Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: những vấn đề cơ bản về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

1.1. Khái quát về đại diện

1.1.1. Khái niệm đại diện

Trong giao dịch dân sự nói chung, thông thường, người xác lập giao dịch phải tự thể hiện mong muốn, yêu cầu của mình, ví như: Trường hợp lập di chúc, hay hủy bỏ di chúc, đăng ký kết hôn, hiến xác, hiến tạng sau khi chết,… Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép người muốn thực hiện giao dịch được quyền thông qua vai trò của một người khác, thay mặt cho người muốn thực hiện giao dịch đó và nhân danh người đó triển khai thực hiện, được gọi là người đại diện.

Khoản 1, Điều 134 BLDS năm 2015, quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây được gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.

Từ điển Luật học của Bộ Tư pháp nêu rõ: Đại diện là: “Việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện”.

Dẫu vậy, không phải trường hợp nào pháp luật cũng cho phép thực hiện thông qua người đại diện. Đơn cử, việc kết hôn không thể thực hiện thông qua người đại diện. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Theo quy định được trích dẫn trên cho thấy: Đại diện là một quan hệ pháp luật tức quan hệ pháp luật về đại diện. Chủ thể tham gia quan hệ đại diện là bên đại diện và bên được/bên nhận đại diện. Bên đại diện nhân danh bên được đại diện xác lập quan hệ với bên thứ ba, và vì lợi ích của bên được đại diện. Theo quy định tại khoản

Điều 139, khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015, thì: Bên được đại diện tiếp nhận (chịu) các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền, trong phạm vi nội dung đại đại diện. Theo quy định tại Điều 136 BLDS năm 2015, thì: Người được đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi, nên phải có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Điểm a, khoản 1, Điều 117, Khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2015 quy định: Người có đầy đủ năng lực hành vi có thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của mình. Pháp nhân hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.

Quan hệ đại diện có thể được xác lập theo quy định của pháp luật, có thể được xác lập theo ý chí của các chủ thể tham gia, thể hiện bằng văn bản ủy quyền. Trong phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, đem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện. Hay nói cách khác, ý chí của người đại diện cũng ràng buộc người giao dịch (gọi là người được đại diện) một khi việc bày tỏ ý chí đáp ứng đầy đủ các điều kiện được pháp luật quy định.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu quan hệ đại diện phát sinh giữa bên đại diện và bên được đại diện. Việc đại diện nhằm mục đích nhân danh tiến hành xác lập, thực hiện giao dịch vì lợi ích của bên được đại diện.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

1.1.2. Quan hệ pháp luật đại diện

Quan hệ pháp luật đại diện bao gồm các yếu tố: Chủ thể, khách thể và nội dụng đại diện.

1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ đại diện

Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngoài ra còn phải đáp ứng thêm một số điều kiện khác tùy thuộc vào yêu cầu của công việc đại diện. Chẳng hạn như người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không rơi vào các trường hợp pháp luật cấm làm người đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

Đối với doanh nghiệp, mọi hoạt động phải thông qua hành vi của người đại diện, và sự ra đời, tồn tại của doanh nghiệp luôn gắn bó mật thiết với sự tồn tại của người đại diện theo pháp luật. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì tư cách đại diện của người đại diện cũng chấm dứt theo. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

1.1.2.2. Khách thể của quan hệ đại diện

Bản chất của quan hệ đại diện là người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là người đại diện không mong muốn có được lợi ích từ việc thực hiện công việc đại diện của mình. Mục đích của họ có thể chỉ đơn thuần là nghĩa vụ bắt buộc phải làm (do bị Tòa án chỉ định), vì lợi ích vật chất (được trả thù lao khi thực hiện công việc đại diện) hay vì thực hiện các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong hợp đồng ủy quyền, hợp đồng lao động.

Đối với doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật là điều kiện để doanh nghiệp có thể được thành lập hợp pháp, được vận hành và hoạt động bình thường. Không những vậy, điều mà doanh nghiệp mong muốn nhất là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ sử dụng toàn bộ khả năng, tri thức, kinh nghiệm có được để thúc đẩy việc kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.

1.1.2.3. Nội dụng của quan hệ đại diện

Nội dung của quan hệ đại diện là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hành vi thực tế sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện được phát sinh trên cơ sở hành vi đại diện của người đại diện trong phạm vi và nội dung đại diện. Do đó, để các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập trở thành quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, thì người xác lập giao dịch đó phải có quyền đại diện và phải thực hiện các công việc trong phạm đại diện.

Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, người đại diện có thể vượt quá phạm vi đại diện khi xác lập, thực hiện giao dịch hoặc giao dịch được xác lập, thực hiện do người không có quyền đại diện. Việc không có quyền đại diện, có thể xuất phát từ việc: Cơ sở pháp lý trao quyền đại diện cho một người không có giá trị pháp lý như khi giao dịch ủy quyền vô hiệu, hoặc xuất phát từ việc không có cơ sở pháp lý nào trao cho người đại diện quyền đại diện như trường hợp: Giám đốc chi nhánh của pháp nhân hay phó giám đốc của công ty không có ủy quyền, đồng thời cũng không có quy định nào trao cho họ quyền này.

Các vấn đề như nêu trên, pháp luật cũng đã dự liệu và quy định hậu quả pháp lý của những người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện – không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý. Bên cạnh đó, giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm đại diện cũng không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Tuy nhiên, nếu không được sự đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện và tùy thuộc vào mức độ của hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho người được đại diện, người đại diện ngoài việc phải bồi thường thiệt hại cho người được đại diện, còn phải chịu các trách nhiệm pháp lý khác (nếu có).

1.1.3. Phân loại đại diện Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

1.1.3.1. Đại diện theo pháp luật

BLDS năm 2015 không đưa ra định nghĩa như thế nào là đại diện theo pháp luật mà chỉ liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân (Điều 136) và đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 137). Thế nhưng, dựa vào quy định của Điều 135 BLDS năm 2015 về căn cứ xác lập quyền đại diện thì: Đại diện theo pháp luật là:“Đại diện được xác lập thông qua quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”. Theo đó, BLDS năm 2015 đã bổ sung trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là “Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại tòa án”. Bên cạnh đó, LDN năm 2020 cũng quy định: “Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.”. Điều này cho thấy, thẩm quyền của Tòa án đã được tăng cường hơn trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đại diện nói chung và đại diện theo pháp luật nói riêng. Như vậy, việc chỉ định của Tòa án cũng là một căn cứ làm phát sinh quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Ví dụ điển hình là trường hợp chỉ định quản tài viên trong một vụ án phá sản doanh nghiệp (khoản 3, Điều 9; khoản 2, Điều

  • Luật Phá sản năm 2014).

BLDS năm 2015 đã mở rộng quyền cho người đại diện và người được đại diện, khi quy định một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Theo đó, điều lệ của pháp nhân sẽ quy định cụ thể về số lượng, chức danh quản lý, và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Đồng thời, BLDS năm 2015 cũng cho phép một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau, nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo tác giả, đây là quy định tiến bộ và có thể lý giải cho sự cải cách đó là xuất phát từ thực tiễn hoạt động của pháp nhân, mà chủ yếu là các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp và thống nhất với LDN năm 2020.

1.1.3.2. Đại diện theo ủy quyền Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Tương tự như quy định về đại diện theo pháp luật, BLDS năm 2015 cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, dựa vào quy định tại Điều 135 BLDS năm 2015 về căn cứ xác lập quyền đại diện, có thể hiểu: “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”. Người đại diện theo ủy quyền phải có năng lực giao kết hợp đồng, cụ thể là năng lực giao kết hợp đồng ủy quyền. Trong trường hợp đại diện là cá nhân thì trên nguyên tắc phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vẫn có thể đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người đủ 18 tuổi trở lên xác lập thực hiện.

Khác với đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên – bên đại diện và bên được đại diện, biểu hiện được thông qua văn bản uỷ quyền. Nội dung ủy quyền, phạm vi, thẩm quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác định thông qua sự thỏa thuận của người đại diện và người được đại diện.

Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân pháp nhân khác đại diện cho mình xác lập thực hiện các hành vi pháp lý trong khuôn khổ nội dung ủy quyền đã thoả thuận với người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền phải trực tiếp thực hiện các giao dịch dân sự theo nội dung đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người đại diện theo ủy quyền có thể ủy quyền lại cho một người khác thực hiện thay thẩm quyền đại diện của mình.

Đối với doanh nghiệp, không bắt buộc phải có đại diện uỷ quyền, nhưng phải có người đại diện theo pháp luật, vì nếu không có người đại diện theo pháp luật thì doanh nghiệp sẽ không tự vận hành và hoạt động được.

1.2. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với các quan hệ đại diện khác

1.2.1. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp

Khác với đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên – bên đai diện và bên được đại diện. Do vậy, để một giao dịch được xác lập một cách có giá trị thông qua vai trò của người đại diện, thì người này phải có quyền đại diện và phải bày tỏ ý chí giao kết với tư cách người đại diện.

Ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thoả mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:

Thứ nhất, về quyền nhân danh doanh nghiệp: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được pháp luật trao quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp, quản lý con dấu, được nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Còn người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp là người được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy quyền để thực hiện một hoặc một số quyền và nghĩa vụ nhất định, tùy thuộc vào nội dung và phạm vi ủy quyền. Khác với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp sẽ không có quyền đương nhiên nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp, mà chỉ được nhân danh doanh nghiệp trong phạm vi ủy quyền.

Thứ hai, về quyền ủy quyền cho người khác: Đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thì họ có quyền ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp do mình đại diện theo pháp luật. Chẳng hạn như: Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể ủy quyền cho phó giám đốc,… thực hiện một số quyền và nghĩa vụ nhất định của doanh nghiệp hoặc trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày, thì phải ủy quyền cho người khác đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trong khi đó, người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp sẽ không được đương nhiên ủy quyền lại cho người khác để thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện cho doanh nghiệp mà mình đã được ủy quyền, trừ trường hợp người ủy quyền đồng ý.

Thứ ba, về thù lao đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không hưởng thù lao đại diện, mà chỉ hưởng thù lao chức vụ. Còn đối với người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp có thể có thù lao đại diện, thù lao đại diện do các bên thỏa thuận.

Thứ tư, về thời hạn đại diện: Thời hạn đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gắn với nhiệm kỳ hoặc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động được ký kết bởi chủ sở hữu doanh nghiệp. Trong khi đó, thời hạn đại diện của người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp được thể hiện rõ ở văn bản ủy quyền; trường hợp các bên không ghi rõ thời hạn uỷ quyền thì pháp luật ấn định thời hạn uỷ quyền là một năm kể từ ngày các bên ký uỷ quyền. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Thứ năm, quy định về điều kiện cư trú tại Việt Nam: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam. Ngược lại, người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp không bị ràng buộc về điều kiện cư trú.

Tóm lại, có thể thấy trong cùng một doanh nghiệp, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp là khác nhau. Sự khác nhau này là hoàn toàn hợp lý để phân định quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mỗi người khi thực hiện quan hệ đại diện cho doanh nghiệp.

1.2.2. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị – xã hội.

Doanh nghiệp hay cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức chính trị xã hội, đều là tổ chức có tư cách pháp nhân. Do vậy, các tổ chức này cần phải cử ra người đại diện theo pháp luật để thay mặt thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình hoặc xác lập thực hiện giao dịch với bên thứ ba. Tuy nhiên, giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo pháp luật của cơ quan tổ chức cũng có những điểm khác biệt như sau:

Thứ nhất, về căn cứ hình thành tư cách đại diện: Đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tư cách của người đại diện được hình thành dựa vào quy định của LDN và điều lệ công ty,… Còn người đại diện theo pháp luật của cơ quan đơn vị sự nghiệp công lập, hoặc tổ chức chính trị xã hội thì tư cách đại diện được hình thành dựa vào các quy định pháp luật liên quan đến từng loại hình của cơ quan, tổ chức đó và do bầu cử hoặc cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm theo những trình tự, thủ tục nhất định.

Thứ hai, về luật áp dụng: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp áp dụng các quy định của BLDS và LDN. Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, hoặc tổ chức chính trị xã hội áp dụng các quy định của Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, Luật Công đoàn, Luật Giáo dục đại học,….

Thứ ba, về nghĩa vụ thông báo tư cách người đại diện: Đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, khi được doanh nghiệp cử ra thì doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh, và thông báo công khai trên cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp của người đại diện theo pháp luật. Còn người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội khi được bầu cử hay bổ nhiệm làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà chỉ thông báo họ tên và chữ ký cho các cơ quan có liên quan. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Thứ tư, về thời hạn đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thời hạn đại diện theo nhiệm kỳ, hoặc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoặc hợp đồng lao động. Còn người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội có thời hạn theo nhiệm kỳ và không được quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.

Thứ năm, quy định về quốc tịch của người đại diện: Đối với doanh nghiệp, pháp luật không bắt buộc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là công dân Việt Nam mà vẫn có thể là người nước ngoài. Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội tuy pháp luật không quy định bắt buộc phải là công dân Việt Nam, nhưng do đặc thù của quản lý hành chính và quản lý tài sản công, cho nên, tất cả các cơ quan Nhà nước hiện nay đều bổ nhiệm người đứng đầu đại diện theo pháp luật là công dân Việt Nam.

Thứ sáu, về điều kiện cư trú của người đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam, nếu vắng mặt quá 30 ngày thì bắt buộc phải ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Đối với người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội, pháp luật không quy định cụ thể về điều kiện cư trú.

Có thể thấy, tuy cùng là người đại diện theo pháp luật của một pháp nhân trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng các quy định về địa vị của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, và người đại diện theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội còn có nhiều điểm khác nhau. Điều này có thể xuất phát từ lý do tài sản của doanh nghiệp có thể là tài sản của Nhà nước, hoặc của cá nhân trong và ngoài nước, còn tài sản của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội là thuộc về ngân sách quốc gia. Do đó, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội cũng không giống nhau.

1.2.3. Sự khác nhau giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện theo pháp luật của cá nhân Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp là một tổ chức, nên phải hành động thông qua người đại diện, còn cá nhân, về nguyên tắc có thể tự mình thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình không cần người đại diện. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật đã quy định một số trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân như: cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên, con bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc được Tòa án chỉ định…

Giữa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với người đại diện của cá nhân có một số điểm khác biệt như sau:

Thứ nhất, về trường hợp đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: Doanh nghiệp với tư cách là một tổ chức, mọi hoạt động của doanh nghiệp nói chung đều thông qua người đại diện theo pháp luật. Do đó, doanh nghiệp cần có người đại diện theo pháp luật để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp. Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật của cá nhân xuất hiện với các lý do: Mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự…

Thứ hai, về quyền của người đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Còn đối với người đại diện theo pháp luật của cá nhân được quyền trực tiếp thay mặt người được đại diện – để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, hoặc đồng ý để cho người được đại diện thực hiện một số quyền liên quan đến nhân thân mà pháp luật bắt buộc phải do cá nhân đó thực hiện như kết hôn, bầu cử, ứng cử,…

Thứ ba, về thời hạn đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thời hạn đại diện gắn với nhiệm kỳ, hoặc theo hợp đồng lao động, hoặc thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Còn đối với người đại diện theo pháp luật của cá nhân, pháp luật không có quy định thời hạn đại diện, tuy nhiên sự kiện đại diện sẽ được chấm dứt theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, quy định về cư trú: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú tại Việt Nam, nếu vắng mặt quá 30 ngày phải ủy quyền lại cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện cho doanh nghiệp. Trong khi đó, ngưởi đại diện theo pháp luật của cá nhân không bị ràng buộc điều kiện cư trú tại Việt Nam.

Thứ năm, về chấm dứt quan hệ đại diện: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chấm dứt tư cách đại diện khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, hoặc doanh nghiệp thay đổi người đại diện khác. Còn đối với người đại diện theo pháp luật của cá nhân, quan hệ đại diện chấm dứt khi: Cá nhân đã có đầy đủ hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự, người đại diện hoặc người được đại diện chết.

Từ những phân tích trên cho thấy: Tuy đều là người đại diện theo pháp luật, nhưng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của cá nhân vẫn có nhiều điểm khác biệt.

1.3. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

1.3.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Theo từ điển Luật học, người đại diện theo pháp luật là: “Người đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định mà không phải do các bên thỏa thuận”. Sự giải thích này về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp lại thiên về góc độ pháp lý, và phân biệt giữa đại diện theo pháp luật với đại diện theo ủy quyền.

Việt Nam, trước đây, LDN năm 2005 không đưa ra khái niệm về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, LDN năm 2014 đã thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về người đại diện theo pháp luật. Theo đó, khoản 1 Điều 13, LDN năm 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Khoản 1, Điều 12 LDN năm 2020 tiếp tục kế thừa và quy định rõ: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”.

1.3.2. Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

1.3.2.1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân

Pháp nhân cũng có thể là đại diện cho doanh nghiệp hay pháp nhân khác, nhưng để có thể thực hiện vai trò đại diện thì cuối cùng vẫn phải có một người cụ thể – là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hoặc người được ủy quyền; tức là, pháp nhân chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền, chứ không thể là đại diện theo pháp luật của cá nhân hay pháp nhân khác. Bởi vì, khác với cá nhân, pháp nhân không có sự lựa chọn nào khác là người được đại diện, do pháp nhân không thể hiện bản thân được nên chúng chỉ có thể biểu hiện ra bên ngoài thông qua trung gian của một cá nhân, có nghĩa là đại diện theo pháp luật của pháp nhân được thiệt lập do bản thân pháp nhân không phải là con người, và do đó không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này đã thể hiện rõ khi Điều 136 và Điều 137 BLDS năm 2015 đã liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân và pháp nhân đều là con người (là cá nhân, chứ không xuất hiện pháp nhân làm đại diện theo pháp luật của cá nhân và pháp nhân). Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Đối với doanh nghiệp, pháp luật quy định rõ: Người đại diện theo pháp luật cũng phải là một cá nhân cụ thể, có năng lực hành vi dân sự. Hơn nữa, do xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, để có thể thực hiện và chịu trách nhiệm cá nhân trước các hành vi quản lý, điều hành của mình.

1.3.2.2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp

Đặc điểm này tuy không được thể hiện trong khái niệm được nêu tại khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020. Tuy nhiên, thông qua các quy định nằm rải rác trong LDN năm 2020, chúng ta có thể thấy được đặc điểm này. Cụ thể là đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật tùy thuộc vào nhu cầu của công ty và những người đại diện theo pháp luật của công ty phải có những chức danh quản lý cụ thể được quy định trong Điều lệ (khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020). Đối với công ty hợp danh thì thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật (khoản 1 Điều 184). Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 190). Những chức danh quản lý này có thể là Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, hay các cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty do Điều lệ quy định như Giám đốc nhân sự, Giám đốc chi nhánh hay Trưởng phòng kinh doanh,…

Những người đại diện theo pháp luật nêu trên là những người quản lý doanh nghiệp được liệt kê ở khoản 24, Điều 4, LDN năm 2020. Như vậy, các chức danh quản lý phải có thẩm quyền nhân danh công ty, ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại điều lệ, thì mới được xem là người quản lý doanh nghiệp. Cho nên, vô hình trung, quy định này đã thể hiện người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp. Theo tác giả, việc quy định như vậy là khá chặt chẽ, nhằm tạo cho việc quản trị của doanh nghiệp được thống nhất. Bởi lẽ, việc trao cho một người có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nhưng lại không trao cho họ nắm giữ quyền quản lý thì họ không thể chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó một cách trọn vẹn được. Hơn nữa, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là người quản lý để có thể tối đa hóa các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã trao cho họ.

Người đại diện theo pháp luật là người quản lý doanh nghiệp, nhưng ngược lại người quản lý doanh nghiệp chưa chắc là người đại diện theo pháp luật, ví dụ: Trường hợp điều lệ của công ty quy định chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty, giám đốc cũng là người quản lý công ty những lại không phải người đại diện theo pháp luật của công ty – vì Điều lệ không quy định. Ngoài ra, cũng cần phân biệt người quản lý doanh nghiệp với nhân viên quản lý doanh nghiệp. Đây là hai thuật ngữ có bản chất không giống nhau. Theo đó, người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty, còn nhân viên quản lý được hiểu là những người đứng đầu bộ phận trong công ty (như kế toán, nhân sự…) – là bộ phận giúp việc cho những người quản lý doanh nghiệp. Họ hỗ trợ bằng cách cung cấp cho người quản lý doanh nghiệp thông tin và đưa ra những lời tư vấn. Những người nhân viên quản lý doanh nghiệp này thường không được phép đưa ra những quyết định nhân danh công ty.

1.3.2.3. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người lao động đặc biệt Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được coi là “người lao động đặc biệt”. Ở họ, một mặt ngoài việc lao động tri óc theo năng lực, chuyên môn và kinh nghiệm của mình, mặt khác họ còn đóng vai trò là người quản lý, người nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch với các đối tác. Bên cạnh đó, số lượng người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp có thể chỉ là một người duy nhất (đối với doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật), hoặc chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần) trong số lượng đông đảo người lao động của một doanh nghiệp. Hơn nữa, họ còn là nguồn nhân lực có năng lực và trình độ cao trong bảng phân vùng chất lượng lao động.

Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp còn thể hiện điểm đặc biệt ở chỗ là: Họ phải đáp ứng nhiều điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành người đại diện theo pháp luật hợp pháp của doanh nghiệp, điển hình như: Phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty,… Cũng do vậy, mà họ được trao nhiều quyền và nghĩa vụ hơn những người lao động bình thường khác, ví dụ điển hình như: Nhân danh doanh nghiệp trong việc xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, tố tụng,…; ký vào điều lệ công ty; ký tên trên cổ phiếu hoặc giấy chứng nhân góp vốn; ký báo cáo tài chính của doanh nghiệp;… Và dĩ nhiên, họ cũng phải chịu nhiều trách nhiệm hơn. Chẳng hạn như trách nhiệm đăng ký thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi; thực hiện công bố thông tin và phải chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, kịp thời, trung thực và chính xác của thông tin được công bố; chịu trách nhiệm về thiệt hại do những sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát hành ra;… Đặc biệt là doanh nghiệp không thể không có người đại diện theo pháp luật, và còn phải đảm bảo rằng luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam.

1.3.3. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Có ý kiến cho rằng: Chỉ có hai căn cứ để xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đó là: Theo quy định của pháp luật và theo điều lệ của doanh nghiệp. Tác giả không đồng tình với quan điểm trên, bởi vì: Theo quy định tại khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2015, và LDN năm 2020 thì có thể khẳng định: Có đến ba căn cứ để xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đó là: Theo điều lệ của doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật và theo quyết định của Tòa án.

1.3.3.1. Theo điều lệ của doanh nghiệp

Căn cứ này chỉ đặt ra đối với người đại diện theo pháp luật trong loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiện hữu hạn hay công ty hợp danh, mà không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân, bởi vì doanh nghiệp tư nhân không có Điều lệ. BLDS năm 2015 cũng đã có quy định thống nhất với LDN năm 2020 khi bổ sung căn cứ xác lập quyền đại diện là “theo Điều lệ của pháp nhân”. Xét ở khía cạnh đảm bảo quyền tự do kinh doanh, LDN năm 2020 cho doanh nghiệp được toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật.

Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong trường hợp người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên hoặc cổ đông trong quá trình quản lý, điều hành doanh nghiệp, trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài công ty. Tuy nhiên, có thể sẽ gây khó khăn trong quá trình vận dụng, vì: “điều lệ của pháp nhân cho dù được công bố vẫn chỉ là quy định nội bộ để ràng buộc những người của pháp nhân, không thể làm cơ sở để ràng buộc người ngoài. Thực tế, điều lệ của pháp nhân thường rất dài, khó hiểu, và đối tác không thể đọc toàn bộ điều lệ của pháp nhân mỗi khi xác lập giao dịch với pháp nhân… chưa kể đến trường hợp điều lệ pháp nhân thay đổi theo thời gian và vì quá dài nên có thể có những trang bị thay thế mà đối tác không thể kiểm chứng”. Hơn nữa, các đối tác của công ty không phải lúc nào cũng tiếp cận được điều lệ và không bảo đảm việc xác định được chính xác nội dung phân quyền, cũng như bản điều lệ nào có hiệu lực thật sự. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: Đây là một sự bổ sung nguy hiểm đối với các bên tham gia vào giao dịch, vì điều lệ chỉ là quy định nội bộ của pháp nhân nhưng lại có nguy cơ để khai thác chống lại người thứ ba.

Đối với loại hình công ty cổ phần, Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020 quy định: “…công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”

Như vậy, điều lệ của công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Pháp luật đã trao cho doanh nghiệp quyền tự định đoạt số lượng, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong điều lệ, tức là – cũng đồng nghĩa với việc: Bản điều lệ là căn cứ để xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật. Điều này phần nào thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng như quyền định đoạt của chủ sở hữu doanh nghiệp. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Mặc dù, pháp luật có những quy định mở trao cho doanh nghiệp quyền tự định đoạt một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật vào điều lệ của công ty, nhưng các nội dung được quy định trong điều lệ của công ty không được trái với quy định của pháp luật. Chẳng hạn như: Đối với công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật thì điều lệ của công ty không được phép quy định: “Tất cả những người đại diện theo pháp luật của công ty đều có thể cư trú ở nước ngoài”, trong khi LDN năm 2020 kế thừa quy định từ LDN năm 2014, tiếp tục quy định doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Mặc dù, LDN năm 2020 không có quy định nào thể hiện rõ việc: Những quy định trong điều lệ của công ty không được trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối với Công ty cổ phần đại chúng, điều lệ công ty không chỉ được Đại hội đồng cổ đông thông qua, mà còn phải không được trái với LDN, Luật chứng khoán, các quy định tại Nghị định số 71/2017/NĐ-CP và văn bản pháp luật có liên quan.

1.3.3.2. Theo quy định của pháp luật

Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn này, tác giả chỉ đối chiếu quy định của pháp luật đối với loại hình công ty cổ phần, thì: Điều lệ công ty cổ phần sẽ quy định về số lượng, chức danh, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật (như đã phân tích trên). Trái lại, nếu Điều lệ công ty cổ phần không quy định, trường hợp này pháp luật cũng đã dự liệu trước bằng cách quy định những người đại diện theo pháp luật đương nhiên của công ty cổ phần; theo đó, trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty. Những quy định của pháp luật nêu trên là căn cứ quan trọng để xác lập quyền đại diện cho người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.

1.3.3.3. Theo quyết định của Tòa án.

Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo cho quá trình tố tụng tại Tòa án được diễn ra theo đúng trình tự thủ tục, Tòa án có thẩm quyền sẽ chỉ định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Tại khoản 1 Điều 87, và khoản 1 Điều 88 BLTTDS năm 2015 quy định: Toà án phải chỉ định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp để tham gia tố tụng tại Tòa án trong trường hợp:

Một là, nếu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với doanh nghiệp mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

Hai là, nếu người đại diện theo pháp luật đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác, mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp trong cùng một vụ việc.

Có thể lý giải cho việc quy định này của pháp luật tố tụng nhằm tránh xung đột về lợi ích của cá nhân người đại diện theo pháp luật và doanh nghiệp mà họ đại diện. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Cũng theo khoản 2 Điều 47 Luật Phá sản năm 2014, trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không có khả năng điều hành, doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 48 của Luật Phá sản năm 2014, thì thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo đề nghị của chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong những trường hợp nêu trên, không phụ thuộc vào điều lệ của doanh nghiệp hay ý chí của chủ sở hữu doanh nghiệp, Tòa án có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng tại Tòa án.

1.4. Phân loại người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

1.4.1. Đại diện theo pháp luật theo loại hình doanh nghiệp

Người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu, Khoản 3 Điều 79 LDN năm 2020 quy định: “Công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.”;

Người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu, khoản 1, Điều 85 LDN năm 2020 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu có Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc… Chủ sở hữu công ty là Chủ tịch công ty và có thể kiêm hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”.

Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, LDN năm 2020 kế thừa tinh thần của LDN năm 2014, tiếp tục cho phép loại hình công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh, khoản 1, điều 184 LDN năm 2020 quy định: “Các thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật của công ty và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó”. Như vậy, không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, chỉ có một người hoặc có thể hơn một người làm đại diện theo pháp luật, trong công ty hợp danh thì tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật cho công ty.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân, khoản 3, điều 190 LDN năm 2020 quy định: “Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”

1.4.2. Người đại diện theo pháp luật được phân chia theo chức vụ quản lý Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Căn cứ vào chức vụ quản lý của doanh nghiệp, theo LDN năm 2020, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là:

  • Chủ tịch công ty;
  • Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Nếu điều lệ công ty không quy định Chủ tịch là người đại diện, thì trong loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, giám đốc hoặc tổng giám đốc sẽ là người đại diện theo pháp luật.
  • Thành viên hợp danh trong công ty hợp danh.
  • Chủ doanh nghiệp của doanh nghiệp tư nhân.

1.4.3. Người đại diện theo pháp luật được phân chia theo quốc tịch

Căn cứ theo quốc tịch thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là:

Công dân Việt Nam: Theo quy định tại khoản 1, Điều 17 LDN năm 2020 quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”. Như vậy, thì tất cả cá nhân là công dân Việt Nam, không thuộc trường hợp bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, và khi có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp thì cá nhân đó cũng có quyền trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Người nước ngoài: Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 17 LDN năm 2020 (như trích dẫn trên), người nước ngoài khi đến đầu tư ở Việt Nam, hoặc được doanh nghiệp Việt Nam thuế (trừ doanh nghiệp Nhà nước) làm quản lý và không thuộc trường hợp bị pháp luật Việt Nam cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp, thì cũng có thể trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên, người nước ngoài nếu làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại Việt Nam thì bắt buộc phải cư trú hợp pháp tại Việt Nam, đồng thời còn tuân thủ pháp luật về quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú đối với người nước ngoài, pháp luật về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các quy định có liên quan.

1.4.4. Phân chia người đại diện theo số lượng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Căn cứ quy định của LDN năm 2020, thì doanh nghiệp “…có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Do đó, có thể chia thành:

  • Doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, và
  • Doanh nghiệp có từ hai người đại diện theo pháp luật trở nên.

1.5. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Qua quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh thực tiễn của doanh nghiệp đã chứng minh rõ vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đây là vị trí “đầu tàu”, định hướng, dẫn dắt các hoạt động phát triển của doanh nghiệp. Cũng bởi doanh nghiệp là một thực thể do pháp luật đặt ra, tự bản thân nó không thể trực tiếp tham gia các giao dịch được mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

Do đó, pháp luật nói chung đều thống nhất quy định: Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật. Người đại diện theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc doanh nghiệp cử ra với vai trò là người đại diện, thay mặt cho toàn bộ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đối nội (tổ chức, vận hành bộ máy doanh nghiệp) và đối ngoại (tiếp xúc, giao dịch, thực hiện nhiệm vụ với các chủ thể bên ngoài). Vì vậy, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ra đời và tồn tại song hành cùng với doanh nghiệp, là một trong những nội dung quan trọng, được ghi nhận ngay trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Để một doanh nghiệp hoạt động bình thường, thì không thế khuyết thiếu người đại diện theo pháp luật, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Bởi vì, nếu không có người đại diện theo pháp luật, thi sẽ dẫn đến nguy cơ đình trệ hoạt động của doanh nghiệp, thậm chí còn có thể rơi vào tình trạng bế tắc, không lối thoát. Vì vậy, người đại diện theo pháp luật được coi là một chế định pháp luật rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi sự tồn tại của một doanh nghiệp luôn gắn với sự tồn tại của người đại diện theo pháp luật với những vai trò sau: Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Là điều kiện pháp lý để doanh nghiệp được thành lập và hoạt động bình thường. Khi nộp hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp, trong nội dung hồ sơ đề nghị đăng ký thành lập doanh nghiệp phải thể hiện rõ các thông tin của người đại diện theo pháp luật; và trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Đối với doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và nếu phải xuất cảnh khỏi Việt Nam thì phải ủy quyền bằn văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về hoạt động của người được ủy quyền. Tuy nhiên, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác, hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, HĐTV, HĐQT cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Nhân danh doanh nghiệp, thực hiện các công việc trong phạm vi đại diện làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chẳng hạn như: xác lập, ký kết các hợp đồng; là người đại diện cho doanh nghiệp tham gia tố tụng…

Thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một thực thể được hình thành từ nguồn vốn của các chủ sở hữu. Quá trình hoạt động, doanh nghiệp không tồn tại một cách đơn lẻ mà có sự liên kết với các chủ thế khác như: quan hệ với chủ sở hữu, với người lao động, với các đối tác, khách hàng, cơ quan Nhà nước,… Trong nội bộ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp như tổ chức và điều hành các hoạt động kinh doanh, tổ chức nhân sự, quản lý, sử dụng tài khoản, con dấu của doanh nghiệp. Có rất nhiều mối quan hệ nảy sinh giữa người đại diện theo pháp luật và các thành viên khác của doanh nghiệp. Trong mối quan hệ với chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật đóng vai trò thay mặt chủ sở hữu thực hiện việc quản lý công ty cho họ, mà trong đó bao gồm cả thầm quyền ra những quyết định nhất định để hành động vì lợi ích của công ty cũng như định đoạt tài sản công ty. Đồng thời, người đại diện cho doanh nghiệp cùng với chủ sở hữu doanh nghiệp hoạch định các chiến lược kinh doanh của công ty, góp phần nâng cao giá trị tài sản góp vốn của các chủ sở hữu. Đối với các thành viên khác trong doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật thường là người có vai trò lãnh đạo, quản lý nhân viên cấp dưới, góp phần thay đổi cơ cấu sản phẩm, dịch vụ một cách năng động và có hiệu quả. Còn trong mối quan hệ với khác hàng và các bên liên quan khác, người đại diện chính là người thay mặt cho doanh nghiệp trong các mối quan hệ đối ngoại. Chữ ký của người đại diện theo pháp luật trên một văn bản của doanh nghiệp nằm ở chỗ ràng buộc doanh nghiệp vào nội dung văn bản. Hành vi của người đại diện chính là chứng cứ pháp lý để ràng buộc tránh nhiệm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông qua hành vi của người đại diện, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể kiểm soát, đánh giá ý chức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, để có những biện pháp xử lý, can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh theo khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp để thực hiến đúng các thủ tục như: Đăng ký doanh nghiệp, đóng thuế, nộp phạt,… theo đúng yêu cầu, giúp cho các hoạt động của doanh nghiệp được vận hành một các bình thường và dễ dàng hơn. Khi có tranh chấp phát sinh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ đóng vai trò với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài và Tòa án. Đối với những người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền, họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong phạm vi ủy quyền, đồng thời chịu trách nhiệm trước người đại diện theo pháp luật và doanh nghiệp về việc thực hiện các công việc được ủy quyền. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Với những vài trò quan trọng nêu trên, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã hiện thực hóa ý chí, mục tiếu chiến lược của doanh nghiệp. Đồng thời, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là kênh thông tin phản ánh kịp thời, hiệu quả cho chủ sở hữu về tình trạng, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và các thông tin liên quan của doanh nghiệp để chủ sở hữu có những quyết sách kịp thời. Thực tiễn cũng đã cho thấy sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cũng như kết quả hoạt động của những người đại diện theo pháp luật. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra là phải xây dựng một chế định người đại diện theo pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, dễ tiếp cận hơn để giúp cho doanh nghiệp chủ động, tự tin hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.

1.6. Những điểm mới về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020

LDN năm 2020 sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Theo đó, nhiều nội dung liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có sự thay đổi đáng kể.

1.6.1.  Bổ sung vai trò cho người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Tại khoản 1, Điều 12, LDN năm 2020 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, so với quy định tương ứng tại khoản 1, Điều 13 LDN năm 2014, thì quy định mới đã bổ sung thêm cho người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vai trò là “người yêu cầu giải quyết việc dân sự”. Vai trò này thống nhất với quy định tại Điều 68, Điều 69 của BLTTDS năm 2015; theo đó, trường hợp cơ quan, tổ chức yêu cầu giải quyết việc dân sự thì người tham gia tố tụng là người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.

Có thể thấy, LDN 2020 đã chính thức ghi nhận vai trò đại diện cho doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc dân dân sự của người đại diện theo pháp luật, mà trước đó đã được BLTTDS năm 2015 quy định.

1.6.2. Bổ sung trách nhiệm liên đới nếu gây thiệt hại cho doanh nghiệp Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Lần đầu tiên, LDN 2014 quy định: Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

Kế thừa quy định của LDN năm 2014, LDN năm 2020 tiếp tục ghi nhận nội dung Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, nhưng quy định mới đã rõ ràng hơn về trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật. Khoản 2, Điều 12 LDN 2020 nêu: Trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật không quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật đều có đủ thẩm quyền đại diện cho doanh nghiệp trước bên thứ ba. Đáng chú ý, nếu không quy định rõ quyền cho từng người thì tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp.

1.6.3.  Bổ sung thêm trường hợp cử người đại diện theo pháp luật

Hiện nay, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trong trường hợp doanh nghiệp chỉ còn một người đại diện theo pháp luật nhưng không đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với doanh nghiệp, thì chủ sở hữu công ty, HĐTV, HĐQT phải cử người khác thay thế. Khoản 5 Điều 12 LDN 2020 quy định: Phải thay thế người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp khi người này thuộc một trong 10 trường hợp sau:

  • Vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật;
  • Chết;
  • Mất tích;
  • Bị tạm giam;
  • Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
  • Đang chấp hành hình phạt tù;
  • Bị hạn chế, hoặc mất năng lực hành vi dân sự;
  • Đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc;
  • Có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
  • Bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Như vậy, so với LDN 2014, thì LDN 2020 đã bỏ trường hợp người đại diện theo pháp luật bị kết án tù. Đồng thời, quy định mới đã bổ sung thêm 05 trường hợp: Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

  • Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
  • Đang chấp hành hình phạt tù;
  • Bị hạn chế hạn hoặc mất năng lực hành vi dân sự;
  • Đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện hoặc giáo dục bắt buộc;
  • Có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
  • Bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

1.6.4. Bổ sung thêm trường hợp đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật

Theo LDN 2020, đối với loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên, nếu có thành viên không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật thì người còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên.

Trong khi đó, LDN 2014 chỉ quy định 05 trường hợp thành viên còn lại của công ty TNHH hai thành viên đương nhiên là người đại diện theo pháp luật, bao gồm:

  • Khi có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị: Tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
  • Bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác.

LDN 2020 đã bỏ hai trường hợp hiện nay đang áp dụng:

Một trong hai thành viên của công ty bị kết án tù và bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác. Thay vào đó, Điều 12 LDN 2020 đã bổ sung thêm 06 trường hợp thành viên còn lại của công ty TNHH hai thành viên đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty nếu một trong hai thành viên: Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

  • Chết;
  • Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
  • Đang chấp hành hình phạt tù;
  • Đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc;
  • Có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
  • Bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Như vậy, LDN 2020 có 11 trường hợp đương nhiên trở thành người đại diện của công ty TNHH hai thành viên mà doanh nghiệp cần lưu ý.

Kết luận Chương 1

Trước khi phân tích chuyên sâu về: “Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2020” tại chương 2, trong chương này, tác giả đã làm rõ các vấn đề lý luận về người đại diện của doanh nghiệp nói chung.

Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói chung, sẽ tạo nên tảng, cơ sở cho việc nghiên cứu sâu về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại chương 2, thông qua việc so sánh, đối chiếu về người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần với các loại hình doanh nghiệp khác, từ đó, đánh giá mặt thuận lợi, khó khăn, ưu nhược điểm các quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần với người đại diện theo pháp luật trong các loại hình doanh nghiệp khác, để từ đó đưa ra kiến nghị và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế định người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993