Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã – từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, chứng thực là nhu cầu của mỗi người dân, cơ quan và doanh nghiệp. Nhu cầu đó xuất phát từ thực tế các quan hệ giao dịch dân sự, kinh tế, hành chính. Các cơ quan nhà nước cấp cho công dân hoặc doanh nghiệp nhiều loại giấy tờ như căn cước công dân, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, bằng lái xe, bằng tốt nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp…. Các loại giấy tờ trên về nguyên tắc chỉ được cấp một bản duy nhất.
Tuy nhiên trong thực tế người dân lại có nhu cầu sử dụng các giấy tờ đó nhiều lần vào nhiều giao dịch khác nhau. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân cũng có nhu cầu xác nhận giá trị pháp lý của các chữ ký, hợp đồng, giao dịch. Chính vì thế, nhà nước quy định về hoạt động chứng thực để đáp ứng các nhu cầu đó cho công dân và cơ quan, doanh nghiệp.
Hiện nay nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách tổng thể nền hành chính, xây dựng nền hành chính trong sạch, hiệu đại, hiệu quả, đáp ứng tốt nhu cầu của công dân. Cải cách tư pháp được coi là trọng tâm mà trong đó cải cách hoạt động chứng thực là một phần trong tiến trình cải cách đó nhằm đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế – xã hội. Để đáp ứng nhu cầu chứng thực ngày càng tăng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng thực, nhà nước đã sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực như: Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về “ Công chứng, chứng thực”, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về “ cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký”, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/01/2012 của Chính phủ sửa đổi bổ sung điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về “ cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký”, Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về hộ tịch hôn nhân và gia đình và chứng thực, Nghị định số 23/2015 ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi tắt là Nghị định 23).
Tuy nhiên, quy định của pháp luật về chứng thực hiện nay vẫn còn những hạn chế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực còn chưa thực sự hoàn thiện, gây khó khăn cho cả người thực hiện chứng thực và người có yêu cầu chứng thực. Sự phân định giữa hoạt động công chứng và chứng thực trong quy định của các văn bản chưa thực sự rõ ràng trong khi công chứng và chứng thực là hai hoạt động khác nhau. Khái niệm về chứng thực quy định trong Nghị định số 23 cũng chưa thực sự tường minh, bước đầu có thể hiểu đó là việc CQNN có thẩm quyền xác nhận về tính chính xác, có thực của giấy tờ, văn bản, chữ ký, hợp đồng, giao dịch, là cơ sở phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của các cá nhân, tổ chức trong xã hội được dễ dàng, thuận tiện hơn. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Nghị định số 23 đã khắc phục được một số hạn chế của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP trước đây như quy định rõ các trường hợp không được chứng thực chữ ký tránh sự lạm dụng của người dân trong việc yêu cầu chứng thực chữ ký thay cho chứng thực hợp đồng, giao dịch; quy định về trình tự, thủ tục thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch…..đồng thời có nhiều quy định mới, góp phần rút ngắn thời gian thực hiện chứng thực, tăng thẩm quyền cho UBND cấp xã, đơn giản các thủ tục… tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi yêu cầu chứng thực hoặc thực hiện các hợp đồng, giao dịch dân sự, nhất là đối với người dân ở vùng sâu, vùng xa, những nơi chưa có phòng hoặc văn phòng công chứng. Tuy nhiên, Nghị định số 23 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập qua quá trình thực thi như:
Giá trị pháp lý của văn bản điều chỉnh hoạt động chứng thực, thủ tục chứng thực chữ ký không có sự thống nhất với quy định khác có liên quan, thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch còn đơn giản…ảnh hưởng không nhỏ tới thực tiễn thi hành.
Quy định về hoạt động chứng thực chữ ký còn chung chung, không rõ ràng gây ra khó khăn cho người tiếp nhận chứng thực và công dân;
Chưa quy định cụ thể về chứng thực từng loại hợp đồng giao dịch mà chỉ quy định chung nên khó áp dụng khi có các giao dịch phát sinh thêm nhưng không có căn cứ cho cán bộ tiếp nhận từ chối chứng thực.
Quy định về chứng thực bản sao từ bản chính được mở rộng với nhiều loại giấy tờ, kể cả giấy tờ có tiếng nước ngoài nhưng có dấu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp vẫn có thể chứng thực gây khó khăn trong khi trình độ của cán bộ, công chức chứng thực hiện nay còn hạn chế.
Quy định về các điều kiện đảm bảo trong đó có chế độ đãi ngộ dành cho cán bộ, công chức làm công tác chứng thực chưa được quan tâm. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Những hạn chế trong quy định của pháp luật đã dẫn tới nhiều vướng mắc, bất cập trong triển khai thực hiện của các chủ thể có thẩm quyền chứng thực. Thực tế đó cho thấy, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật về chứng thực để có thể vừa đáp ứng được nhu cầu chứng thực cho người dân vừa tạo điều kiện cho cán bộ, công chức thực hiện chứng thực có nền tảng pháp lý cụ thể, phù hợp để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn chứng thực được đúng và thuận lợi hơn.
Ủy ban nhân dân cấp xã là một chủ thể quan trọng có thẩm quyền chứng thực. Thực tế cho thấy hoạt động chứng thực là hoạt động thường xuyên của UBND cấp xã, gắn với đời sống sinh hoạt, học tập và công tác của hầu hết mọi người dân. Hoạt động chứng thực có yêu cầu tiến hành hàng ngày, có số lượng lớn, nên chiếm một phần khá lớn thời gian tác nghiệp của công chức Tư pháp – hộ tịch. Là chính quyền cấp cơ sở, hoạt động gắn liền với người dân địa phương, việc triển khai thực hiện tốt hoạt động chứng thực của UBND xã sẽ tạo được uy tín của chính quyền đối với người dân. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về chứng thực nói chung và nghiên cứu pháp luật về chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã nói riêng là hết sức ý nghĩa và quan trọng cả về mặt khoa học pháp lý và thực tiễn. Huyện Đan Phượng là huyện nằm ở phía Tây Bắc Hà Nội, với dân số trên 156.000 người và 16 xã, trị trấn, đang phát triển và biến đổi mạnh mẽ về kinh tế – xã hội cùng với quá trình đô thị hóa, nhu cầu chứng thực của người dân là khá lớn.
Chính vì những lý do trên, tôi lựa chọn chủ đề “Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã – từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính. Đề tài mong muốn nghiên cứu, tìm ra những hạn chế trong các quy định của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã thông qua thực tế thực hiện các quy định này tại UBND cấp xã thuộc địa bàn huyện Đan Phượng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến pháp luật về chứng thực nói chung và pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã nói riêng. Tuy nhiên, các công trình đó thường tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều góc độ quản lý nhà nước về hoạt động chứng thực hoặc hoạt động chứng thực trên cơ sở áp dụng pháp luật mà chưa đi sâu nghiên cứu pháp luật về chứng thực. Một số công trình có đề cập đến pháp luật về chứng thực nhưng theo hệ thống văn bản đã hết hiệu lực pháp lý. Cụ thể có một số đề tài nghiên cứu như sau:
- Luận văn thạc sỹ: “Áp dụng pháp luật về chứng thực – qua thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thu Hương, năm 2018;
- Luận văn thạc sỹ: “Chứng thực của ủy ban nhân dân xã từ thực tiễn huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2017; Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
- Luận văn thạc sỹ: “Quản lý nhà nước về chứng thực của Ủy ban nhân dân phường – Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của tác giả Hà Thị Hồng, Học viện hành chính quốc gia, năm 2016;
- Luận văn thạc sỹ: “Quản lý nhà nước về chứng thực – Thực trạng và phương hướng đổi mới”, Chu Thị Tuyết Lan, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2012.
- Luận văn thạc sỹ: “Quản lý nhà nước về chứng thực trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội”, Phan Thanh Hương, Học viện hành chính quốc gia, năm 2014;
- Luận văn thạc sỹ: “Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra”, Phan Văn Trường, Học viện hành chính quốc gia, năm 2010;
- Luận án tiến sỹ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay – lý luận và thực tiễn”, Tuấn Đạo Thanh, năm 2008;
- Đặc san tuyên truyền pháp luật: Pháp luật về chứng thực, Vũ Thị Thảo
- Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực – Bộ Tư pháp (2015);
Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu sắc, toàn diện nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã từ thực tế hoạt động này tại các ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Đề tài: “Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã – từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” được coi là công trình nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về chứng thực đầu tiên gắn riêng với thẩm quyền của UBND cấp xã dựa trên thực tế tại huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Qua công trình nghiên cứu này tôi mong muốn cung cấp thêm một cái nhìn từ thực tế địa bàn huyện Đan Phượng để đánh giá về những vướng mắc, bất cập mà pháp luật về chứng thực đang tạo ra trên thực tế để đề xuất các giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định của pháp luật về chứng thực thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã và đảm bảo việc thực hiện hiệu quả các quy định này trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về chứng thực tại UBND cấp xã, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế từ thực tiễn thực hiện các quy định này tại UBND cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng,thành phố Hà Nội và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về chứng thực tại UBND cấp xã.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã;
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
- Ba là, đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã và việc thực hiện các quy định pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về chứng thực thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã (bao gồm xã, phường và thị trấn) và việc thực hiện các quy định pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã, tập trung vào nội dung chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật từ khi ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP cho tới nay và thực tiễn áp dụng thực hiện các quy định về chứng thực từ năm 2015 cho đến nay.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, về quản lý Nhà nước, về quyền con người…trong pháp luật về chứng thực nói chung và pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã nói riêng trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
Về phương pháp thu thập số liệu, dữ liệu: Để thu thập thông tin, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp từ các báo cáo, kết quả khảo sát, điều tra của các CQNN, các tổ chức, các công trình nghiên cứu khoa học, sách báo, tạp chí liên quan. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Bên cạnh đó tác giả luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, đánh giá trong Chương 1, phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, đánh giá trong Chương 2 và phương pháp phân tích,quy nạp… trong Chương 3 để nghiên cứu về lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn như việc hệ thống hóa được các quy định pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã , đánh giá được các quy định của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban dân cấp xã dựa trên thực tiễn thực hiện pháp luật về chứng thực trên địa bàn huyện Đan Phượng, chỉ rõ những điểm còn hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã trong thời gian tới.
Luận văn cũng là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ với các chủ thể xây dựng chính sách, pháp luật về chứng thực, các chủ thể quản lý, chủ thể áp dụng các quy định pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã mà còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý ở các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương cụ thể như sau:
- Chương 1.Cơ sở lý luận của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã;
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội;
- Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chứng thực
1.1.1.1. Khái niệm chứng thực
Để làm rõ được khái niệm pháp luật về chứng thực, cần làm rõ khái niệm “chứng thực” thông qua việc xem xét thuật ngữ này dưới các khía cạnh ngôn ngữ và pháp lý:
Về khía cạnh ngôn ngữ học, thuật ngữ “công chứng”, “chứng thực” xuất phát từ thuật ngữ Notariat (tiếng Pháp, Đức,…) hay Notary (tiếng Anh), đều có gốc Latinh là Notarius có nghĩa là ghi chép. Theo Từ điển Tiếng Việt chứng thực được định nghĩa “Nhận cho để làm bằng là đúng sự thật. Chứng thực lời khai. Xác nhận là đúng. Thực tiễn đã chứng thực điều đó”[37, tr. 186].
Trước đây, các nước chỉ sử dụng thuật ngữ “công chứng”. Phải đến khi các nhà nước dân chủ phát triển, thuật ngữ “chứng thực” mới được hình thành và có sự tách bạch tương đối với thuật ngữ “công chứng”.
Qua tham khảo một số tài liệu pháp lý nước ngoài có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước cũng có những khái niệm tương đương với khái niệm “chứng thực” trong tiếng Việt. Khi nghiên cứu về chứng thức tại một số quốc gia như Nga, Thụy Sỹ, Ba Lan, Đức…, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “Các nước đều không có sự tách bạch công chứng, chứng thực rành mạch như Việt Nam nên đa phần Luật đều có tên chung là Luật Công chứng, chứng thực. Thông thường người thực hiện công chứng và chứng thực có thể hoán đổi vị trí trong từng trường hợp cụ thể. Công chứng viên cũng được Bộ Tư pháp bổ nhiệm còn người đứng đầu xã hoặc nhân viên thư ký các xã thực hiện chứng thực. Các việc về chứng thực khá đa dạng, ngoài chứng thực bản sao, bản dịch, chữ ký còn có một số việc khác xác nhận rằng công dân đang sống, một công dân ở một nơi nhất định, xác nhận danh tính của một công dân với người được miêu tả trong bức ảnh, ngày xuất trình tài liệu” [19].
Tại Cộng hòa Ba Lan, theo Luật Công chứng ngày 14/02/1991, công chứng thị thực: được hiểu là một dạng thị thực hành chính có nội dung như chứng thực của Việt Nam, bao gồm: chữ ký, bản sao, bản trích sao từ bản gốc, ngày xuất trình một tài liệu, một người còn sống, nơi ở của một người. Khi thị thực bản sao công chứng viên phải đối chiếu với bản gốc. nếu bản gốc có những chi tiết đặc biệt (chữ bị gạch xóa, ghi nhớ bên lề, bị khuyết), thì công chứng viên phải ghi rõ tình huống đó.
Canada, tất cả các loại giấy tờ như giấy khai sinh, kết hôn hoặc tử vong, các tài liệu được phát hành bởi tổ chức giáo dục, y tế… có thể được chứng thực, trừ các tài liệu do tổ chức tôn giáo phát hành. Chẳng hạn, đối với tài liệu trong lĩnh vực giáo dục, chỉ chứng thực các văn bằng, bảng điểm của tổ chức giáo dục Canada đã được Bộ Giáo dục công nhận. Văn bằng, bảng điểm do một trường đại học hoặc cao đẳng Canada phải được ký và đóng dấu của Văn phòng Đăng ký của tổ chức có liên quan. Bảng điểm từ một trường tiểu học hoặc trung học Canada phải có chữ ký của Giám đốc hoặc Phó Giám đốc của trường. Theo quy định, trên các tài liệu Canada chỉ xác thực chữ ký chứ không xem xét, phê duyệt nội dung của tài liệu. Canada cũng cho phép chứng thực bản sao bản chính (tài liệu ban đầu, tài liệu gốc) miễn là phải có xác nhận sao y bản chính có chữ ký và đóng dấu của cơ quan chứng thực. Bản sao các văn bản không xác nhận, ký tên và đóng dấu chứng thực sẽ không được trả lại cho người yêu cầu. Như vậy, các văn bản pháp luật nước ngoài cũng chỉ đưa ra thuật ngữ “chứng thực” gắn với những việc làm, hành động cụ thể mà không đưa ra khái niệm về “chứng thực”. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Tại Việt Nam, thuật ngữ chứng thực xuất hiện lần đầu tiên trong Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc công chứng cụ thể của Bộ Tư pháp và cho đến năm 2000, với việc ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ – CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000 NĐ – CP) thì mới có sự phân biệt giữa 2 thuật ngữ “công chứng” và “chứng thực” [11]. Cụ thể như sau:
Trong Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ, Hồ Chủ tịch không dùng thuật ngữ “chứng thực” mà sử dụng thuật ngữ “thị thực”: Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong địa phương mình, bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào. Tuy nhiên, Ủy ban thị thực phải là Ủy ban ở trú quán một bên đương sự lập ước và về việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản [9]. Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc công chứng cụ thể của Bộ Tư pháp là văn bản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “chứng thực”: Tất cả các đơn từ, giấy tờ khác có nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội chủ nghĩa, thì có thể được công chứng viên chứng thực chữ ký của người lập ra chúng [3]. Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 quy định về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước không xuất hiện cụm từ ”chứng thực” nhưng đến Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1999 thuật ngữ này lại xuất hiện thông qua việc giao cho UBND thực hiện việc chứng thực: Các hợp đồng và giấy tờ đã được Công chứng Nhà nước chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Toà án Nhân dân tuyên bố là vô hiệu. Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh chứng thực các việc do pháp luật quy định và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, trừ các việc được quy định tại khoản 1, 2 Điều 18 [12].
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là văn bản đầu tiên đưa ra khái niệm “chứng thực” là gì: “chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định.” [11, Điều 2].
Như vậy theo quy định của Nghị định số 75/2000/ NĐ-CP, hoạt động chứng thực gồm: (i) Xác nhận sao y giấy tờ; (ii) Xác nhận hợp đồng, giao dịch; (iii) Xác nhận chữ ký. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Tuy nhiên, đến thời thời điểm năm 2006 với sự ra đời của Luật công chứng 2006 điều chỉnh hoạt động công chứng và Nghị định số 79/NĐ–CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thức bản sao từ bản chính (sau đây gọi tắt là Nghị định số 79/NĐ-CP) điều chỉnh hoạt động chứng thực sao y bản chính, cấp bản sao từ sổ gốc và chứng thực chữ ký. Như vậy hoạt động công chứng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật công chứng 2006, hoạt động chứng thực thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 79/NĐ-CP. Tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không đưa ra khái niệm “chứng thực” mà giải thích cụ thể các hoạt động chứng thực. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu chung nhất về hoạt động chứng thực theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan hành chính nhà nước xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản được chứng thực so với bản chính; xác nhận tính chính xác, tính có thực của chữ ký được chứng thực là chữ ký của một cá nhân cụ thể, là cơ sở phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của các cá nhân, tổ chức trong xã hội được dễ dàng, thuận tiện.
Nếu chỉ căn cứ vào Nghị định số 79/2007/NĐ – CP thì khái niệm chứng thực được thu hẹp không gồm hoạt động xác nhận hợp đồng, giao dịch bởi theo phạm vi điều chỉnh của Nghị định 75/200/NĐ – CP mà chỉ điều chỉnh hoạt động chứng thực gồm 3 vấn đề: Cấp bản sao từ sổ gốc; Chứng thực bản sao từ bản chính; Chứng thực chữ ký cá nhân (bao gồm chứng thực chữ ký của người dịch trong các bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và chứng thực chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho các giao dịch dân sự).
Luật công chứng và Nghị định số 79 đã phân biệt rõ hai loại hoạt động công chứng và chứng thực, theo đó công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; còn Phòng Tư pháp cấp huyện, UBND xã có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, chứng thực chữ ký.
Đến Nghị định số 23/2015/NĐ-CP cũng không đưa ra khái niệm “chứng thực” mà giải thích cụ thể các hoạt động chứng thực về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Theo đó, “Chứng thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính; “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực; “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch” [13].
Qua những phân tích trên ta có thể hiểu chung nhất về khái niệm “chứng thực” như sau: Chứng thực là hoạt động mang tính chất hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng thực xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để tổ chức, cá nhân sử dụng trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của chứng thực Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Một là, chứng thực là hoạt động mang tính chất hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện:
Chứng thực phải do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện là UBND cấp huyện, UBND cấp xã, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện mà không thể ủy quyền cho bất cứ cơ quan nào khác. Không giống như hoạt động công chứng có thể ủy quyền cho một cơ quan khác không mang tính quyền lực nhà nước thực hiện như Văn phòng công chứng, hoạt động chứng thực phải do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Có thể thấy đặc điểm này có phần khác biệt so với công chứng là hoạt động của công chứng viên ở một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại mà theo quy định pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động chứng thực chủ yếu là cơ quan nhà nước thực hiện như: Phòng Tư pháp; UBND xã, phường; Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài… còn công chứng thì do cơ quan bổ trợ tư pháp thực hiện như phòng công chứng (do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng) và văn phòng công chứng (do 02 công chứng viên hợp danh trở lên thành lập theo loại hình tổ chức của công ty hợp danh, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác). Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Hai là, bản chất của chứng thực là xác thực giá trị pháp lý của văn bản, chứng nhận sự việc theo quy định của pháp luật:
Bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.
Văn bản đã được chứng thực của UBND các cấp có giá trị pháp lý mà người tiếp nhận không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu, trong trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ có sự giả mạo thì có quyền xác minh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục chứng thực có sai phạm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong khi thi hành nhiệm vụ, quyền hạn về chứng thực, người thực hiện nhiệm vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý làm trái các quy định của pháp luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Chứng thực chủ yếu chứng nhận sự việc, giá trị sử dụng của văn bản được chứng thực, ít đảm bảo về nội dung.
Có thể thấy rõ hơn về đặc điểm này khi đặt trong sự đối chiếu với công chứng, công chứng khác ở chỗ chủ yếu bảo đảm nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, công chứng viên chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó và qua việc bảo đảm tính hợp pháp để giảm thiểu rủi ro, mang tính pháp lý cao hơn, trong đó văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng, hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác, hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu, bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.
Ba là, chứng thực bao gồm các hoạt động chủ yếu là cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký cá nhân và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trong đó, cấp bản sao từ sổ gốc là việc cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc, căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao. Bản sao từ sổ gốc có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc; chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính; chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực; chứng thực hợp đồng, giao dịch là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
1.1.2.1. Khái niệm chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên [22, khoản 1, Điều 114]. Ủy ban nhân dân bao gồm các cấp: tỉnh, huyện, xã. Trong đó UBND cấp xã (bao gồm: xã, phường, thị trấn) là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân xã bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Như vậy, UBND cấp xã là một cơ quan của chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch [28, Điều 34]. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Về danh nghĩa, người này do Hội đồng nhân dân của xã, thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch UBND xã, phường hay thị trấn sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó. Ủy ban nhân dân xã, phường hay thị trấn hoạt động theo hình thức chuyên trách. Bộ máy giúp việc của UBND cấp xã gồm có 7 chức danh: Công an, quân sự, kế toán, văn phòng, tư pháp – hộ tịch, văn hóa – xã hội, địa chính. Mỗi chức danh tùy vào tình hình thực tế địa phương mà bố trí số lượng biên chế phù hợp. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn như: Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân xã Nghị quyết, Quyết định thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp xã; Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền cho UBND xã. Trong các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, ủy quyền có nhiệm vụ giải quyết các thủ tục hành chính cho tổ chức, nhân, trong đó có hoạt động chứng thực [28, Điều 35, 36].
Như vậy, xuất phát từ khái niệm chứng thực đã phân tích ở phía trên và việc xác định địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã, đề tài đưa ra quan niệm về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã như sau: Chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã là hoạt động mang tính chất hành chính do Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để tổ chức, cá nhân sử dụng trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính theo quy định của pháp luật.
Chứng thực của UBND cấp xã thường bao gồm cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản (trừ việc chứng thực chữ ký là người dịch) là chữ ký của người yêu cầu chứng thực; xác nhận thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch, năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch là có thật tại thời điểm giao kết. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này sẽ không đề cập đến vấn đề cấp bản sao từ sổ gốc.
1.1.2.2. Đặc điểm về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Ngoài các đặc điểm chung của hoạt động chứng thực như đã phân tích ở phía trên, chứng thực tại UBND cấp xã còn có một số đặc điểm sau: Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Thứ nhất, chứng thực tại UBND cấp xã là hoạt động mang tính chất hành chính do UBND cấp xã – cơ quan HCNN cấp thấp nhất thực hiện với những đặc thù riêng của chính quyền cấp xã:
Xét về quy mô và cấp độ tổ chức, quan hệ quyền lực, quyền hạn, chức trách của tổ chức nhà nước, cấp cơ sở cũng là thấp nhất. UBND cấp xã cũng như hệ thống chính trị cấp xã đương nhiên chịu sự chỉ đạo, kiểm soát của cấp trên, từ UBND huyện, tỉnh tới trung ương. Cái nhỏ nhất, thấp nhất đó còn được minh chứng bởi quy mô diện tích, địa giới hành chính và số lượng dân cư mà xã quản lý. Tính chất, tầm quan trọng của mỗi cấp độ quản lý không phải do định lượng mà do định tính, chức năng và nhiệm vụ của nó quy định. Cấp cơ sở cũng là những đầu mối công việc, những quan hệ nhiều chiều, ngang dọc, trên dưới đan xen trong một môi trường sinh động, một không gian xác định, những quyền hành và trách nhiệm cần thực thi, nơi bộc lộ trực tiếp, cụ thể của một chính quyền, một chế độ. Sự ổn định của xã hội được bắt đầu từ cơ sở, đó là tiền đề của sự phát triển; thường thì sự không bình yên của thể chế đều bắt đầu từ chỗ lòng dân không yên, quy luật quản lý là có dân thì có tất cả, phải xuất phát từ đây thì mọi hoạt động quản lý của các cấp mới triển khai có hiệu quả.
Hiện nay, cả nước có 11.112 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 1.403 phường, 624 thị trấn, 9.085 xã [27]. Như vậy, trong số những đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nước ta thì đơn vị xã chiếm số lượng lớn nhất. Đây là cấp chính quyền có số lượng lớn nhất và có đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội đa dạng nhất trong các loại hình đơn vị hành chính. Chính quyền cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân trong xã, đại diện cho nhà nước, để thực thi quyền lực nhà nước, triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước ở xã. Chính quyền xã giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý các vấn đề phát triển xã hội ở nông thôn. Chứng thực được tiến hành chủ yếu ở cấp chính quyền cơ sở, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất. Thực tế cho thấy hoạt động chứng thực là hoạt động thường xuyên của UBND cấp xã, gắn với đời sống sinh hoạt, học tập và công tác của hầu hết mọi người dân. Hoạt động chứng thực có yêu cầu tiến hành hàng ngày, có số lượng lớn, nên chiếm một phần khá lớn thời gian tác nghiệp của công chức Tư pháp – hộ tịch cấp xã.
Hai là, chứng thực của UBND cấp xã bị giới hạn về phạm vi các hoạt động chứng thực cụ thể do sự chi phối về trình độ, năng lực quản lý của UBND cấp xã và trình độ dân trí cấp cơ sở: Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Như đã phân tích, chứng thực bao gồm nhiều hoạt động như cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký cá nhân và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Các nghiệp vụ cụ thể này đòi hỏi mức độ trình độ nhất định của cán bộ tiếp nhận, trong đó có cả trình độ ngoại ngữ mới có thể đảm bảo khả năng tiến hành tốt nhất. Trong khi đó, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức xã còn hạn chế là một trong những lí do khiến cho khi xây dựng các văn bản pháp luật về chứng thực, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phạm vi các hoạt động chứng thực cụ thể mà cấp xã phải tiến hành cho phù hợp. Không thể trao cho cấp xã thẩm quyền chứng thực ở những nội dung phức tạp, đòi hỏi trình độ vượt quá khả năng nghiệp vụ của cán bộ công chức cấp xã. Đây là yếu tố quan trọng nhất, tiếp đến là nguồn lực còn hạn chế, tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức của chính quyền xã chưa hợp lý, cơ sở hạ tầng yếu kém. Do đó, thông thường UBND cấp xã sẽ được giao chứng thực những nội dung đơn giản hơn và gắn trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của người dân địa phương như: Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận; Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản, trừ việc chứng thực chữ ký người dịch; Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản; Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai; Chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở; Chứng thực di chúc; Chứng thực văn bản từ chối nhận di sản. Thường không được giao nội dung chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài.
Ba là, chứng thực tại UBND cấp xã được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định:
Chứng thực là hoạt động xác nhận giá trị pháp lý các văn bản, các giao dịch hợp đồng,… gắn chặt với quyền và lợi ích của người dân, có mối quan hệ mật thiết với việc thực hiện các thủ tục hành chính khác nên nó cũng mang nặng tính thủ tục hành chính, phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, chi tiết, tỉ mỉ, không được phép sai lệch trong từng chi tiết nhỏ. Việc quy định, hướng dẫn trình tự, thủ tục chứng thực thiếu cụ thể, chặt chẽ sẽ dẫn tới những hệ quả pháp lý phức tạp liên quan tới hàng loạt các giao dịch, thủ tục hành chính khác. UBND cấp xã là cơ quan chính quyền cơ sở, gần dân nhất, thường xuyên trực tiếp tiếp xúc và giải quyết yêu cầu của nhân dân (người dân, tổ chức). Các yêu cầu của nhân dân đề nghị giải quyết rất đa dạng, theo nhiều lĩnh vực với tính chất phức tạp riêng, cũng đòi hỏi việc chứng thực phải tuân thủ những trình tự, TTHC theo quy định của pháp luật. Vấn đề đáng chú là các TTHC về chứng thực không phải do UBND cấp xã đặt ra, mà do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên ban hành theo luật định. Và UBND cấp xã chỉ là cơ quan thực hiện TTHC khi giải quyết các yêu cầu đa dạng, phức tạp về chứng thực của nhân dân theo các nguyên tắc chung được luật định. Cải cách TTHC về chứng thực tại UBND cấp xã gắn với việc rà soát, đánh giá để đề xuất loại bỏ những thủ tục bất hợp lý, không cần thiết hoặc đề xuất việc ban hành các TTHC mới phù hợp với thực tiễn giải quyết các yêu cầu của cá nhân, tổ chức trong hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương UBND cấp xã chủ động rà soát trong quá trình thực hiện hoặc tổ chức thu thập ý kiến góp ý, phản ánh từ phía nhân dân trong quá trình tham gia giải quyết để kiến nghị, đề xuất việc điều chỉnh, bổ sung, thay thế những thủ tục không còn phù hợp.
1.1.2.3. Vai trò của chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
- Tạo điều kiện, hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật:
Trong cuộc sống, người dân địa phương cần có các phương tiện thiết yếu như: lương thực, thực phẩm, các vật dụng, nhà ở…, xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người (cả về vật chất và tinh thần) ngày càng được nâng cao và trở nên phong phú, đa dạng. Để đáp ứng các yêu cầu này, con người phải tham gia nhiều các mối quan hệ xã hội thông qua các hoạt động như: học tập, làm việc, thực hiện các giao dịch… Hiến pháp của tất cả các quốc gia, trong đó có Hiến pháp Việt Nam đều ghi nhận những quyền cơ bản của con người, đó là: quyền có nơi ở hợp pháp; quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất; quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế; quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ học tập, quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ…, xã hội càng văn minh, quyền của con người càng được tôn trọng. Ứng với mỗi quyền của con người, để thực hiện được nó đòi hỏi con người cần phải thực hiện theo một thủ tục hành hành chính. Và pháp luật chứng thực chính là phương tiện hỗ trợ đắc lực để con người thực hiện các thủ tục hành chính này. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Thứ nhất, chứng thực bản sao từ bản chính là xác nhận tính chính xác, tính có thực của giấy tờ, văn bản được chứng thực bản sao từ bản chính. Trên thực tế, những giấy tờ, văn bản đã được chứng thực bản sao từ bản chính luôn được sử dụng để phục vụ việc thực hiện một mục đích nào đó cụ thể (Ví dụ: bản sao giấy tờ, văn bản được chứng thực từ bản chính để thực hiện các thủ tục hành chính như: nộp hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng; hợp đồng, giao dịch được chứng thực để làm thủ tục sang tên quyền sở hữu tài sản…); nói cách khác, hoạt động chứng thực chứng thực bản sao từ bản chính đã cung cấp dịch vụ nhằm tạo lập giá trị pháp lý cho các giấy tờ, văn bản phục vụ cho cá nhân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính tiếp theo. Chính vì vậy, hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khi thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực đã căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. Như vậy, thông qua việc ký, đóng dấu chứng thực, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực đã bảo đảm bản sao là đúng với bản chính. Chính vì vậy, các cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính đã “yên tâm” tiếp nhận bản sao có chứng thực mà không cần phải yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu, kiểm tra, qua đó giảm thời gian đi lại của người dân (không phải đến nộp hồ sơ trực tiếp) mà vẫn đảm bảo độ chính xác, tin cậy của giấy tờ, văn bản, đặc biệt là đối với những trường hợp nộp hồ sơ qua đường bưu điện; bên cạnh đó người dân cũng không phải lo lắng vì thất lạc bản chính.
Thứ hai, chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Chứng thực chữ ký cũng chính là việc công nhận về ý chí của người lập và ký giấy tờ, văn bản. Do đó, tiện ích của loại giấy tờ này khi sử dụng bảo đảm người ký giấy tờ, văn bản không phải đi lại xa xôi mà vẫn thể hiện được ý chí của họ. Chữ ký trong những giấy tờ, văn bản đã được chứng thực sẽ được sử dụng để chứng minh ý chí của người ký trong giấy tờ, văn bản và dùng để thực hiện các thủ tục hành chính liên quan không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài theo như cầu của người sử dụng. Chính vì vậy, việc chứng thực chữ ký đã tạo ra công cụ hỗ trợ hiệu quả khi phải thực hiện thủ tục hành chính tại những vùng cách xa về khoảng cách địa lý hoặc trong những trường hợp người ký muốn ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện các quyền hoặc nghĩa vụ liên quan.
Hoạt động chứng thực đã đảm bảo chuyển tải từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác một cách chính xác, đầy đủ, tạo độ tin cậy pháp lý cho văn bản, giấy tờ được dịch. Qua đó, các cơ quan, tổ chức tiếp nhận giấy tờ, văn bản đã được dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại và đã được chứng thực chữ ký người dịch có thể yên tâm, tin tưởng vào nội dung giấy tờ, văn bản được dịch. Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới thì nhu cầu dịch giấy tờ, văn bản ngày càng trở nên phổ biến. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Thứ ba, hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch cung cấp dịch vụ trực tiếp để các chủ thể thực hiện quyền dân sự như: sở hữu tài sản, thừa kế, giao kết hợp đồng, giao dịch, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động…. Khi hợp đồng, giao dịch được chứng thực hợp lệ, các bên sẽ làm các thủ tục tiếp theo để thực hiện quyền của mình hoặc ghi tên mình là quyền sở hữu tài sản phát sinh từ hợp đồng, giao dịch đó. Như vậy, chứng thực hợp đồng, giao dịch là phương thức để người dân, doanh nghiệp thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của họ (như: người muốn thực hiện giao dịch mua, bán nhà nhưng do vướng mắc về khoảng cách địa lý, sức khỏe, thời gian… vẫn có thể thực hiện được thông qua hợp đồng ủy quyền được chứng thực; hay để đáp ứng yêu cầu của người dân trong việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của Luật đất đai…). Như vậy, hoạt động chứng thực là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho người dân trong thực hiện các giao dịch hoặc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến các giao dịch của mình. Hay nói cách khác, hoạt động chứng thực là phương tiện để thông qua đó người dân thỏa mãn các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Chứng thực tại UBND cấp xã là công cụ để UBND cấp xã quản lý xã hội, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, hạn chế tranh chấp phát sinh:
Văn bản chứng thực là có giá trị pháp lý đáng tin cậy hơn bất kỳ loại giấy tờ nào khác, bởi khi cá nhân xuất trình văn bản chứng thực thì các cá nhân, tổ chức khác không có quyền được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc phủ nhận tính xác thực của văn bản. Bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị pháp lý sử dụng thay thế cho bản chính trong các giao dịch. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Những chứng cứ này giúp cho người dân bảo vệ được quyền lợi của mình khi xảy ra tranh chấp trong giao lưu dân sự, kinh tế thương mại. Nó là căn cứ, là cơ sở pháp lý khi vụ việc được đưa ra xét xử để bác bỏ lập luận của đối phương. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Có thể nói hoạt động chứng thực đã và đang tác động mạnh mẽ tới đời sống nhân dân địa phương, đảm bảo anh toàn pháp lý cho các quan hệ, giao dịch dân sự, kinh tế, hành chính. Tạo hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch làm hạn chế rủi ro đến với người dân trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, trong khi thực hiện các thủ tục hành chính. Cũng qua việc chứng thực làm giảm giấy tờ giả mạo nhằm lẩn tránh pháp luật giúp nhân dân yên tâm hơn trong các giao dịch của mình. Khi xã hội càng phát triển nhu cầu giao dịch càng gia tăng nhất là ở các khu đô thị và thành phố. Kéo theo là nhu cầu công chúng phát triển vì thế cần thiết phải tăng cường hệ thống pháp luật công chứng, chứng thực để bảo đảm an toàn pháp lý khi công dân thực hiện các thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch.
- Chứng thực tại UBND cấp xã góp phần thúc đẩy nền kinh tế – xã hội tại địa phương phát triển:
Chứng thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân cũng như khuyến khích công dân, tổ chức thực hiện cách giao dịch, hợp đồng, các thủ tục hành chính…theo đúng quy định của pháp luật. Các giao dịch, hợp đồng, các thủ tục hành chính phát triển và có sự đảm bảo từ Nhà nước sẽ thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của đất nước phát triển. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chủ trương của Đảng ta là đối mới và phát triển nên kinh tế đất nước gắn chặt với hợp tác và hội nhập. Hoạt động chứng thực được thực hiện có hiệu quả là tiền đề cho sự giao lưu dân sự, kinh tế và thương mại tại đại phương, cho sự phát triển của các hợp đồng, giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại với các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Với đòi hỏi ngày càng cao của việc phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, việc đổi mới hoạt động chứng thực nói chung và chứng thực thuộc thẩm quyền của UBND xã nói riêng sao cho thuận tiện nhanh chóng không phiền hà, phát huy được vai trò tác dụng của hoạt động công chứng trong việc phục vụ đắc lực các hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam là nhu cầu bức thiết.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của Pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
1.2.1. Khái niệm pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong đảm bảo sự ổn định và phát triển năng động của xã hội. Trong điều kiện đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định vai trò hàng đầu của pháp luật trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Theo khoa học pháp lý, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Khi đặt ra các quy phạm pháp luật, nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng lợi ích của nhân dân và sự tiến bộ xã hội.
Từ khái niệm về pháp luật và khái niệm về chứng thực tại UBND cấp xã đã phân tích ở phía trên, đề tài quan niệm pháp luật về chứng thực như sau:
Pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã là tổng thể những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để tổ chức, cá nhân sử dụng trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Một là, các quy định của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã là bộ phận của pháp luật về chứng thực:
Pháp luật về chứng thực là tổng thể những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để tổ chức, cá nhân sử dụng trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính. Các chủ thể có thẩm quyền thực hiện pháp luật về chứng thực khá đa dạng ở các cấp, các ngành như Phòng Tư Pháp cấp huyện, UBND cấp xã,Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài… Mỗi chủ thể có thẩm quyền chứng thực đối với những nội dung, lĩnh vực nhất định, gắn với các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành. Như vậy, UBND cấp xã là một chủ thể chính của hoạt động chứng thực và được pháp luật trao cho những thẩm quyền phù hợp với đăc thù của UBND cấp xã, pháp luật cũng quy định chi tiết trình tự, thủ tục để UBND cấp xã thực hiện các thẩm quyền được giao. Do đó, pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã là một bộ phận của pháp luật về chứng thực.
Hai là, các quy định của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã tồn tại dưới hình thức một hệ thống, chủ yếu bao gồm “các quy định luật thủ tục” và một số “các quy định luật nội dung”điều chỉnh trực tiếp các hoạt động chứng thực của UBND cấp xã do các cơ quan nhà nước ban hành. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Như đã nói trong phần đặc điểm của hoạt động chứng thực, đây là hoạt động giải quyết thủ tục hành chính cho người dân nên hệ thống các quy định đa phần là về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động chứng thực cụ thể. Nội dung cụ thể của pháp luật về chứng thực bao gồm:
Về các quy định luật thủ tục: Các quy định pháp luật thủ tục về chứng thực là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định thủ tục, trình tự tổ chức triển khai, thực hiện các hoạt động chứng thực của UBND xã. Về nội dung, luật thủ tục gồm các quy định về trình tự tiến hành các công việc, biện pháp nghiệp vụ làm thủ tục chứng thực, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động chứng thực; về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của UBND cấp xã, đối tượng quản lý trong việc thực hiện các thủ tục về chứng thực; về nguyên tắc, hệ thống, tổ chức, bộ máy hoạt động trong thực hiện hoạt động chứng thực; về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước liên quan trong hoạt động tư pháp; về chế độ, thủ tục thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về chứng thực; về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân tổ chức khi tham gia hoạt động chứng thực cụ thể; về các loại chứng thực; về thẩm quyền xử lư, các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về chứng thực, trình tự, thủ tục xử lý, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo vi phạm các quy định pháp luật về chứng thực.
Về các quy định luật nội dung: Các quy định này là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền chứng thực và quản lý nhà nước về chứng thực của UBND cấp xã, về chế độ, chính sách; phí lệ phí trong hoạt động chứng thực, về trách nhiệm QLNN trong hoạt động chứng thực.
Ba là, pháp luật chứng thực chủ yếu là pháp luật về hình thức (pháp luật về thủ tục) và có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật về nội dung thuộc các chuyên ngành khác: Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Pháp luật về chứng thực là pháp luật về thủ tục, do đó phụ thuộc sâu sắc vào pháp luật nội dung thuộc các chuyên ngành khác như pháp luật về đất đai, nhà ở… và phải bám sát các quy định mang tính “nội dung” của pháp luật thuộc các chuyên ngành khác. Nếu pháp luật chứng thực không bám sát nội dung của pháp luật chuyên ngành, sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và kết quả của hoạt động chứng thực là văn bản chứng thực có thể bị vô hiệu. Ví dụ: Pháp luật về Đất đai (pháp luật nội dung) quy định người có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà trên đó có ghi còn đang nợ tiền sử dụng đất thì không được thực hiện giao dịch, vì vậy nếu người thực hiện chứng thực vẫn chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với trường hợp này thì hợp đồng, giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu.
Tuy nhiên, cũng do pháp luật chứng thực có mối quan hệ khăng khít như vậy với pháp luật thuộc các chuyên ngành khác nên dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa pháp luật chứng thực với các chuyên ngành pháp luật này nếu không có sự phân định rạch ròi.Vậy đâu là ranh giới giữa pháp luật chứng thực và pháp luật có liên quan? Đây là vấn đề mà những người làm công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể cần hết sức lưu ý để tránh dẫn tới chồng chéo, mâu thuẫn, khó áp dụng. Các bộ, ngành khi xây dựng các văn bản cần lưu ý tới điều này để không vô tình hoặc cố ý quy định quá sâu về nghiệp vụ chứng thực, lấn sân và gây khó khăn cho hoạt động chứng thực. Vì vậy, căn cứ vào đặc điểm này của pháp luật về chứng thực, một đòi hỏi đặt ra là phải tránh tình trạng chồng chéo, các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc các chuyên ngành pháp luật nội dung có liên quan cần lưu ý chỉ nên dừng lại ở quy định: “… phải có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực”. Còn công chứng, chứng thực theo trình tự, thủ tục nào, cơ quan nào có thẩm quyền công chứng, chứng thực thì sẽ do pháp luật về công chứng, chứng thực quy định.
Bốn là, pháp luật chứng thực là “cầu nối”, là điểm giao thoa trong hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật Việt Nam rất phong phú, đa dạng, có thể nói lĩnh vực nào của cuộc sống cũng được điều chỉnh bằng luật pháp: từ đất đai, nhà ở, hợp đồng, giao dịch, tuyển dụng, tuyển sinh… Do đó, có thể nói, pháp luật chứng thực có mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các văn bản trong hệ thống pháp luật, đặc biệt pháp luật về về dân sự, đất đai, nhà ở, hôn nhân và gia đình. Chính vì vậy, nhiều người làm công tác tư pháp cho rằng lĩnh vực chứng thực là một lĩnh vực “khó”, đòi hỏi người làm chứng thực phải có phạm vi hiểu biết rộng đối với mọi lĩnh vực. Bởi vì, chỉ căn cứ vào riêng bản thân quy định của pháp luật về chứng thực thì hầu hết trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được một việc chứng thực. Bởi vì, việc chứng thực luôn được đặt nằm trong một “quy trình của thủ tục hành chính” để thực hiện quyền của người dân. Hiểu một cách nôm na là việc chứng thực luôn để nhằm thực hiện một việc tiếp theo cụ thể nào đó: đơn cử như chứng thực bản sao bằng tốt nghiệp để xin việc, chứng thực chữ ký người dịch để nộp hồ sơ kết hôn, xin việc, chứng thực hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền để nhờ người khác giải quyết một việc cụ thể… hoặc chứng thực hợp đồng, giao dịch để hoàn thành quy trình chuyển quyền sở hữu tài sản. Vì vậy, có thể nói trong đời sống dân sự có bao nhiêu lĩnh vực con người phải tiếp cận tới thì gần như có bấy nhiêu lĩnh vực hoạt động chứng thực phải tiếp cận tới. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Việc thực hiện các thủ tục hành chính, đặc biệt việc thực hiện các giao dịch về dân sự, đất đai, nhà ở… cần tới công cụ không thể thiếu – đó là lòng tin – là sự xác nhận. Vì vậy, pháp luật chứng thực là pháp luật tạo ra “lòng tin”. Sự tin tưởng lẫn nhau và không lừa dối: đó là sự cần thiết, điều kiện không thể thiếu để tạo lập các giao dịch hoặc giải quyết các thủ tục. Vì vậy, pháp luật chứng thực chính là công cụ pháp lý để đảm bảo lòng tin. Có thể nói, đây là một công cụ rất cần thiết và hết sức quan trọng. Công cụ này một mặt đảm bảo được lòng tin, ngăn ngừa sự lừa dối giữa các bên, mặt khác phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, góp phần ổn định xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng có những công cụ hiện đại, khoa học để tạo ra lòng tin trong thực hiện các giao dịch. Vì vậy, pháp luật chứng thực cũng đang từng bước chuyển mình để tạo ra những công cụ hữu ích hơn, thuận tiện hơn. Những phương tiện hiện đại như chứng thực điện tử, chứng thực chữ ký điện tử (tuy những hoạt động này hiện nay chưa thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật chứng thực mà chúng ta đang đề cập đến) cũng bắt đầu được nghiên cứu, khai thác và sử dụng, ngày càng làm phong phú hơn hoạt động chứng thực nói chung – hoạt động tạo ra lòng tin.
Chính vì vậy, pháp luật chứng thực đã trở thành công cụ rất quan trọng trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật nói chung. Vì vậy, yêu cầu đối với công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng thực cũng rất cao: đó là đòi hỏi văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng thực phải đưa ra được những quy định vừa đảm bảo phù hợp với bản chất của hoạt động chứng thực, vừa đảm bảo phù hợp với các chuyên ngành pháp luật khác có liên quan để tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo.
1.3. Nội dung pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Như đã phân tích ở phía trên, pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã chủ yếu bao gồm các “các quy định luật thủ tục” và một số ít “các quy định luật nội dung”điều chỉnh trực tiếp hoạt động chứng thực. . Trong phần này, đề tài sẽ đi sâu hơn để tìm hiểu nội dung pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã theo các nhóm quy định cụ thể hơn của cả hai nhóm luật thủ tục và luật nội dung: Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Một là,nhóm các quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã:
Nhóm quy phạm quy định về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực tại UBND cấp xã là nhóm nội dung quan trọng đầu tiên của pháp luật về chứng thực tại UBND xã vì nội dung quy định này sẽ xác định UBND xã sẽ được chứng thực những loại văn bản, giấy tờ, lĩnh vực nào và gắn với phạm vi thẩm quyền đó thì trách nhiệm của UBND cấp xã cụ thể là gì. Nội dung pháp luật quy định về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực của UBND xã nằm trong quy định chung về thẩm quyền, trách nhiệm chứng thực của tất cả các cấp, cơ quan trong đó UBND xã là một cấp có thẩm quyền nên nội dung quy định này sẽ phân định rõ thẩm quyền giữa UBND xã với các cấp có thẩm quyền còn lại. Thông thường pháp luật thường trao cho UBND xã thẩm quyền chứng thực các giấy tờ, văn bản, nội dung đơn giản hơn so với các cấp cao hơn và đòi hỏi nghiệp vụ ở mức độ thấp hơn như chứng thực bản sao từ bản chính, chữ ký, hợp đồng giao dịch về động sản, đất đai, nhà ở của người dân, di chúc, thỏa thuận phân chia tài sản.
Hai là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của UBND cấp xã và các bên liên quan trong thực hiện chứng thực:
Gắn với thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã, pháp luật sẽ quy định các các quyền và nghĩa vụ cụ thể của UBND cấp xã trong việc thực hiện hoạt động chứng thực. Các quyền và nghĩa vụ cụ thể này là căn cứ pháp lý để UBND xã biết được những việc phải làm, được làm, không được làm khi tiến hành chứng thực cho công dân như: phải bảo đảm tính trung thực, chính xác, khách quan khi thực hiện chứng thực, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chứng thực của mình yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin cần thiết để xác minh tính hợp pháp của giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực, phải hướng dẫn người yêu cầu chứng thực về những nội dung họ chưa hiểu hết hoặc bổ sung hồ sơ, tài liệu nếu chưa đầy đủ hoặc hướng dẫn nộp hồ sơ đến đúng cơ quan có thẩm quyền chứng thực nếu nộp hồ sơ không đúng cơ quan có thẩm quyền, phải giải thích cho người dân nếu khi hồ sơ chứng thực không được chấp nhận, được lập biên bản tạm giữ, chuyển cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực được cấp sai thẩm quyền, giả mạo, được từ chối chứng thực trong những trường hợp cụ thể, không được thực hiện những việc tạo ra xung đột lợi ích như chứng thực hợp đồng, giao dịch, chứng thực chữ ký có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi… Các quyền và nghĩa vụ phải được quy định song hành và hài hòa với nhau để đảm bảo quyền luôn gắn với nghĩa vụ cụ thể để không lạm quyền và nghĩa vụ được đi kèm với quyền để đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ được giao.
Pháp luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực như quyền lựa chọn địa điểm chứng thực, quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức từ chối chứng thực giải thích lý do, quyền khiếu nại, nghĩa vụ chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực, nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền chứng thực theo đúng quy định… Các quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực cũng là đảm bảo quan trọng để các quyền và nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền chứng thực có thể thực thi trên thực tế. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Ba là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thực hiện chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã:
Đây là nội dung cơ bản và cũng là nội dung chiếm dung lượng nhiều nhất của pháp luật về chứng thực nói chung và chứng thực thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã nói riêng. Nội dung quy định về trình tự, thủ tục là tổng thể các quy định xác định các bước, trình tự, cách thức tiến hành các công việc, biện pháp nghiệp vụ làm thủ tục chứng thực từ khi tiếp nhận cho đến khi trả kết quả cho người dân tùy vào loại giấy tờ, văn bản chứng thực, về các giấy tờ, văn bản để người yêu cầu thực hiện yêu cầu chứng thực và cơ quan có thẩm quyền tiến hành chứng thực, điều kiện của các giấy tờ, văn bản được chứng thực, thời hạn tiến hành trong bao nhiêu ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ, gia hạn thời gian chứng thực trong các trường hợp cụ thể, việc lưu trữ văn bản, giấy tờ khi chứng thực của cơ quan thực hiện chứng thực…
Nội dung quy định về trình tự, thủ tục tiến hành chứng thực thường được phân chia theo từng loại hình chứng thực cụ thể vì mỗi loại hình chứng thực cụ thể lại đòi hỏi những giấy tờ, văn bản, hồ sơ, trình tự, biện pháp nghiệp vụ tiến hành tương đối khác nhau. Trong đó, thủ tục cấp bản sao từ sổ gốc và thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính thường đơn giản hơn các thủ tục chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Bốn là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm quản lý nhà nước và xử lý vi phạm trong hoạt động chứng thực tại UBND cấp xã:
Nhóm nội dung quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về chứng thực và xử lý vi phạm trong hoạt động chứng thực của UBND xã là đảm bảo quan trọng để hoạt động chứng thực được thực hiện theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền. Liên quan đến hoạt động chứng thực của UBND cấp xã, pháp luật có những quy định trực tiếp về trách nhiệm của UBND cấp xã trong quản lý nhà nước về chứng thực và các quy định về trách nhiệm của các chủ thể khác trong quản lý nhà nước về chứng thực tại UBND cấp xã. Điều đó có nghĩa là UBND xã vừa là chủ thể của quản lý và vừa là đối tượng bị quản lý bởi các chủ thể khác. Pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã phải quy định đầy đủ cả hai khía cạnh này mới đảm bảo cho việc UBND xã vừa có thực hiện trách nhiệm quản lý của mình, lại vừa chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan khác trong việc thực hiện trách nhiệm chứng thực và quản lý nhà nước về chứng thực của mình. Trách nhiệm quản lý nhà nước của UBND xã thường bao gồm các nội dung như tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hàng quy định của pháp luật về chứng thực, lưu trữ, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực, định kỳ tổng hợp, báo cáo UBND cấp huyện. Các quy định về xử phạt thường bao gồm hành vi bị xử lý và hình thức xử lý tương ứng.
Năm là, nhóm quy phạm pháp luật quy định về chế độ chính sách, phí và lệ phí, các điều kiện đảm bảo khác đối với cán bộ làm công tác chứng thực tại UBND cấp xã: Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Pháp luật về chứng thực quy định việc chứng thực có phải là hoạt động được phép thu lệ phí từ người yêu cầu chứng thực hay không và nếu thu thì mức thu phí, lệ phí sẽ được pháp luật quy định cụ thể và có thể thay đổi cho phù hợp với mức độ phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn, thường mức thu sẽ được quy định bởi văn bản của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để phù hợp với thực tế của từng địa phương. Chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác chứng thực ở cấp xã được quy định trong các văn bản về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chứng cấp xã nói chung.
1.4. Vai trò của pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã
Pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như người dân. Các vai trò cơ bản bao gồm:
Một là, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng thực và quản lý hoạt động chứng thực thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã:
Căn cứ vào các quy định của pháp luật về chứng thực, cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu chứng thực hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình, các thủ tục cần thiết mà mình phải thực hiện khi có yêu cầu chứng thực; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chứng thực có căn cứ pháp lý rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm, cách thức, thủ tục để thực hiện hoạt động chứng thực, cơ quan có thẩm quyền quản lý có căn cứ pháp lý để xác định thẩm quyền, nội dung quản lý và tiến hành hoạt động quản lý, xem xét, xử lý các vi phạm xung quanh hoạt động chứng thực. Qua đó, hoạt động chứng thực được thực hiện một cách thống nhất trong phạm vi cả nước cho đến tận cấp xã. Thông qua hoạt động quản lý nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng nắm bắt được các nhu cầu về việc sử dụng bản sao có chứng thực, giấy tờ, văn bản có chứng thực chữ ký, các mong muốn của người dân để đưa ra những sửa đổi, bổ sung phù hợp để điều chỉnh hoạt động này đúng với yêu cầu của quản lý và của người dân. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, tổ chức trong quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính:
Hoạt động chứng thực của UBND cấp xã cung cấp dịch vụ gián tiếp để các chủ thể thực hiện quyền của Pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã giúp đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức trong các quan hệ, giao dịch. Do bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Văn bản chứng thực là có giá trị pháp lý đáng tin cậy hơn bất kỳ loại giấy tờ nào khác, bởi khi cá nhân xuất trình văn bản chứng thực thì các cá nhân, tổ chức khác không có quyền được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc phủ nhận tính xác thực của văn bản này giúp cho người dân bảo vệ được quyền lợi của mình khi xảy ra tranh chấp trong giao lưu dân sự, kinh tế thương mại. Nó là căn cứ, là cơ sở pháp lý khi vụ việc được đưa ra xét xử để bác bỏ lập luận của đối phương.
Có thể nói hoạt động chứng thực đã và đang tác động mạnh mẽ tới đời sống nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Tạo hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch làm hạn chế rủi ro đến với người dân trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, trong khi thực hiện các thủ tục hành chính. Cũng qua việc chứng thực làm giảm giấy tờ giả mạo nhằm lẩn tránh pháp luật giúp nhân dân yên tâm hơn trong các giao dịch của mình. Khi xã hội càng phát triển nhu cầu giao dịch càng gia tăng nhất là ở các khu đô thị và thành phố. Kéo theo là nhu cầu công chúng phát triển vì thế cần thiết phải tăng cường hệ thống pháp luật công chứng, chứng thực để bảo đảm an toàn pháp lý khi công dân thực hiện các thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch. Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia hoạt động chứng thực pháp luật về chứng thực còn góp phần nâng cao dân trí về mặt pháp lý của công dân, mở rộng dân chủ, để cao tinh thần trách nhiệm công dân đối với nhà nước và xã hội. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Ba là, tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan hành chính, cá nhân có thẩm quyền trong việc thực hiện hoạt động chứng thực:
Các quy định về hành vi không được làm, về chế tài xử lý vi phạm, khiếu nại tố cáo, kiểm tra…. tạo cơ chế ràng buộc về pháp lý để các cơ quan hành chính, cán bộ, công chức thực hiện nghiêm túc các hoạt động về chứng thực, giúp các vi phạm được xử lý nghiêm minh, tạo ra tính răn đe trong việc thực hiện nghiêm túc hoạt động này. Các nghĩa vụ, việc không được làm theo quy định của pháp luật tạo khuôn khổ hành vi cho người thực hiện chứng thực biết được những hành vi nào phải làm như phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nhiệm vụ của mình, phải hướng dẫn người có yêu cầu chứng thực…, hay những hành vi nào là trái pháp luật, tạo ra xung đột lợi ích để tránh phạm phải như chứng thực hợp đồng, chữ ký liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình và những người thân thích… Các chế tài xử lý vi phạm sẽ là căn cứ để cán bộ, công chức biết được hậu quả sẽ phải gánh chịu nếu như thực hiện không đúng các quy định của pháp luật, chế tài phù hợp với mức độ vi phạm sẽ có tính ngăn ngừa cao đối với hành vi vi phạm, chế tài không phù hợp theo hướng quá nhẹ sẽ không có tính ngăn ngừa, theo hướng quá nặng sẽ tạo ra tâm lý lo lắng cho cán bộ, công chức trong thực hiện hoạt động chứng thực. Chính vì vậy, vai trò này cũng đặt ra đòi hỏi các quy định về vấn đề này phải mang tính phù hợp, khả thi.
Bốn là, thúc đẩy quá trình cải cách thủ tục hành chính, góp phần xây dựng nền hành chính kiến tạo và phục vụ: chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có
Như vậy, xét về mục đích chung, thì thông qua hoạt động chi phí đi lại, giảm rủi ro thất lạc bản chính giấy tờ, văn bản của người dân, giảm những thủ tục có liên quan đ Có thể nói, hoạt động chứng thực chứng thực nói chung, chứng thực của UBND cấp xã nói riêng không chỉ mang tính chất dịch vụ công, phục vụ lợi ích thiết thự chính phục vụ, hiện đại.
1.5. Những yếu tố tác động đến pháp luật về chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Một là, yếu tố nhận thức:
Mức độ hoàn thiện của pháp luật về chứng thực phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền soạn thảo và ban hành văn bản. Nếu không có sự coi trọng đối với hoạt động chứng thực thì việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về chứng thực nói chung và chứng thực tại UBND cấp xã nói riêng sẽ không được chú trọng. Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động này trong việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân, trong cải cách hành chính, thúc đẩy ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, nhận thức về đặc thù và vai trò của UBND cấp xã trong việc thực hiện hoạt động này sẽ khiến cho cơ quan nhà nước thẩm quyền nghiên cứu, tìm hiểu những nhu cầu, mong muốn của người dân địa phương đối với hoạt động chứng thực, các yêu cầu mới đặt ra và khả năng đáp ứng của nhà nước, những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn của các quy định hiện hành để không ngừng sửa đổi, bổ sung, tiến tới hoàn thiện các pháp luật về chứng thực để các cơ quan nhà nước có cơ sở pháp lý vững chắc, khoa học trong thực hiện và người dân thuận tiện trong thực hiện, thỏa mãn được các nhu cầu chính đáng của mình. Chính vì vậy, nhận thức chính là yếu tố quan trọng đầu tiên tác động đến pháp luật về chứng thực nói chung và chứng thực đối với UBND cấp xã nói riêng.
Hai là, trình độ lập pháp:
Tiếp nối yếu tố về nhận thức, trình độ lập pháp là yếu tố chi phối trực tiếp đến chất lượng pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã. Bởi vì ngay cả khi nhận thức được về tầm quan trọng của công tác này, về những vướng mắc đang đặt ra trong thực hiện, về khả năng thực tế thực hiện hoạt động này của UBND cấp xã thì chất lượng của pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã cũng không thể tốt nếu trình độ hoạch định chính sách, xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn hạn chế. Yếu tố này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay, trình độ lập pháp của các cơ quan còn có những hạn chế dẫn tới việc các quy định ban hành ra còn thiếu khoa học, khả thi, phù hợp với thực tế, nguồn lực đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật cũng còn hạn hẹp. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Ba là, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của UBND cấp xã:
Năng lực tổ chức thực hiện của các chủ thể có thẩm quyền trong đó có UBND cấp xã chủ yếu bao gồm năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức thực hiện chứng thực, nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật có thể huy động để trang bị cho công tác chứng thực tại UBND cấp xã. Trước hết, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của UBND cấp xã tác động đến phương án lựa chọn của các nhà làm luật khi xây dựng các quy phạm pháp luật về chứng thực liên quan đến thẩm quyền của UBND cấp xã. Điều này được thể hiện qua việc, các nhà làm luật phải căn cứ vào năng lực của cán bộ, công chức, vào nguồn lực tài chính, trang thiết bị có thể được huy động để thiết kế các quy phạm cho phù hợp và đảm bảo tính khả thi, khả năng thực hiện của cấp xã, tránh đưa ra các quy phạm đòi hỏi kỹ thuật nghiệp vụ quá phức tạp vượt quá năng lực của cán bộ, công chức cấp xã, vượt quá điều kiện về trang thiết bị mà ngân sách có thể trang bị, đơn cử như không thể đưa ra quy định về quy trình chứng thực ứng dụng công nghệ thông tin quá hiện đại trong khi trình độ của cán bộ, công chức cấp xã chưa phù hợp và ngân sách còn hạn hẹp không thể mua sắm các phầm mềm và trang thiết bị quá đắt tiền, cũng không thể đòi hòi cấp xã có thể chứng thực đối với những văn bản, giấy tờ phức tạp đòi hỏi khả năng ngoại ngữ cao hoặc hiểu biết pháp luật chuyên ngành phức tạp. Ngoài ra, năng lực thực thi pháp luật về chứng thực của UBND cấp xã còn tác động đến pháp luật về chứng thực ở khía cạnh, thông qua quá trình thực hiện, UBND cấp xã sẽ phát hiện những vướng mắc mà quy định của pháp luật gây ra trong thực tế triển khai để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung để nâng cao chất lượng các quy phạm pháp luật về nội dung này.
Bốn là, điều kiện kinh tế, xã hội, năng lực thực thi pháp luật chứng thực tại UBND xã của người dân:
Điều kiện kinh tế, xã hội thể hiện ở mặt bằng chung về thu nhập, trình độ dân trí của người dân, các giao dịch dân sự, kinh tế mà người dân thường thực hiện. Điều này chi phối tới các loại hình chứng thực cơ bản mà Nhà nước cần phải ban hành quy định pháp luật để thực hiện và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân trong việc thực hiện các giao dịch này và cũng là để nhà nước quản lý kinh tế – xã hội nhằm tạo ra sự ổn định, hỗ trợ cho sự phát triển. Điều kiện kinh tế – xã hội cũng chi phối tới năng lực thực thi pháp luật của người dân có yêu cầu chứng thực bao gồm hiểu biết pháp luật về chứng thực, khả năng thực hiện các thủ tục về chứng thực, mức phí có thể chi trả trong việc thực hiện các thủ tục chứng thực… Trước hết, các nhà làm luật cũng phải căn cứ vào trình độ dân trí của người dân để quy định về quy trình sao cho phù hợp với mặt bằng chung, không thể quy định các thủ tục chỉ phù hợp với bộ phận có trình độ dân trí cao mà không phù hợp với số đông, đơn cử như ngay lập tức không thể thay thế phương thức sử dụng văn bản giấy truyền thống bằng phương thức trực tuyến trên toàn quốc trong khi một bộ phận không nhỏ người dân chưa thể sử dụng mà chỉ có thể áp dụng từng bước và cho phép lựa chọn một trong hai phương thức và áp dụng thí điểm ở những khu vực có trình độ dân trí phù hợp.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Sau khi phân tích khái niệm, đặc điểm của chứng thực và chứng thực tại UBND cấp xã, Chương 1 đã đưa ra khái niệm pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã là tổng thể những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh hoạt động của UBND cấp xã trong việc xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để tổ chức, cá nhân sử dụng trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính. Nó là một bộ phận của pháp luật về chứng thực, tồn tại dưới hình thức một hệ thống và có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật về nội dung thuộc các chuyên ngành khác. Nội dung bao gồm các nhóm quy định về: thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực tại UBND cấp xã, quyền và nghĩa vụ của UBND cấp xã, trách nhiệm quản lý nhà nước, xử lý vi phạm trong hoạt động chứng thực, chế độ chính sách, phí và lệ phí, các điều kiện đảm bảo khác đối với cán bộ làm công tác chứng thực tại UBND cấp xã. Pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã có vai trò quan trọng trong tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng thực và quản lý hoạt động chứng thực của UBND cấp xã, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, tổ chức trong quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính, đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của CQHC, cá nhân có thẩm quyền, thúc đẩy cải cách TTHC, xây dựng nền hành chính kiến tạo, phục vụ. Các yếu tố tác động đến pháp luật về chứng thực tại UBND cấp xã gồm: nhận thức, trình độ lập pháp, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật,điều kiện kinh tế, xã hội, năng lực thực thi pháp luật chứng thực tại UBND cấp xã của người dân. Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật về chứng thực tại ủy ban xã
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã […]