuy nhiên, kiểm soát không có nghĩa là chỉ phản ứng lại những sự kiện sau khi đã diễn ra. Kiểm soát cũng có nghĩa là giữ cho tổ chức theo đúng định hướng và dự kiến các sự kiện có thể xảy ra.
Theo Từ điển Tiếng Việt (1996), kiểm soát là sự xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Với quan điểm nghiên cứu về kiểm soát trong kiểm soát quản lý, TS. Nguyễn Thị Phương Hoa đã đưa ra khái niệm về kiểm soát: “Kiểm soát là quá trình đo lường, đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo mục tiêu, kế hoạch của tổ chức được thực hiện một cách có hiệu quả”. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm về bản chất và vai trò của kiểm soát trong quản lý, kiểm soát không phải là một pha hay một giai đoạn trong quá trình quản lý mà là một chức năng không thể tách rời của quản lý. Trong suốt quá trình quản lý, kiểm soát luôn tồn tại trước, trong và sau mỗi hoạt động. Một cách tổng hợp nhất, kiểm soát được hiểu là tổng hợp các phương sách để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách thể quản lý.
Kiểm soát là hoạt động quan trọng trong một tổ chức cũng như toàn bộ xã hội. Với các nhà quản lý, kiểm soát là phương sách để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Không có kiểm soát cũng đồng nghĩa với sự không tồn tại quản lý. Một hệ thống kiểm soát có các thước đo cho phép nhà quản lý đánh giá tính hiệu quả của tổ chức trong việc sản xuất và cung cấp dịch vụ. Không có hệ thống kiểm soát nhà quản lý không có ý tưởng gì về tổ chức hoạt động như thế nào và hoạt động có thể cải thiện ra sao. Trong lĩnh vực kiểm toán, từ lâu các kiểm toán viên đã nhận thức được ảnh hưởng của kiểm soát đối với báo cáo tài chính của đơn vị và đã phát triển các kỹ năng tìm hiểu, đánh giá chúng để phục vụ cho công tác kiểm toán. Do đó, khái niệm về kiểm soát nội bộ đã hình thành, phát triển và trở thành một hệ thống lý luận về kiểm soát trong tổ chức, không chỉ phục vụ công việc của kiểm toán viên mà còn liên quan mật thiết đến vấn đề quản trị kinh doanh.
Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm kiểm toán nội bộ cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ trên thế giới. Năm 1987, Hiệp hội các tổ chức tài trợ COSO (được thành lập từ các hiệp hội nghề nghiệp uy tín tại Mỹ) đã công bố một hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ giúp các tổ chức có thể đánh giá quá trình kiểm soát của họ nhằm tìm giải pháp hoàn thiện, trong đó đưa ra định nghĩa về kiểm soát nội bộ như sau: “KSNB là quá trình do hội đồng quản trị, người quản lý và nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu dưới đây:
Đảm bảo sự tin cậy của báo cáo tài chính; Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Đảm bảo sự tuân thủ các quy định và luật lệ; Đảm bảo các hoạt động được thực hiện hiệu quả.”
Trên thực tế, báo cáo của COSO được đánh giá là thiết thực, rõ ràng với các tổ chức trong việc thiết lập và thực hiện kiểm soát nội bộ nhằm tạo thành một quá trình liên tục để mỗi tổ chức có thể đảm bảo việc thực hiện được mục tiêu của họ.
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế IAS 400: “Hệ thống Kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách và thủ tục kiểm soát do Ban Giám đốc của đơn vị thiết lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và hiệu quả của các hoạt động trong khả năng có thể”. Cuối năm 2003, Ủy ban Chuẩn mực Kiểm toán và các Dịch vụ đảm bảo quốc tế thuộc Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đã ban hành một số chuẩn mực kiểm toán mới, trong đó có ISA 315 “Hiểu biết tình hình kinh doanh, môi trường của doanh nghiệp và đánh giá rủi ro có sai phạm trọng yếu” trên cơ sở đề cập một cách toàn diện về khái niệm rủi ro trong kiểm toán. Chuẩn mực này có hiệu lực từ sau ngày 15/12/2004 và thay thế cho ISA 400- Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ. Theo ISA 315, kiểm soát nội bộ được hiểu là “một quá trình được thiết kế và chịu sự chi phối của các nhà quản lý và các nhân viên trong một tổ chức nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp lý về việc đạt được các mục tiêu liên quan đến độ tin cậy của báo cáo tài chính, hiệu quả hoạt động cùng hiệu năng quản lý và tuân thủ các quy định luật lệ”. Tuy nhiên, cả COSO và IFAC trong ISA 315 mới chỉ đưa ra khái niệm về “kiểm soát nội bộ” mà không phải toàn bộ “hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “hệ thống” xét theo cách chung nhất là “thể thống nhất được tạo lập bởi các yếu tố cùng loại, cùng chức năng, có liên hệ chặt chẽ với nhau” hoặc “thể thống nhất bao gồm những tư tưởng, nguyên tắc, quy tắc liên kết với nhau một cách chặt chẽ, có logic”. Theo Từ điển Kinh tế Kinh doanh Anh – Việt có giải thích hệ thống kiểm soát nội bộ là “hệ thống các phương pháp, thể thức hay chế độ kiểm tra trong nội bộ một công ty nhằm đẩy mạnh hiệu quả, đảm bảo việc thi hành đường lối chính sách và bảo toàn các tài sản của công ty”. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế về Đánh giá rủi ro và Đo lường Kiểm soát nội bộ của IFAC (IAS 400 trước đây) “Hệ thống Kiểm soát nội bộ là tập hợp bao gồm các chính sách và thủ tục (các loại hình kiểm soát) được áp dụng bởi các nhà quản lý của đơn vị nhằm thực hiện các mục tiêu đã định như: thực hiện hoạt động hiệu quả và tuân thủ pháp luật, bám sát chủ trương mà nhà quản lý đã đặt ra; bảo vệ tài sản; ngăn ngừa và phát hiện các gian lận và sai sót; đảm bảo sự đầy đủ và chính xác của các thông tin kế toán; lập báo cáo tài chính trung thực, đúng thời hạn”. Quan điểm này khá tương đồng với Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VAS 400 được ban hành theo Quyết định Số 143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001: “Hệ thống Kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị xây dựng và áp dụng nhằm: Đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; Để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; Bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”.
Tuy nhiên sau vụ bê bối của Tập đoàn Enron và sự đổ vỡ của hàng loạt ngân hàng trong khủng hoảng kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy xu thế tất yếu phải tiếp cận kiểm toán trên cơ sở xác định và đánh giá rủi ro. Những thay đổi, sửa đổi và bổ sung hàng loạt những chuẩn mực kiểm toán mới của IFAC theo hướng thích ứng với môi trường kinh doanh ngày càng đa dạng, phức tạp là cơ sở cho sự thay đổi của các chuẩn mực kiểm toán ở các quốc gia trên thế giới. Trước những thay đổi này, tại Việt Nam, Bộ Tài chính đã ủy quyền cho Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam thực hiện nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam phù hợp với Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế mới, nhưng hiện nay vẫn chưa ban hành. Đến thời điểm hiện tại, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VAS 400 về Đánh giá rủi ro và Kiểm toán nội bộ vẫn còn hiệu lực. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Trên cơ sở những tổng kết những quan điểm khác nhau về hệ thống Kiểm soát nội bộ, PGS. TS Ngô Trí Tuệ và các cộng sự đã đi đến một khái niệm về hệ thống Kiểm soát nội bộ một cách chung nhất: “Hệ thống Kiểm soát nội bộ là hệ thống các chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu cơ bản: bảo vệ tài sản của đơn vị; đảm bảo độ tin cậy của các thông tin; đảm bảo việc thực hiện các chế độ pháp lý và đảm bảo hiệu quả của hoạt động”. Cơ sở để thiết kế các chính sách và thủ tục này cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và kiểm soát nhằm đảm bảo việc thực hiện tốt các mục tiêu mà nhà quản lý theo đuổi. Khái niệm này có tính tổng quát, có thể sử dụng để nghiên cứu hệ thống Kiểm soát nội bộ trong mọi loại hình đơn vị trong các lĩnh vực khác nhau như hành chính, kinh doanh hay sự nghiệp.
Tại Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 30/6/2023 của Ngân hàng Nhà nước quy định về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giải thích “Hệ thống kiểm soát nội bộ Ngân hàng Nhà nước là tổng thể các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức được thiết lập và triển khai thực hiện trong các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước phù hợp với quy định của pháp luật, của Ngân hàng Nhà nước và quy định tại Thông tư này nhằm kiểm soát, phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo hoạt động của đơn vị được an toàn, hiệu quả và đạt được các mục tiêu đề ra”. Khái niệm này tương tự các quan điểm ở trên và được ban hành bởi chủ thể là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên được Tác giả ứng dụng nhằm nghiên cứu về hệ thống Kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước vào lĩnh vực cụ thể là quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm 4 yếu tố, cụ thể: là môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin, thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
1.1.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát là các chính sách, quy trình, thông lệ được xây dựng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu do các cấp quản lý điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan. Môi trường kiểm soát là nền tảng cho toàn bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm cơ cấu tổ chức, cơ chế phân cấp, phân quyền, các chính sách, thông lệ về nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp, năng lực, cách thức quản trị, điều hành của các cấp lãnh đạo. Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong của đơn vị và bên ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ.
Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm:
Đặc thù về quản lý: Các đặc thù về quản lý đề cập tới quan điểm khác nhau trong điều hành hoạt động doanh nghiệp của các nhà quản lý. Các quan điểm đó ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách, chế độ, các quy định và cách thức tổ chức kiểm tra, kiểm soát trong doanh nghiệp. Bởi vì chính các nhà quản lý này đặc biệt các nhà quản lý cấp cao nhất sẽ phê chuẩn các quyết định, chính sách và thủ tục kiểm soát sẽ áp dụng tại doanh nghiệp. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Cơ cấu tổ chức: Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát toàn bộ hoạt động, các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chồng chéo hoặc bỏ trống. Như vậy, để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả, các nhà quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thiết lập được sự điều hành và sự kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, không bỏ sót lĩnh vực nào, đồng thời không có sự chồng chéo giữa các bộ phận; Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng: xử lý nghiệp vụ, ghi chép sổ và bảo quản tài sản; Đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng.
Chính sách nhân sự: Sự phát triển của một doanh nghiệp luôn gắn liền với đội ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù doanh nghiệp có thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát chặt chẽ nhưng với đội ngũ nhân viên kém năng lực trong công việc và thiếu trung thực về phẩm chất đạo đức thì hệ thống kiểm soát nội bộ không thể phát huy được hiệu quả
Công tác kế hoạch: Việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Trong thực tế các nhà quản lý thường quan tâm xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý, điều chỉnh kế hoạch kịp thời.
Ủy ban kiểm soát: Bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị như thành viên của hội đồng quản trị nhưng không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý. Ủy ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty; Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ; Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính; Dung hòa những bất đồng giữa ban giám đốc với các kiểm toán viên bên ngoài.
Các nhân tố ngoài môi trường kiểm soát: Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Môi trường kiểm soát chung của một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này tuy không thuộc sự kiểm soát của các nhà quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm nhân tố này bao gồm: Sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của nhà nước, môi trường pháp lý, đường lối phát triển của đất nước.
1.1.2.2. Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thông tin là hệ thống hỗ trợ toàn bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc đảm bảo các thông tin được nắm bắt đầy đủ và kịp thời trong toàn ngân hàng. Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng hợp – cân đối kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm soát chi tiết sau:
- Tính có thực: Cơ cấu kiểm soát không cho phép những nghiệp vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: Bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp lý.
- Tính đầy đủ: Bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Sự đánh giá: Bảo đảm không có sai phạm trong việc tính giá và phí.
- Sự phân loại: Bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài khoản và ghi nhận đúng đắn các loại sổ sách kế toán.
- Tính đúng kỳ: Bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được thực hiện kịp thời theo quy định.
Quy trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: Số liệu kế toán được ghi vào sổ phụ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Thủ tục kiểm soát Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 400, thủ tục kiểm soát được định nghĩa như sau: “Thủ tục kiểm soát là các qui chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lí cụ thể”.
- Các loại thủ tục kiểm soát
Kiểm soát trực tiếp: là các qui chế, thủ tục, quá trình kiểm soát được thiết lập nhằm trực tiếp đáp ứng các mục tiêu chi tiết của kiểm soát. Các thủ tục thuộc loại kiểm soát trực tiếp gồm:
Kiểm soát bảo vệ tài sản, thông tin: Bao gồm các biện pháp qui chế kiểm soát phục vụ cho việc đảm bảo an toàn cho tài sản, thông tin của đơn vị. Các kiểm soát này bao gồm: phân định trách nhiệm bảo vệ tài sản và thông tin; thiết lập các qui chế, biện pháp để ngăn ngừa sự tiếp cận đến tài sản, thông tin của những người không có trách nhiệm; đảm bảo các kho tàng, thiết bị cho việc bảo vệ tài sản, thông tin hoạt động tốt; thiết lập các qui chế kiểm kê hiện vật, lấy xác nhận của bên thứ ba,…
Kiểm soát quản lí: Hay còn gọi là kiểm soát độc lập với việc thực hiện. Đây là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ do những nhân viên độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành. Nhu cầu cho việc thực hiện kiểm soát quản lí phát sinh do nhân viên không tránh khỏi quên hoặc sai sót do vô ý không tuân theo thủ tục, một số nhân viên có thể trở nên cẩu thả nếu không có người giám sát và đánh giá công việc của họ.
Kiểm soát xử lí: Loại kiểm soát này được đặt ra để đảm bảo các nghiệp vụ kinh tế được ghi sổ là thực sự xảy ra và được xử lí, ghi chép đúng đắn vào sổ kế toán.
Kiểm soát tổng quát: Là sự kiểm soát tổng thể đối với nhiều hệ thống, nhiều công việc khác nhau. Đối với các đơn vị có sử dụng hệ thống tin học trong công tác kế toán thì sự tư vấn, giúp sức của các chuyên gia trong lĩnh vực máy tính, tin học là rất quan trọng trong quá trình kiểm toán. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng và chế độ ủy quyền.
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Theo nguyên tắc này, trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận, và cho nhiều người trong bộ phận. Việc phân công, phân nhiệm rõ ràng, tạo sự chuyên môn hóa trong công việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra thường dễ phát hiện.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn: Theo sự ủy quyền của các nhà quản lý, các cấp dưới được giao cho quyết định và giải quyết một số công việc trong phạm nhất định. Quá trình ủy quyền được tiếp tục mở rộng xuống cấp thấp hơn để tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của doanh nghiệp.
1.1.2.4. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ của đơn vị.
Đặc điểm của hoạt động kiểm toán nội bộ: Bảo đảm tính độc lập, trung thực, khách quan, công khai, minh bạch; Tuân thủ pháp luật, quy định, quy trình nghiệp vụ; chấp hành chương trình, kế hoạch kiểm toán được phê duyệt; Không can thiệp hoặc làm cản trở hoạt động bình thường của đơn vị được kiểm toán; bảo vệ bí mật nhà nước và bí mật của đơn vị được kiểm toán.
Vai trò: Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế, và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm soát nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong doanh nghiệp, chất lượng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả.
1.2. Công tác quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
1.2.1. Đặc điểm hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
NHTW là một thể chế tài chính đặc biệt của mỗi quốc gia, về mô hình tổ chức của ngân hàng trung ương mỗi quốc gia sẽ tùy thuộc vào điều kiện đặc điểm quản lý, kinh tế và xã hội mỗi nước. Tuy nhiên dù thuộc mô hình nào thì mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương cũng có những điểm giống nhau cơ bản. Với vai trò điều tiết vĩ mô lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; hoạt động của ngân hàng trung ương có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế. ngân hàng trung ương có chức năng quan trọng nhất đó là quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lạm phát, lãi suất đảm bảo an toàn hệ thống các Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng ngân hàng trung ương của một quốc gia đồng thời là cơ quan ngang Bộ trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
1.2.2. Công tác quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
1.2.2.1. Khái niệm về quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước
Tài chính được thể hiện là sự vận động của các dòng vốn gắn với sự tạo lập và sử dụng những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội trong đó phản ánh các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể. Tài chính trong cơ quan tổ chức được hiểu là các hoạt động thu và chi bằng tiền của cơ quan, tổ chức đó để đảm bảo cho cơ quan tổ chức đó tồn tại hoạt động và thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được giao.
Thuật ngữ “Quản lý” thường được hiểu đó là quá trình mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp nhằm điều khiển đối tượng quản lý hoạt động và phát triển nhằm đạt đến những mục tiêu đã định.
Quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước là quá trình áp dụng các công cụ và phương pháp quản lý nhằm tạo lập các khoản thu và sử dụng các khoản chi của Ngân hàng Nhà nước để Ngân hàng Nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đối tượng quản lý của công tác quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước là hoạt động tài chính của Ngân hàng Nhà nước, đó là việc quản lý quá trình hình thành, phân phối, sử dụng nguồn tài chính (các nguồn thu, các nguồn kinh phí thường xuyên hoặc kinh phí không thường xuyên, các quỹ theo quy định) của Ngân hàng. Để quản lý tài chính, Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhiều phương pháp cũng như nhiều công cụ quản lý khác nhau nhằm mục đích sử dụng hiệu quả nguồn tài chính để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
1.2.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước
Trong quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước phát sinh các nguồn thu tương đối ổn định từ hoạt động nghiệp vụ này, bao gồm: (i) việc quản lý, sử dụng Quỹ Dự trữ ngoại hối quốc gia (thông qua các hình thức đầu tư chứng khoán trên thị trường quốc tế, kinh doanh ngoại hối hoặc duy trì số dư tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng nước ngoài) và (ii) từ việc điều hành chính sách tiền tệ cũng như thực hiện chức năng khác của một ngân hàng trung ương (thu lãi cho vay, thu từ hoạt động mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở, thu phí dịch vụ thanh toán, ngân quỹ,…). Như vậy, thu nhập của Ngân hàng Nhà nước thông thường đủ để bù đắp các khoản chi phí phát sinh về nghiệp vụ cũng như chi phí quản lý công vụ của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, cơ chế tài chính hàng năm của Ngân hàng Nhà nước có nhiều điểm khác biệt so với các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác:
Thứ nhất, mặc dù là cơ quan của Chính phủ nhưng Ngân hàng Nhà nước không được giao dự toán thu, chi ngân sách thông qua Kho bạc Nhà nước mà sử dụng nguồn thu nghiệp vụ để bù đắp các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động, bao gồm cả khoản chi phí nghiệp vụ ngân hàng trung ương và chi quản lý công vụ.
Thứ hai, các khoản thu, chi tài chính của Ngân hàng Nhà nước, về nguyên tắc thực hiện theo Luật Ngân sách Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước không phải nộp các loại thuế đối với hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
Thứ ba, kết quả tài chính dương (chênh lệch thu lớn hơn chi) của Ngân hàng Nhà nước được tổng hợp vào dự toán thu ngân sách trung ương. Khi kết thúc năm tài chính, sau khi xác định kết quả tài chính năm (tổng thu trừ tổng chi bao gồm cả chi dự phòng rủi ro, chi bổ sung kinh phí khoán), Ngân hàng Nhà nước thực hiện trích lập các quỹ (quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; quỹ dự phòng tài chính), số còn lại nộp về NSNN. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế khoán kinh phí hoạt động tương tự như các Bộ, ngành và đơn vị hành chính khác. Tuy nhiên, cơ chế khoán của Ngân hàng Nhà nước có các điểm đặc thù riêng, cụ thể: (i) Mức khoán kinh phí Bộ Tài chính giao cho Ngân hàng Nhà nước là hạn mức sử dụng kinh phí hoạt động chứ không phải là kinh phí do NSNN cấp thông qua KBNN; (ii) Mức khoán kinh phí của Ngân hàng Nhà nước được chia thành 02 cấu phần: hạn mức khoán tuyệt đối và kinh phí bổ sung từ chênh lệch thu, chi theo tỷ lệ do Bộ Tài chính xác định từng năm; (iii) Công chức Ngân hàng Nhà nước được chi bổ sung thu nhập từ kinh phí tiết kiệm và bổ sung từ chênh lệch thu chi ở mức tối đa là 0,8 lần lương thực hiện.
1.2.2.3. Quy trình quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước
Quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo quy trình gồm 03 bước, bao gồm: quản lý việc lập dự toán thu chi tài chính, quản lý việc chấp hành dự toán được duyệt và quyết toán thu chi tài chính.
Lập dự toán: căn cứ văn bản hướng dẫn lập dự toán của Bộ Tài chính và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên; căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ theo quy định; tình hình thực hiện nhiệm vụ của năm trước và các nhiệm vụ được giao năm kế hoạch; căn cứ các định mức, chế độ tiêu chuẩn chi tiêu tài chính hiện hành theo quy định của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước lập dự toán thu, chi tài chính theo chế độ quy định.
Chấp hành dự toán được duyệt: Khi được cơ quan có thẩm quyền giao dự toán, các cơ quan đơn vị tổ chức thực hiện thu chi tài chính trong phạm vi và tuyệt đối chấp hành dự toán được duyệt. Khi thực hiện thu, chi tài chính phải căn cứ trên các văn bản quy định pháp luật về tiêu chuẩn, định mức, chế độ chính sách của Nhà nước và dựa trên cơ sở cân đối giữa thu và chi.
Quyết toán: Cuối quý, cuối năm Ngân hàng Nhà nước phải tiến hành lập báo cáo kế toán, báo cáo quyết toán thu, chi tài chính về tình hình sử dụng nguồn tài chính để gửi đến các cơ quan chức năng theo quy định. Báo cáo quyết toán ngân sách của nhằm cung cấp thông tin tài chính của đơn vị giúp cho việc đánh giá tình hình và thực trạng của cơ quan, đơn vị.
1.2.2.4. Nội dung công tác quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
NHNN với vai trò là cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước ngành ngân hàng, đồng thời là Ngân hàng Trung ương của quốc gia, mô hình tài chính của Ngân hàng Nhà nước cũng được xây dựng với các nội dung riêng, đặc thù, là sự pha trộn giữa nguyên tắc quản lý tài chính của các Bộ ngành hiện nay và cơ chế tài chính của một ngân hàng trung ương theo thông lệ quốc tế. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước được giao quản lý, sử dụng nguồn vốn, quỹ thuộc sở hữu nhà nước, có bảng cân đối tài sản riêng; Ngân hàng Nhà nước không sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước mà sử dụng nguồn thu từ hoạt động nghiệp vụ ngân hàng trung ương để bù đắp các chi phí hoạt động; kết quả tài chính hàng năm được trích lập các quỹ và nộp phần còn lại vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đối với các khoản thu, chi tài chính và quy trình lập, thực hiện kế hoạch kinh phí khoán hàng năm của Ngân hàng Nhà nước, về nguyên tắc, phải tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước.
Công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
Quản lý các khoản thu:
Nguồn lực tài chính cho hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm: các nguồn thu từ hoạt động nghiệp vụ đặc thù của Ngân hàng Nhà nước, dịch vụ ngân hàng, phí, lệ phí được để lại, các khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp, và các khoản thu khác. Tuy nhiên, nguồn thu từ phí, lệ phí thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ, do vậy, nguồn tài chính chủ yếu của các Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là từ hoạt động nghiệp vụ đặc thù của Ngân hàng Nhà nước. Các loại vốn, quỹ của Ngân hàng Nhà nước và phần lớn các khoản thu nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước được quản lý thống nhất và hạch toán tập trung tại Ngân hàng Nhà nước Trung Ương. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Quản lý các khoản chi của Ngân hàng Nhà nước:
Ngân hàng Nhà nước có các khoản chi: Chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng; Các khoản chi thực hiện theo cơ chế khoán; Các khoản chi phí quản lý không thực hiện theo cơ chế khoán. Các khoản chi của Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên cơ sở kế toán dồn tích. Chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng được chi trên cơ sở nhu cầu thực tế phát sinh phục vụ hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ theo quy định hiện hành của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước. Các khoản chi phí quản lý thực hiện theo cơ chế khoán của Bộ Tài chính.
Ngân hàng Nhà nước được sử dụng các nguồn thu để trang trải chi phí hoạt động của mình. Chênh lệch thu, chi sau khi trích lập quỹ theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và quy định cụ thể, số còn lại được nộp vào ngân sách nhà nước.
Phân phối kết quả tài chính của Ngân hàng Nhà nước:
NHNN có các Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Quỹ dự phòng tài chính, Khoản dự phòng rủi ro,… để thực hiện các biện pháp điều hành, can thiệp thị trường tiền tệ cũng như phòng ngừa rủi ro. Đây cũng là khoản mục phù hợp với đặc thù của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động của Ngân hàng Trung ương nói riêng.
Kết quả tài chính hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định trên cơ sở chênh lệch thu nhập trừ các khoản chi phí phát sinh. Kết quả tài chính này đã được phân bổ theo tỷ lệ giữ lại Ngân hàng Nhà nước (30% + số góp vốn vào tổ chức quốc tế phát sinh) và nộp về NSNN (khoảng 70%).
Thực hiện cơ chế khoán kinh phí hoạt động Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Cơ chế khoán chi phí quản lý hiện hành của Ngân hàng Nhà nước có những đặc điểm riêng phù hợp với đặc thù hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, tạo sự chủ động cho Ngân hàng Nhà nước trong quản lý, điều hành về tài chính, cụ thể như sau:
Cơ chế sử dụng nguồn thu để bù đắp chi phí hoạt động, không sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước đã tạo sự chủ động, linh hoạt cho Ngân hàng Nhà nước trong sử dụng nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ chính trị; giảm thiểu thời gian, thủ tục thanh toán qua Kho bạc Nhà nước. Cơ chế này mang lại hiệu quả lớn cho Ngân hàng Nhà nước do chi phí quản lý hoạt động của hệ thống Ngân hàng Nhà nước lớn hơn nhiều so với các Bộ, ngành khác.
NHNN được trích bổ sung kinh phí từ chênh lệch thu chi để chi bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức ở mức tối đa 0,55 lần lương thực hiện. Đây là cơ chế bổ sung thu nhập cho cán bộ Ngân hàng Nhà nước nhằm ghi nhận và khuyến khích sự đóng góp của cán bộ Ngân hàng Nhà nước trong điều hành thị trường tiền tệ cũng như tăng thu ngân sách nhà nước.
Quy trình lập kế hoạch thu nhập, chi phí của Ngân hàng Nhà nước theo quy định hiện hành được thực hiện tương đối khoa học; kế hoạch khoán kinh phí quản lý của Ngân hàng Nhà nước do Bộ Tài chính phê duyệt, không cần trình Quốc hội phê chuẩn nên giảm thiểu cấp phê duyệt và không phụ thuộc vào các kỳ họp của Quốc hội và Ủy ban thường vụ quốc hội.
Phương pháp xác định mức khoán cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước được xác định chi tiết theo từng khoản mục, đặc biệt đối với mức khoán chi cho cán bộ, công chức được xác định theo số cán bộ thực tế, hệ số lương của từng cán bộ, công chức nên đảm bảo tính sát thực tế cao. Việc sử dụng phương pháp tính toán theo số liệu lịch sử và có điều chỉnh đối với các nhiệm vụ được phát sinh thêm là phương pháp ước tính phù hợp, có cơ sở thực tiễn.
Về quản lý và sử dụng tài sản, trang thiết bị tại Ngân hàng Nhà nước
Ngoài ra, công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước bao gồm cả việc quản lý và sử dụng tài sản, nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả công việc, sử dụng các nguồn tài chính hiệu quả, tiết kiệm, tránh lãng phí.
Khoản trích từ chi phí bằng 12% trên nguyên giá Tài sản cố định bình quân hàng năm và chênh lệch tăng do đánh giá lại Tài sản cố định theo quy định của Nhà nước được bổ sung vào Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm Tài sản cố định của Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
1.3.1. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước
Trong thời gian qua, mô hình quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước như nêu ở trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng của một Ngân hàng Trung ương và chức năng của một Bộ quản lý ngành; đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước quản lý chặt chẽ, an toàn và hiệu quả nguồn vốn, tài sản của Nhà nước giao, đáp ứng đủ nguồn lực tài chính cho các đơn vị Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như tạo điều kiện về thu nhập cho CBCC. Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống Ngân hàng nói chung và các yêu cầu về vai trò, vị thế của Ngân hàng Nhà nước trong thời kỳ mới, cơ chế tài chính này đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập về vốn, quỹ, cơ chế khoán kinh phí; gây khó khăn trong việc quản lý, tổ chức thực hiện công tác tài chính trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Để có nguồn lực tài chính đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ chính trị hiện nay cũng như triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đồng thời giảm thiểu các rủi ro thất thoát tài sản, tài chính của nhà nước đòi hỏi phải có sự kiểm tra toàn bộ quy trình hoạt động quản lý tài chính, tiến hành kiểm tra thường xuyên đối với từng khâu hoạt động nhằm bảo đảm cho công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước vận hành một cách đồng bộ, đúng pháp luật, các chủ trương, chính sách của nhà nước, các cơ chế nghiệp vụ của ngân hàng trung ương được triển khai một cách có hiệu quả, cũng là một đòi hỏi, yêu cầu tất yếu, cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Kiểm soát nội bộ ngân hàng trung ương là một hệ thống gồm nhiều bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương. Kiểm soát nội bộ được thiết lập sẽ góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động quản lý tài chính nói riêng và hoạt động tài chính kế toán nói chung, kiểm tra, đánh giá và xác minh một cách độc lập đối với thông tin về các hoạt động, là công cụ quản lý có hiệu quả và có tác dụng rất lớn trong việc sớm phát hiện, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, gian lận, sai sót trong quản lý và điều hành hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của Ngân hàng Nhà nước
1.3.2. Đặc điểm quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước có ảnh hưởng tới hệ thống kiểm soát nội bộ
Đặc thù về quản lý của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chế độ tài chính riêng do Chính phủ ban hành. Chế độ tài chính này vừa đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước hoạt động theo chức năng quản lý, vừa đảm bảo hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước; trong hoạt động quản lý chịu sự chi phối của Chính phủ. Do đó, môi trường kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước cũng cần được thiết lập để phù hợp với cơ chế chính sách, đúng quy định hiện hành của Nhà nước.
Đặc thù của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ tổ chức theo ngành dọc, gồm nhiều Chi nhánh trên tất cả các tỉnh thành phố cả nước, do đó cũng cần thủ tục kiểm soát nghiêm ngặt, đảm bảo các nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng và chế độ ủy quyền. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Ngoài sự kiểm soát trực tiếp của Chính phủ là cơ quan chủ quản, Ngân hàng Nhà nước còn chịu sự kiểm soát của Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính, nhất là đối với các nguồn thu, chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng và các khoản chi từ nguồn ngân sách nhà nước. Báo cáo tài chính sau kiểm toán của Ngân hàng Nhà nước do Kiểm toán nhà nước ban hành được gửi cho Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính. Các báo cáo liên quan đến tình hình thu nhập – chi phí của Ngân hàng Nhà nước gửi sang Bộ Tài chính định kỳ hàng quý để theo dõi và có cơ sở cấp, bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, đòi hỏi một hệ thống thông tin gồm hệ thống kế toán của đơn vị (hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng hợp – cân đối kế toán) mang lại hiệu quả cao. Ngân hàng Nhà nước sử dụng hệ thống kế toán ngân hàng do chính Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành trên cơ sở các nguyên tắc kế toán chung được pháp luật quy định.
Đối với cơ chế giao khoán như trình bày ở trên, trước ngày 30 tháng 10 hàng năm, các đơn vị Ngân hàng Nhà nước lập kế hoạch tài chính năm sau của đơn vị gửi lên Vụ Tài chính – Kế toán xem xét, tổng hợp phương án khoán chi phí quản lý trình Thống đốc ký gửi Bộ Tài chính. Căn cứ mức giao khoán của Bộ Tài chính đối với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục lập kế hoạch phân bổ mức giao khoán chi phí quản lý cho các đơn vị. Trên cơ sở các đặc điểm đã trình bày, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước sẽ đề ra các thủ tục kiểm soát cho phù hợp với những quy định của pháp luật và cơ quan chủ quản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiều khoản thu, chi theo đặc thù, như: Chi hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng; Các khoản chi thực hiện theo cơ chế khoán; Các khoản chi phí quản lý không thực hiện theo cơ chế khoán. Vì vậy, hoạt động kiểm soát tại Ngân hàng Nhà nước được xây dựng, thiết lập phù hợp với nội dung của từng khoản thu chi. Công tác kế hoạch và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc để trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu.
Ngoài ra, tất cả các nội dung về quản lý tài chính nêu trên đều cần phải được một đơn vị kiểm toán nội bộ độc lập với đơn vị nghiệp vụ để thực hiện công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.3.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước được sử dụng các nguồn thu để trang trải chi phí hoạt động của mình. Theo cơ chế tài chính này, kinh phí tiết kiệm từ mức khoán chi và kinh phí bổ sung từ chênh lệch thu chi được sử dụng bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức của hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Mức chi tối đa do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định trong phương án khoán. Do đó, các đơn vị đã chủ động đổi mới cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy theo hướng gọn nhẹ, nâng cao hiệu suất, hiệu quả làm việc của từng cá nhân trong đơn vị, tích cực mở rộng các nguồn thu sự nghiệp, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn kinh phí, giảm thiểu các rủi ro. Điều này song song với việc phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát, hoàn thiện các chính sách về nhân sự để tăng cường hiệu quả hoạt động của đơn vị, có nghĩa các đơn vị cần phải chú trọng thiết lập cho mình một hệ thống Kiểm soát nội bộ đủ vững mạnh để đáp ứng yêu cầu trong cơ chế tài chính mới. Nhìn chung, hệ thống Kiểm soát nội bộ của NHNN hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau:
1.3.3.1.Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát được xác định từ những quan điểm, cách thức điều hành của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, đến hệ thống cơ cấu tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước, các chính sách về nhân sự, công tác lập kế hoạch đến công tác tự kiểm tra tài chính.
Trước hết là quan điểm, cách thức điều hành và sự quan tâm của lãnh đạo ngân hàng đến hệ thống kiểm soát nội bộ. Điều này được thể hiện ở việc xây dựng lại và hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng hợp lý, phù hợp với tình hình mới. Quy định rõ cơ cấu tổ chức của từng Vụ, Cục cũng như chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng phòng ban trực thuộc.
Công tác quản lý tài chính và hạch toán kế toán cũng được quan tâm, xây dựng và ban hành Quy chế quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước, Quy chế quản lý, sử dụng tài sản của Ngân hàng Nhà nước, Quy chế chi tiêu nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp nhằm tích cực đẩy mạnh tiết kiệm chống lãng phí, tăng cường tính chủ động trong việc khai thác các nguồn thu sự nghiệp. Đối với chính sách nhân sự, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế tuyển dụng, khen thưởng, bổ nhiệm; quy trình thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Công tác kế hoạch cũng được các đơn vị xây dựng hàng năm, đối với công tác tài chính thì vẫn chủ yếu là việc xây dựng các dự toán về thu nhập – chi phí, kế hoạch đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Bên cạnh môi trường kiểm soát trong còn có cả kiểm soát từ bên ngoài, trong hoạt động tài chính, hàng năm cơ quan Kiểm toán Nhà nước đều thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và một số đơn vị Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các đơn vị cũng được kiểm soát bởi Bộ Tài chính đối với việc chấp hành các quy định về thu, chi tài chính của Nhà nước, trình tự và thủ tục thực hiện đầu tư và giải ngân các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng tài sản công….Cơ quan chủ quản cấp trên sẽ là người thẩm tra và phê duyệt quyết toán tài chính hàng năm, kiểm tra việc chấp hành chế độ chính sách của các đơn vị…Công tác kiểm tra thanh tra của các cơ quan chức năng diễn ra thường xuyên.
1.3.3.2. Hệ thống thông tin kế toán
Các đơn vị Ngân hàng Nhà nước áp dụng hệ thống kế toán ban hành Chế độ báo cáo tài chính đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chế độ chứng từ kế toán ngân hàng; Hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các đơn vị cũng tuân thủ quy trình lập duyệt và luân chuyển chứng từ kế toán theo chế độ quy định. Các nghiệp vụ kế toán khi phát sinh được phản ánh vào chứng từ kế toán, luân chuyển qua các bộ phận, nhờ đó phát huy được chức năng kiểm tra của kế toán. Các đơn vị thiết lập các tài khoản chi tiết phù hợp với yêu cầu quản lý trên cơ sở hệ thống tài khoản theo quy định. Phần lớn các đơn vị đều sử dụng hình thức sổ nhật ký chung, hình thức kế toán trên máy vi tính. Ngoài ra còn các sổ kế toán phục vụ công tác quản trị nội bộ của đơn vị. Các đơn vị thực hiện báo cáo quyết toán tài chính hàng năm, báo cáo thuế, phí lệ phí… theo hệ thống mẫu biểu chế độ quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Phần mềm kế toán được áp dụng ở hầu hết các đơn vị nhằm giảm thiểu khối lượng công việc thủ công, tập trung vào phân tích số liệu chuyên sâu, cung cấp kịp thời số liệu cho công tác quản lý tài chính cũng như việc lập các báo cáo định kỳ và đột xuất.
1.3.3.3.Thủ tục kiểm soát Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Thủ tục kiểm soát tại các đơn vị đã được chú trọng xây dựng như:
Kiểm soát việc tuân thủ pháp luật: Các văn bản trình lãnh đạo phê duyệt, các văn bản xin uỷ quyền thực hiện đều phải trích dẫn đầy đủ các căn cứ về pháp luật và nội dung xin phê duyệt phải phù hợp với pháp luật định, các văn bản này có trình tự luân chuyển đến các phòng ban chức năng trước khi được lãnh đạo đơn vị phê duyệt. Đối với việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện việc quản lý trong lĩnh vực chuyên ngành sẽ có sự phối hợp giữa bộ phận chức năng với các Vụ, Cục có liên quan tham gia ý kiến. Các văn bản hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quy chế chi tiêu nội bộ tại các đơn vị Ngân hàng Nhà nước… đều được xây dựng và cụ thể hóa dựa trên các Thông tư hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành về lĩnh vực đó như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính.
Kiểm soát việc xây dựng kế hoạch, lập dự toán: các đơn vị đều căn cứ vào quy định về dự toán ngân sách, mục lục ngân sách, phối hợp giữa bộ phận kế toán – tài vụ với các bộ phận chức năng khác để xác định mục tiêu, kế hoạch của năm, từ đó lập ra dự toán thu – chi ngân sách. Bản dự toán phải kèm theo thuyết minh, nêu rõ căn cứ lập, cách lập…;
Kiểm soát việc quản lý sử dụng tài sản, các định mức mua sắm theo tiêu chuẩn của chế độ do Bộ Tài chính quy định, kiểm soát việc sử dụng xe công, kiểm soát việc tuyển dụng, đào tạo và tiền lương, trích nộp bảo hiểm xã hội, hội nghị, hội thảo, công tác phí…;
Các đơn vị nhìn chung đều có sự phân công rõ ràng trong cơ cấu tổ chức, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn… đảm bảo cho các thủ tục kiểm soát được thực hiện nghiêm túc.
1.3.3.4. Kiểm toán nội bộ Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận cấu thành của hệ thống Kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước, với chức năng kiểm toán nội bộ và tham mưu giúp Thống đốc chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm soát, kiểm toán, Kiểm toán nội bộ đưa ra những kiến nghị các Vụ, Cục liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ và chấp hành nghiêm túc quy định của Nhà nước.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến Hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Nhà nước
1.4.1. Nhân tố khách quan
Thứ nhất, nhân tố về môi trường pháp lý, sự thay đổi các chính sách pháp luật của nhà nước.
Đặc thù về quản lý của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, NHNN thực hiện chế độ tài chính riêng do Chính phủ ban hành, trong hoạt động quản lý chịu sự chi phối của Chính phủ. Các Quyết định về Chế độ Tài chính, Chế độ Kế toán tại Ngân hàng Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành sau khi có ý kiến của các Bộ, ngành liên quan (Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp…). Do đó, khi có sự thay đổi về môi trường pháp lý , chính sách của nhà nước cũng có tác động trực tiếp tới môi trường kiểm soát thuộc hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Nhà nước. Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước cần có vị trí độc lập tương đối, được thể chế trong luật Ngân hàng Nhà nước, trong các văn bản dưới luật và trong quy định chức năng, nhiệm vụ của Vụ Kiểm toán nội bộ. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Thứ hai, nhân tố từ phía Kiểm toán Nhà nước: Sự hỗ trợ của Kiểm toán Nhà nước về đào tạo, việc ban hành các chuẩn mực kiểm toán cũng như quy trình và phương pháp kiểm toán, hoạt động kiểm toán thường xuyên sẽ hỗ trợ tích cực cho Kiểm toán nội bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, từ đó đánh giá chính xác thực trạng chất lượng Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước, giúp cho Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Kiểm toán nội bộ nâng cao chất lượng hoạt động.
Thứ ba, các nhân tố khác như sự hỗ trợ, đánh giá đúng mức của các cơ quan ban ngành, của các tổ chức quốc tế… về hoạt động Kiểm toán nội bộ là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Trung ương. Kiểm toán nội bộ cần Chuẩn mực quốc tế rõ ràng. Điều này cũng tác động không nhỏ đến công tác kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng Nhà nước, do các chuẩn mực để thực hiện đánh giá chất lượng của từng cuộc kiểm toán sẽ cho thấy được mức độ thành công hay thất bại, tính hiệu quả về mặt chi phí của cuộc kiểm toán nội bộ đó để rút ra các bài học, kinh nghiệm.
1.4.2. Nhân tố chủ quan
Trước hết có thể kể đến quan điểm của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước về vai trò của Kiểm toán nội bộ: Khi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước quan tâm đúng mức, Kiểm toán nội bộ sẽ được đặt đúng vị trí của nó, từ đó, góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Khi việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin được cung cấp bởi bộ phận kiểm toán một cách khách quan, kịp thời. Ban lãnh đạo ngân hàng phải quan tâm đúng mức tới những thông tin báo cáo do Kiểm toán nội bộ cung cấp và được tiếp nhận xử lý một cách khách quan và kịp thời.
Thứ hai là cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước
NHNN là cơ quan ngang Bộ theo ngành dọc. Do khoảng cách về địa lý và số lượng Chi nhánh quá nhiều, do đó hệ thống kiểm soát nội bộ đòi hỏi xây dựng một cách khoa học, chặt chẽ, thống nhất, có sự liên thông nhằm phát huy hiệu quả công tác Kiểm toán nội bộ. Điểm này khác với ngân hàng trung ương các nước bởi ngân hàng trung ương các nước có rất ít Chi nhánh gắn với địa giới hành chính, mà chủ yếu là các Ngân hàng khu vực. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước. Các bộ phận, phòng ban trong ngân hàng cần hiểu rằng kiểm toán nội bộ hỗ trợ trong việc thực hiện trách nhiệm của mình về kiểm soát nội bộ và trao đổi thông tin về các sáng kiến, các thông lệ tốt nhất nhằm đạt được các mục tiêu đề ra để có sự phối hợp tốt nhất trong công việc. Cơ cấu này cần thực sự đảm bảo tính độc lập, khách quan, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị của Ngân hàng Nhà nước. Khi các chính sách, thủ tục kiểm soát cho mỗi quy trình đã được ban hành đầy đủ đi kèm với các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt đồng rõ ràng thì ngân hàng có thể quản lý tốt hoạt động và các rủi ro liên quan. Việc tự kiểm tra, kiểm soát thường xuyên là một phần của kiểm soát nội bộ, cần thực hiện nghiêm túc giảm lãng phí nguồn lực, kém hiệu quả.
Thứ ba là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ Kiểm toán nội bộ: Phần mềm quản trị điều hành, kiểm toán chuyên dụng, hệ thống máy tính, các thiết bị chuyên dùng sẽ là những công cụ đắc lực giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động ngân hàng.
Thứ tư là số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên: Con người luôn là nhân tố quan trọng trong bất kỳ một hệ thống, khâu tổ chức nào. Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến năng lực của đơn vị kiểm toán, bởi vì Kiểm toán nội bộ được thực hiện bởi con người theo những quy trình kiểm toán và công nghệ hỗ trợ. Vị trí kiểm soát nội bộ cần công chức được đào tạo bài bản, đầy đủ, có kinh nghiệm xử lý nghiệp vụ quản lý tài chính tại các chi nhánh hoặc tại Vụ Tài chính Kế toán. Một đơn vị Kiểm toán nội bộ mạnh phải có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và từng cán bộ phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như động lực cá nhân tốt.
1.5. Kinh nghiệm quốc tế về hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Trung ương một số quốc gia
1.5.1. Kinh nghiệm quốc tế về hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính của Ngân hàng Trung ương một số quốc gia
Ngân hàng Liên bang Đức Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Hệ thống kế toán của Ngân hàng Liên bang Đức phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán chung đã được chấp nhận. Báo cáo tài chính hàng năm phải được lập dưới góc độ những nhiệm vụ của Ngân hàng Liên bang Đức, đặc biệt do Báo cáo tài chính của Ngân hàng Liên bang Đức là một phần không tách rời của Hệ thống các Ngân hàng Trung ương châu Âu và phải được công bố với giải thích hợp lý; cơ cấu các khoản tài sản nợ không cần phải công bố. Hội đồng Ngân hàng Trung ương Liên bang Đức phải lập Báo cáo tài chính năm nhanh chóng. Bản kiểm toán năm phải được kiểm toán bởi một hay nhiều kiểm toán viên độc lập do Hội đồng Ngân hàng Trung ương bổ nhiệm với sự nhất trí của Hội đồng các Kiểm toán viên Liên bang và sau đó được công bố. Bản báo cáo của Kiểm toán viên được coi là cơ sở cho sự kiểm toán do Hội đồng các kiểm toán viên Liên bang tiến hành. Hội đồng các Kiểm toán viên Liên bang phải báo cáo những thông tin này lên Hạ viện.
Về công tác quản lý tài chính, Ngân hàng Liên bang Đức phải lập tài khoản chi phí. Trước khi bắt đầu năm tài chính, Ngân hàng Liên bang Đức phải lập ra các tài khoản chi phí tiêu chuẩn và kế hoạch đầu tư. Vào cuối năm tài chính, Ngân hàng Liên bang Đức sẽ làm đánh giá so sánh các số liệu dự toán và chi phí, đầu tư thực tế. Bản phân tích này phải được xem xét một cách độc lập bởi các kiểm toán viên. Báo cáo Quyết toán, tài khoản chi phí tiêu chuẩn, kế hoạch đầu tư, đánh giá so sánh số liệu dự toán và chi phí, đầu tư thực tế và các báo cáo của kiểm toán viên phải được chuyển cho Bộ Tài chính Liên bang, Hội đồng các Kiểm toán viên Liên bang. Báo cáo Quyết toán, đánh giá so sánh số liệu dự toán và chi phí, đầu tư thực tế và các báo cáo của kiểm toán viên phải được trình lên Hạ viện.
Ngân hàng Quốc gia Hungary
Ban Kiểm soát là cơ quan thay mặt chủ sở hữu Ngân hàng Quốc gia Hungary thực hiện chức năng giám sát. Phòng Kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Quốc gia Hungary nằm dưới sự kiểm soát của Ban Kiểm soát, với những vấn đề vượt quyền hạn của Ban Kiểm soát thì dưới sự điều hành của Ban Lãnh đạo. Trong trường hợp Ban Lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý của mình phát hiện ra có báo cáo liên quan đến kiểm toán thuộc thẩm quyền của Ban Kiểm soát thì Ban Lãnh đạo phải trao đổi với Ban Kiểm soát về bản bảo cáo đó. Thẩm quyền của Ban Kiểm soát không vượt quá các trách nhiệm đã được quy định. Ban Kiểm soát phải chuẩn bị bản báo cáo được quy định tại Luật Doanh nghiệp. Kiểm toán viên của Ngân hàng Quốc gia Hungary có thể được bổ nhiệm với nhiệm kỳ tối đa 10 năm. Sau khi hết nhiệm kỳ trên, kiểm toán viên này không được bổ nhiệm lại trong vòng 5 năm. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Ngân hàng Trung ương Thụy Điển
Tại trụ sở chính Ngân hàng Trung ương Thụy Điển có một đơn vị kiểm toán và chịu sự điều hành hoạt động của Hội đồng quản trị. Hoạt động của đơn vị kiểm toán bao gồm kiểm tra một cách độc lập việc điều hành và quản lý nội bộ của Ngân hàng Trung ương, và làm thế nào Ngân hàng Trung ương đáp ứng được các trách nhiệm kế toán tài chính của mình. Việc kiểm toán sẽ tuân theo những nguyên tắc chung về kiểm toán nội bộ. Ngân hàng Trưng ương thông qua kế hoạch kiểm toán hoạt động của mình theo sự tư vấn của Cơ quan Kiểm toán nhà nước Thụy Điển.
Mỗi năm, trước khi kết thúc tháng 12, Ban Điều hành Ngân hàng Trung ương Thụy Điển sẽ dự thảo bản ngân sách tài chính cho các hoạt động quản lý của năm kế toán tiếp theo. Ban Điều hành sẽ đệ trình bản dự thảo này lên Ủy ban Tài chính Quốc hội và Cơ quan Kiểm toán quốc gia cũng như cho Hội đồng quản trị. Ngân hàng Trung ương phải thực hiện kế toán ghi sổ, yêu cầu này sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực chung về kế toán. Các hướng dẫn của Ngân hàng Trung ương Châu Âu về khuôn khổ pháp luật quy định về kế toán và báo cáo tài chính trong hệ thống các Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ được áp dụng. Vào mỗi năm, trước 15/2, Ban Điều hành sẽ đệ trình bản báo cáo thường niên về các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong năm tài chính lên Quốc hội, Cơ quan Kiểm toán quốc gia, Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị sẽ đưa ra các kiến nghị lên Quốc hội và Cơ quan kiểm toán quốc gia về việc phân bổ lợi nhuận của Ngân hàng Trung ương. Bản báo cáo thường niên này sẽ bao gồm kế toán lỗ lãi, bảng cân đối kế toán, Báo cáo của Ban Điều hành, tài khoản ngoại hối và chính sách tiền tệ và cách làm như thế nào để ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả. Quốc hội thông qua việc phân bổ các lợi nhuận của Ngân hàng Trung ương.
Hội đồng quản trị thanh toán các khoản chi phí của Ngân hàng Trung ương Thụy Điển khi được Quốc hội quyết định việc thanh toán này là cho các hoạt động quản lý của Ban Điều hành Ngân hàng Trung ương. Việc thanh toán các khoản chi phí này chỉ có thể bị từ chối chấp nhận nếu có lý do cho rằng đó là trách nhiệm tài chính của một cá nhân. Ngân hàng Trung ương hàng năm báo cáo lên Quốc hội về các biện pháp quản lý tài chính và Ngân hàng Trung ương đã thực hiện theo sự giám sát của Cơ quan Kiểm toán quốc gia. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thực hiện quản lý độc lập nguồn tài chính của mình. Ngân sách của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc được xem xét bởi Vụ Tài chính Quốc Vụ viện và được hợp thành Ngân sách Trung ương. Việc sử dụng ngân sách này chịu sự thanh tra của Vụ Tài chính Quốc Vụ viện. Việc thu chi tài chính và thực hành kế toán của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tuân thủ theo pháp luật và các thể chế hành chính về các chế độ kiểm toán thống nhất, và chịu sự kiểm toán độc lập và giám sát của cơ quan kiểm toán và Vụ Tài chính Quốc Vụ viện theo pháp luật quy định.
1.5.2. Bài học cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Qua nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng trung ương của một số nước có thể nhận thấy rõ ràng một số vấn đề cần nghiên cứu để vận dụng vào thực tế của Việt Nam cụ thể như sau:
- Thứ nhất, về mô hình Ngân hàng Trung ương
Mặc dù mô hình tổ chức của ngân hàng trung ương có khác nhau, có ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ hoặc trực thuộc Quốc hội… nhưng Ban lãnh đạo các ngân hàng trung ương đều rất chú trọng đến công tác Kiểm toán nội bộ. Hầu hết ngân hàng trung ương các nước đều có Ủy ban kiểm toán mặc dù Ủy ban kiểm toán trực thuộc Thống đốc hay Tổng Kiểm toán, có thể độc lập với Thống đốc là cơ quan tham mưu về Kiểm toán nội bộ ngân hàng trung ương. Bộ phận Kiểm toán nội bộ của ngân hàng trung ương các nước đều có cơ cấu tổ chức là một Vụ độc lập có tính độc lập cao trong thực hiện nghiệp vụ chịu trách nhiệm thông tin báo cáo trực tiếp lên Thống đốc, Ủy ban kiểm toán, hoặc Hội đồng quản trị.
- Thứ hai, về tính độc lập khách quan của Kiểm toán nội bộ
Tính độc lập khách quan là quy định có tính nguyên tắc; nguyên tắc này được hiểu là hoạt động Kiểm toán nội bộ không chịu áp lực trong việc xác định đối tượng kiểm toán, cách thức và phương pháp tiến hành kiểm toán cũng như thông tin về kết quả kiểm toán. Vụ Kiểm toán nội bộ không tham gia vào bất kỳ hoạt động tác nghiệp hoặc điều hành nào của ngân hàng trung ương. Các Kiểm toán viên có thái độ công bằng, không thành kiến khi tiến hành công việc của mình. Các chức năng, nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán nội bộ được thể chế hóa trong Luật và hệ thống văn bản pháp quy.
- Thứ ba, về xây dựng kế hoạch và quy trình kiểm toán Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Mặc dù hoạt động của ngân hàng trung ương tương đối ít rủi ro hơn hoạt động của Ngân hàng thương mại nhưng thực tế vẫn phát sinh các rủi ro và tổn thất trong từng hoạt động. Do vậy, tất cả các ngân hàng trung ương đều thực hiện đánh giá mức độ rủi ro, trích lập dự phòng theo chuẩn mực kế toán quốc tế và phải được kiểm toán theo quy định.
KTNB thường xây dựng kế hoạch kiểm toán nhiều năm và từng năm trên cơ sở đánh giá và xếp loại rủi ro của các hoạt động ngân hàng trung ương. Quy trình kiểm toán áp dụng quy trình theo chuẩn mực kiểm toán nội bộ bao gồm 4 bước: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán, theo dõi đánh giá đảm bảo chất lượng kiểm toán. Điều đáng chú ý đó là các nước đã và đang thực hiện phương pháp kiểm toán dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm kiểm toán. Để đảm bảo chất lượng kiểm toán thì ngoài việc theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán, ngân hàng trung ương chú trọng đến công tác kiểm soát, đánh giá chất lượng kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo cho hoạt động này luôn tuân theo các quy định đặt ra.
- Thứ tư, về công tác cán bộ
NHTW các nước đặc biệt quan tâm đến đội ngũ kiểm soát nội bộ, đặt ra tiêu chuẩn trình độ cũng như kinh nghiệm công tác. Các cán bộ công chức làm công việc này phải có trình độ cao, chuyên môn sâu, kinh nghiệm lâu năm thường cao hơn các cán bộ làm nghiệp vụ khác. Nhìn chung, các ngân hàng trung ương đều quy định nhân viên làm công tác Kiểm toán nội bộ phải tuân thủ theo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Một số ngân hàng trung ương không thực hiện tuyển dụng cán bộ mới mà thường điều động luân chuyển cán bộ từ các bộ phận khác đã có kinh nghiệm, am hiểu quy trình, nghiệp vụ, có khả năng tiếp cận phương pháp kiểm toán sẽ thuận lợi hơn ví dụ như: Công nghệ thông tin,… Bên cạnh đó có chế độ ưu đãi đối với công chức kiểm soát nội bộ đảm bảo thu hút được cán bộ giỏi.
Kiểm toán viên nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải là người có trình độ, phẩm chất, kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực được kiểm toán. Kiểm toán viên được đào tạo cơ bản và thường xuyên được bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ thuật kiểm toán. Tích cực xây dựng và từng bước mở rộng mối quan hệ hợp tác, giao lưu với Kiểm toán nội bộ ngân hàng trung ương các nước, các tổ chức Kiểm toán nội bộ quốc tế nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, học tập kinh nghiệm áp dụng những mô hình, phương pháp kiểm toán hiện đại vào hoạt động Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán, đặc biệt là các nghiệp vụ kiểm toán:
Kiểm toán nội bộ phải được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin, được trang bị hệ thống phần mềm xử lý, đánh giá rủi ro cũng như phân tích dữ liệu tốt.
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
Trong chương này, tác giả đã hệ thống hóa và cụ thể hóa về các vấn đề cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ – một bộ phận không thể thiếu của quá trình quản lý. Các yếu tố cấu thành của hệ thống cũng được phân tích, tổng hợp và khái quát hóa từ đó làm rõ hơn bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ với tư cách là phương sách quản lý hữu hiệu và đối với việc hiện thực hóa các mục tiêu của đơn vị. Trên cơ sở đó, luận án đi sâu và làm rõ hơn vai trò của hệ thống Kiểm soát nội bộ với việc tăng cường công tác quản lý tài chính tại ngân hàng.
Ngoài các lý luận cơ bản trên, luận văn đã trình bày đặc điểm của quản lý tài chính trong Ngân hàng Nhà nước có ảnh hưởng tới hệ thống Kiểm soát nội bộ, các nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động từ đó phân tích những ưu, nhược điểm của yếu tố cấu thành hệ thống Kiểm soát nội bộ với công tác quản lý tài chính.
Môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin và các thủ tục kiểm soát trong một đơn vị chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau cả bên trong và bên ngoài đơn vị. Việc phát triển và cụ thể hóa lý luận về hệ thống Kiểm soát nội bộ là tiền đề để phân tích và đánh giá vài trò của các yếu tố cấu thành nên hệ thống Kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý tài chính tại Ngân hàng Nhà nước. Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân Hàng
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng […]