Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật và luật tục: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được tăng cường và hoàn thiện, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bên cạnh hệ thống pháp luật đang tồn tại, ở các buôn, bản, làng dân tộc ít người, luật tục vẫn tồn tại và là công cụ phổ biến để điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng.

Thực tế cho thấy, đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn sống và điều chỉnh hành vi bằng luật tục của dân tộc mình và ít quan tâm đến pháp luật của Nhà nước. Do vậy, đã có không ít những phong tục, tập quán lạc hậu đã cản trở sự phát triển lành mạnh về mọi mặt của đồng bào các dân tộc thiểu số. Mặt khác, có những phong tục, tập quán tiến bộ là kết tinh từ lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số lại chưa được pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận. Vì vậy, pháp luật đi vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số còn chưa hiệu quả, phần nào tạo nên sự cách biệt không đáng có giữa pháp luật và luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta hiện nay, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước ta đã sử dụng nhiều phương pháp để đưa pháp luật vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; bên cạnh đó, vai trò của luật tục cũng được nâng lên. Pháp luật nước ta đã quy định các tiền đề cho việc áp dụng và phát huy những mặt tích cực của tập quán, phong tục truyền thống mà trong đó có luật tục.

Tuy nhiên, về mặt lý luận, mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Việc tồn tại song song trong thực tế hai hệ thống pháp luật Nhà nước và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số đặt ra vấn đề là: xác định vị trí của các hệ thống này, đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Từ đó cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục nhằm chỉ rõ những điểm tương đồng, điểm khác biệt đồng thời nêu những mặt tích cực cũng như những hạn chế của từng yếu tố trong quản lý xã hội, chỉ rõ sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng; đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Từ đó có cơ sở đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc kết hợp mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục sao cho cả pháp luật và luật tục được sử dụng một cách có hiệu quả nhất trong việc quản lý cộng đồng người dân tộc thiểu số trong thời gian tới.

Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật và luật tục: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ luật học.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu

Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài cho thấy đã có một số công trình khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể:

  • Kỷ yếu hội thảo: Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000.
  • Ngô Đức Thịnh và Chu Thái Sơn: Luật tục Êđê (Tập quán pháp ca), Nxb Chính trị quốc gia, năm 1996.
  • GS.TS Hoàng Thị Kim Quế: “Luật tục Tây Nguyên – giá trị văn hóa pháp lý, quản lý cộng đồng và mối quan hệ với pháp luật”, Tạp chí Khoa học (kinh tế – Luật), số 1, năm 2005.
  • Nguyễn Việt Hương: “Giá trị của luật tục từ góc nhìn pháp lý”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 năm 2000.

Ngoài ra còn một số bài đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành khác. Mỗi công trình có cách tiếp cận vấn đề pháp luật và luật tục riêng, nhưng chưa làm rõ mối quan hệ pháp luật và luật tục trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh ở đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta. Do vậy, có thể thấy việc nghiên cứu làm rõ mối quan hệ pháp luật và luật tục về cả mặt lý luận và thực tiễn là yêu cầu cần thiết trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

3.1. Mục đích

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, đi sâu vào phân tích mối quan hệ thực tế giữa pháp luật và luật tục hiện nay ở Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp vận dụng tốt mối quan hệ này trong quá trình quản lý xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ cụ thể là:

  • Xác định được vị trí, vai trò của pháp luật và luật tục đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
  • Phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và luật tục và mối quan hệ giữa chúng đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
  • Nêu được thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong thực tế đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục hiện nay rút ra mặt ưu điểm và hạn chế của mối quan hệ, nêu được nguyên nhân những hạn chế.
  • Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc kết hợp mối quan hệ pháp luật và luật tục trong việc điều chỉnh xã hội hiện nay của đồng bào dân tộc thiểu số.

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Pháp luật và luật tục là một vấn đề tương đối rộng, trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản trong mối quan hệ pháp luật và luật tục ở Việt Nam hiện nay. Và phạm vi nghiên cứu chính là nhóm luật tục của một số đồng bào dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên, tiêu biểu như: dân tộc Êđê, Mnông…

5. Đóng góp khoa học của đề tài Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách khái quát và hệ thống về mối quan hệ pháp luật và luật tục, do đó có những đóng góp mới sau đây:

  • Phân tích rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật và luật tục.
  • Nêu được thực trạng về mối quan hệ pháp luật và luật tục hiện nay.
  • Đề xuất những quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc kết hợp mối quan hệ pháp luật và luật tục trong việc điều chỉnh xã hội hiện nay của đồng bào dân tộc thiểu số.

6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên tư tưởng của triết học Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền và chính sách dân tộc.

Luận văn được thực hiện bởi những phương pháp: phân tích – tổng hợp, lịch sử – cụ thể; kết hợp phương pháp điều tra xã hội học…

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

  • Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật và luật tục.
  • Chương 2: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục ở Việt Nam hiện nay.
  • Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc kết hợp pháp luật và luật tục hiện nay.

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật

1.1.1.1. Khái niệm

Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã lần lượt đưa đến ba lần phân công lao động xã hội lớn, chế độ tư hữu được hình thành và cùng với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau về quyền lợi. Các tập quan, quy tắc xã hội nguyên thủy vẫn còn tồn tại song rất nhiều trong số đó đã không còn đủ sức điều chỉnh các quan hệ xã hội trong giai đoạn xuất hiện những điều kiện mới này.

Trước tình hình đó, xuất hiện nhu cầu bức xúc là phải hình thành một hệ thống quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó. Tuy nhiên, pháp luật ra đời không chỉ thuần túy từ nhu cầu giai trị của nhà nước, không chỉ là công cụ bảo vệ giai cấp thống trị; pháp luật xuất hiện còn để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội của con người, củng cố, xác lập trật tự xã hội, thiếu trật tự đó, không một cộng đồng, một xã hội nào có thể tồn tại được.

Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp; chính vì vậy có không ít những quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên quan điểm truyền thống, căn bản nhất có thể nêu khái niệm pháp luật như sau:

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [17].

Trong lý luận pháp lý hiện đại còn có nhiều đề xuất khác nhau về khái niệm pháp luật theo hướng mở rộng và phù hợp với tư duy pháp lý quốc tế hơn. Mỗi cách tiếp cận pháp luật đều có tính hợp lý nhất định, nhưng dù có được tiếp cận dưới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phương tiện để xác định, thiết lập trật tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được đảm bảo, kiểm soát, bảo vệ bởi quyền lực nhà nước. Điều cốt lõi nhất trong quan niệm về pháp luật đó chính là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước xây dựng, ban hành. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

1.1.1.2. Đặc điểm

Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận biết pháp luật qua những dấu hiệu, đặc điểm riêng có của pháp luật, là tiêu chí để phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác.

Thứ nhất, pháp luật có tình quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp luật trước hết được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi, có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hành vi của các cá nhân, các quá trình xã hội. Không chỉ mình pháp luật có thuộc tính quy phạm, luật tục và các loại công cụ điều chỉnh xã hội khác cũng có tính quy phạm. Nhưng nếu tính quy phạm của luật tục chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc trong từng địa phương, với phạm vi không gian nhỏ hẹp đối với cộng đồng người trong địa phương đó; thì tính quy phạm của pháp luật có đặc trưng riêng là tính phổ biến, bắt buộc chung đối với mọi cá nhân, mọi tổ chức trong xã hội. Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết.

Thuộc tính trên của pháp luật xuất phát từ quyền lực nhà nước, nhà nước là người đại diện chính thức cho toàn xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật.

Thứ hai, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức: Nếu như luật tục được thể hiện dưới dạng văn vần, truyền miệng từ đời này qua đời khác, ngôn ngữ được sử dụng có thể có những hình tượng nghệ thuật, ví von, ẩn dụ thì pháp luật được thể hiện ở dạng thành văn. Các quy phạm pháp luật được thể hiện trong văn bản pháp luật với những tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý khác nhau nhất định. Ngôn ngữ của pháp luật trong các quy phạm pháp luật phải ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp, mang tính phổ thông và dễ hiểu. So với nhiều loại quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính chính xác cao, được thể hiện các quy định của pháp luật về các quyền, nghĩa vụ pháp lý và các chế tài pháp luật. Tính chính xác cao của pháp luật cho phép các chủ thể hiểu rõ những gì được phép làm, những gì phải làm và những gì bị cấm và trên cơ sở đó, các chủ thể có thể lựa chọn hành động, lựa chọn cách thức xử sự, kể cả dự liệu được những biện pháp xử lý khi có hành vi không đúng với yêu cầu của pháp luật. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Thứ ba, pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước. Pháp luật xuất phát từ nhà nước, do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa nhận nên pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các công cụ, biện pháp của nhà nước. Các biện pháp mà nhà nước sử dụng để đảm bảo thực hiện các quy phạm pháp luật rất đa dạng, bao gồm các biện pháp tổ chức cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục…

Các loại quy phạm xã hội khác như luật tục cũng được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp, cách thức nhất định như: sự tự giác thực hiện của cá nhân, sự lên án của dư luận trong cộng đồng xã hội, sự day dứt của lương tâm… nhưng không có sự đảm bảo thực hiện của nhà nước.

Trên đây là ba đặc điểm cơ bản, tiêu biểu của pháp luật. Tuy vậy, nếu xét rộng hơn thì còn phải kể đến một số thuộc tính khác của pháp luật như tính hệ thống, tính ổn định, tính dự báo… Khi nghiêm cứu đặc điểm của pháp luật cần có hướng nhìn một cách tổng thể để phân biệt rõ các quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác.

1.1.1.3. Vị trí, vai trò của pháp luật

Pháp luật ra đời như một tất yếu khách quan, là công cụ bảo vệ giai cấp thống trị, củng cố, xác lập trật tự xã hội. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế hiện nay, pháp luật ngày càng thể hiện vai trò to lớn, là công cụ điều chỉnh hàng đầu các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ hữu hiệu của nhà nước để quản lý xã hội, công cụ hướng dẫn và bảo đảm, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân. Như vậy, pháp luật có vị trí, vai trò to lớn trong đời sống xã hội.

Nhưng cần nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của pháp luật để phát huy hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội của pháp luật là điều không đơn giản. Một trong những biểu hiện sai lệch là quá cường điệu hóa, tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, hoặc hạ thấp vai trò của pháp luật. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, tuy có vai trò là công cụ điều chỉnh hàng đầu các quan hệ xã hội, song pháp luật chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi kết hợp với các công cụ điều chỉnh khác như: Luật tục, đạo đức… Nhận thức, vận dụng đúng đắn, khách quan về vai trò của pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong quản lý xã hộ ở nước ta hiện nay.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của Luật tục Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

1.1.2.1. Khái niệm

Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Êđê, Phạtkđuôi của người MNông, Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Dâytơrônkđi của người Mạ…

Luật tục thuộc phạm trù tập quán. Theo các quan điểm phổ biến hiện nay, luật tục được hiểu là những tập quán, phong tục tồn tại dưới dạng truyền khẩu và thành văn, là hệ thống những quy tắc xử sự điều chỉnh mọi mặt của đời sống cộng đồng. Điều khác biệt giữa luật tục với những tập quán, phong tục bình thường là luật tục không phải là tổng hợp mọi phong tục, tập quán mà chỉ bao gồm những phong tục, tập quán, quy lệ tác động đến những hành vi cá nhân trong cộng đồng hay giữa các cộng đồng với nhau như là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc, gắn với những hình thức xử phạt và khen thưởng.

Luật tục và tập quán là những khuôn mẫu ứng xử được đặt ra trong một cộng đồng. Luật tục và tập quán có những điểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác biệt. Tập quán và luật tục được hình thành từ những thói quen, khuôn mầu ứng xử được mọi người tuân theo. Tập quán được mọi người tự giác tuân theo, theo dư luận điều chỉnh, còn luật tục có tính cưỡng chế cao, gây áp lực bắt buộc mọi cá nhân tuân theo. Luật tục thường bắt nguồn từ tập quán. Trong quá trình tuyển chọn một số tập quán có tính hướng đích cao, đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho lợi ích của một cộng đồng sẽ trở thành luật tục.

Luật tục vừa chứa đựng các quy định – các điều khoản về luật nội dung và luật tố tụng – luật hình thức theo ngôn ngữ pháp lý hiện đại. Trong quá trình tuyển chọn, một số tập quán được coi là cần thiết cho cộng đồng, ai cũng phải tuân theo nên nó trở thành luật tục. Như vậy, luật tục chính là những hành động, những khuôn mẫu ứng xử đã tuân theo những chuẩn mực về luân lý, chính trị và thẩm mỹ của một cộng đồng. Đặc biệt luật tục có tính cưỡng chế cao, nó quy định rõ những điều được phép làm và những điều ngăn cấm. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Có thể dùng khái niệm của PGS.TS Ngô Đức Thịnh (Viện trưởng viện nghiên cứu văn hóa dân gian) đã khái quát về luật tục như sau:

Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, được hình thành trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn quan hệ xã hội, quan hệ con người với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy được cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống nhất và cân bằng trong mỗi cộng đồng [32].

1.1.2.2. Đặc điểm

Từ những phân tích trên, có thể thấy luật tục có những đặc điểm:

Thứ nhất, Luật tục là một công trình lập tục tập thể của cả cộng đồng và được chọn lọc, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mỗi điều luật trong luật tục thường sử dụng cách thể hiện “quy tắc xử sự” theo công thức phổ biến: Nêu sự kiện, hành vi – dẫn giải tác hại của hành vi vi phạm (hoặc không vi phạm) – yêu cầu xử lý chung hoặc đưa ra chế tài cụ thể. Các hành vi vi phạm thường được nêu cụ thể, chi tiết. Thậm xưng là cách so sánh được dùng rất phổ biến trong toàn bộ luật tục, bởi đây là cách diễn đạt gần gũi nhất với người dân, phù hợp với trình độ tư duy nhận thức của họ. Phần yêu cầu xử lý thường nêu chế tài với người vi phạm, song cũng có nhiều điều không nêu chế tài cụ thể, mà có khi chỉ nhắc nhở, răn đe để con người tránh không vi phạm.

Luật tục phản ánh ý chí chung của cộng đồng, là hệ thống các quy phạm trên cơ sở quan niệm đạo đức xã hội. Tinh thần của luật tục là đưa ra quy phạm để giải quyết có lý, có tình những mâu thuẫn, để răn đe, giáo dục. Luật tục hướng thiện cho con người, đã làm người phải làm người thật thà, không gian dối, không làm điều ác, mang tính khuyên răn. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Thứ hai, luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực quan hệ xã hội trong cộng đồng người. Với tính chất như một khuôn mẫu về ứng xử được cả cộng đồng thừa nhận, phạm vi điều chỉnh của luật tục phải đảm bảo được tính rộng dãi, hầu như bao quát tất cả những quan hệ xã hội nảy sinh trong cộng đồng người, để khi xảy ra hành vi cần áp dụng, luật tục có sẵn như một thước đo cho sụ ứng xử đó của con người. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của những quan hệ xã hội được điều chỉnh, có thể phân thành những nhóm lĩnh vực được luật tục điều chỉnh như: lĩnh vực tổ chức và quản lý cộng đồng, lĩnh vực ổn định trật tự an ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng, lĩnh vực tôn trọng. tuân thủ, bảo vệ phong tục, tập quán; lĩnh vực quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình; lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; bảo vệ sản xuất, môi trường; lĩnh vực duy trì và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng.

Thứ ba, luật tục được đảm bảo thực hiện bẳng sức mạnh của dư luận cộng đồng, bằng chính sự tự giác của mỗi cá nhân, có khi như một thói quen. Dư luận cộng đồng là lực lượng hướng dẫn và cưỡng chế các thành viên ứng xử theo đúng chuẩn mực của quy ước và luật tục. Dư luận cộng đồng góp phần cổ vũ, khích lệ các thành viên chấp hành các quy định của luật tục, làm tốt các điều phải làm, có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những người có hành động vi phạm luật tục. Mặt khác, tín ngưỡng, thần linh cũng chi phối ý thức tuân thủ luật tục của của cả cộng đồng. Các vi phạm phong tục sẽ xúc phạm đến các vị thẩn và họ sẽ không che chở bảo vệ cho người dân. Vì vậy, việc xét xử công minh, ý thức coi trọng luật tục còn do yếu tố thần linh trong đời sống chi phối buộc họ tự giác thực hiện. Cơ chế thần linh chính là một sức mạnh hỗ trợ cho cơ chế cộng đồng dựa trên nền tảng luật tục được duy trì và tôn trọng trong cộng đồng.

1.1.2.3. Nội dung cơ bản của luật tục Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Như phần trên đã nêu, luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số. Có thể thấy được nội dung cơ bản của luật tục thông qua việc khái quát những nhóm quy định trong từng lĩnh vực.

Các quy định trong lĩnh vực tổ chức và quản lý cộng đồng: điều chỉnh về mối quan hệ giữa người đứng đầu làng, bản là trưởng buôn, trưởng làng và các thành viên trong buôn làng. Quyền và nghĩa vụ được đặt ra đối với hai loại chủ thể này. Người đứng đầu buôn làng được coi như “Cây sung đầu suối, cây đa đầu làng” [33, Điều 26]. Người đứng đầu buôn được hưởng quy chế bất khả xâm phạm về danh dự, thân thể, có nghĩa vụ: chăm lo lợi ích cho dân làng, bảo đảm quyền lợi cho họ, không được lộng hành, tùy tiện lạm quyền. Luật tục quy định rất cụ thể những tội do người đứng đầu buôn thực hiện, bao gồm: tội giấu người, tội che giấu các vụ việc trong làng, tội chiếm của dân làng, tội không chăm lo chu đáo dân làng; tội bắt bớ giam cầm oan sai… Về cơ bản, các quy định này còn phù hợp với các quan hệ cộng đồng và xử lý các mối quan hệ cộng đồng hiện nay.

Các quy định mô tả hành vi được coi là phạm tội: Trong luật tục không đưa ra khái niệm hành vi vi phạm và tội phạm, mà chỉ thông qua việc mô tả hành vi vi phạm trong một điều luật cụ thể để kết luận một người bị coi là có tội và phải bị đưa ra xét xử, khi các hành vi của người đó thực hiện thỏa mãn những yếu tố của điều luật đã dự liệu trước. Điều đặc biệt là, trong các yếu tố cấu thành vi phạm luật tục để bị đưa ra xét xử thì dấu hiệu lỗi cố ý có mặt ở tất cả cá điều luật về vi phạm luật tục. Theo quan niệm của người Êđê và M Nông, một hành vi có hại cho lợi ích cộng đồng, bị coi là vi phạm luật tục phải là hành vi được thực hiện một cách cố ý, chủ tâm của chủ thể vi phạm. Ví dụ như mô tả hành vi lừa đảo trong Điều 20 luật tục Ê đê “Hắn biến mủ cây đa thành mủ cây sung, biến voi đực thành voi cái, biến người này thành người kia, vì vậy có việc phải đưa hắn ra xét xử” [33].

Nhóm quan hệ hôn nhân và gia đình chiếm vị trí cơ bản trong luật tục, đặc biệt là dân tộc Ê đê và M Nông ở Tây Nguyên. Nét nổi bật trong nguyên tắc hôn nhân của người Ê đê là tục nối nòi, đồng bào quan niệm “Rầm nhà gãy thì phải thay, dát nhà nát thì phải thế. Chết người này thì phải thay bằng người khác” [33, Điều 97]. Luật tục cũng quy định vợ chồng không nên ngăn cản công việc của nhau, nếu người chồng lười biếng không chăm sóc vợ con thì người vợ được đi lấy người khác. Người chồng vũ phu, đánh vợ thương tích thì phải khuyên răn, hòa giải để thương yêu như cũ. Kẻ xúi giục để vợ chồng người ta xung khắc phải chuộc lỗi, đền tội. Cha mẹ, con cái phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi nấng, nếu làm trái với đạo lý ấy, luật tục M Nông đều khép vào tội. Trong quan hệ hôn nhân, luật tục cũng có những quy định hạn chế, chẳng hạn trong việc xử tội quan hệ bất chính. Theo quy định, nếu người phụ nữ đã khai, thì dù có hay không, người đàn ông cũng bị quy tội là có quan hệ bất chính với chị ta. Phụ nữ khai người đàn ông có tội là anh ta phải có tội, dù sự thật là không có. Sau đó, người đàn ông đó nếu có vợ thì sẽ bị vợ phạt, tức anh ta bị phạt hai lần. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực dân sự, xuất phát từ phương thức sản xuất tiền giai cấp, chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng là ba đặc thù xuyên suốt, chi phối quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng. Các quan hệ nhiều lúc phải qua cơ chế trung gian là thần linh. Hành vi trái tục lệ làm cho thần linh nổi giận, dẫn đến thần linh giáng tai họa đến cho bên bị thiệt hại . Luật tục quy định nghĩa vụ loan báo cho người khác biết khi nhặt được của cải và sau 3 năm mà không có người đến nhận thì tài sản thuộc sở hữu người bắt được, việc cố tình giấu giếm tài sản mà bắt được, ngoài việc phải trả lại, người vi phạm phải nộp phạt thêm “hai cái nữa”.

Quan hệ về thừa kế dân sự cũng rất được quan tâm. Luật tục Ê đê thừa nhận quan hệ thừa kế theo di chúc. Nội dung thừa kế được luật tục đề cập như sau: việc thừa kế phải theo dòng họ mẹ. Người quản lý di sản là người trưởng nữ của dòng họ, gia đình. Tài sản tổ tiên để lại cho cả dòng họ thừa kế và không được bản, đổi. Chỉ có người nữ gia trưởng này mới có quyền quản ý. Người được thừa kế là con cái nhưng phải là người con có hiếu, có chăm sóc cha mẹ. Con nuôi cũng được hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi nếu hiếu thảo với cha mẹ nuôi.

Luật tục không có khái niệm thế nào là giao dịch dân sự nhưng từ hợp đồng đến hành vi pháp lý đơn phương đều được luật tục đề cập đến. Luật tục đã quy định rất tiến bộ hành vi mua tài sản của trẻ vị thành niên thì việc mua bán coi như vô hiệu. Lừa dối khi mua bán tức sự tự nguyện của bên kia là sai lầm do hành vi cố ý lừa dối của một bên sẽ bị xét xử. Khi cam kết đã hứa thì phải thực hiện, nếu vi phạm cam kết thì sẽ bị xử phạt. Luật tục cũng quy định cha mẹ phải bồi thường cho trẻ con, người điên gây ra do họ đã không giáo dục, quản lý tốt những người này.

Đối với những quan niệm về quyền sở hữu đất của luật tục. Đất đai thuộc sở hữu chung hay riêng đều không thể tùy tiện sử dụng mà phải theo các quy định nhất định. Quyền sở hữu đất đai của mỗi gia đình được hiểu là quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Xuất phát từ mục đích phát triển và bảo vệ sản xuất, luật tục còn quy định nhiều điều luật nhằm yêu cầu người dân trong cộng đồng phải có ý thức bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường chung bên cạnh việc bảo vệ đất đai.

1.1.2.4. Vị trí, vai trò của luật tục trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Luật tục là một kho tàng trí thức dân gian được tích lũy từ thực tế đời sống của nhiều thế hệ các đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung của nó đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, từ sản xuất, tổ chức xã hội, quan hệ cộng đồng, quan hệ gia đình, lễ nghi tôn giáo… Ở từng lĩnh vực, các tri thức dân gian được tích lũy trong luật tục đều đã được định hình và trở thành những nguyên tắc ứng xử nhằm giáo dục, răn đe mọi người, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, phù hợp với nhận thức và trình độ xã hội chung của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, luật tục vẫn phát huy vai trò điều chỉnh mọi mối quan hệ xã hội ở các buôn, làng, bản của đồn bào các dân tộc thiểu số. Đối với họ, luật tục của cộng đồng mình vẫn được coi là chuẩn mực trong hành ứng xử hàng ngày. Trong mọi hoạt động giao tiếp với cá nhân, cộng đồng, khi gặp phải tình huống cần lựa chọn hành vi ứng xử, đồng bào các dân tộc thiểu số thường nghĩ ngay đến những câu trong luật tục mang đậm chất dân gian, ví von, thơ ca để tìm định hướng cho hành vi ứng xử của mình không vượt ra ngoài những quy định của luật tục. Đối với những người được cộng đồng giao cho trọng trách xử kiện (Khoa Pin Ea – luật tục Ê đê) thì họ gần như thuộc lòng các quy định của luật tục để có thể dẫn giải từng câu, từng đoạn thích hợp với hoàn cảnh để phục vụ cho việc xét xử của mình, phân tích hành vi nào là phải, trái và theo quy định của luật tục hành vi đó có bị luận tội hay không. Sự phân xử của người được giao trọng trách xét xử này thường chính xác và được cộng đồng người dân tộc thiểu số đó coi trọng, đảm bảo quyền lợi cho cá nhân cũng như cả cộng đồng mình. Chính điều này cho thấy sức sống mãnh liệt của luật tục và chứng minh cho sự hợp lý, sự cần thiết của nó trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Đi sâu nghiên cứu luật tục cho thấy, đây là một hình thái pháp luật sơ khai đã được đồng bào dân tộc thiểu số sáng tạo nên và được hoàn thiện qua nhiều thế hệ. Nội dung của luật tục đã xác lập vị trí của mỗi cá nhân trong cộng đồng, hình thành nên mối quan hệ giữa từng thành viên với nhau và giữa cá nhân với cộng đồng mình đang sinh sống, góp phần quản lý cộng đồng một cách chặt chẽ, hiệu quả không chỉ trong giai đoạn trước mà vẫn tiếp tục giữ vai trò đáng kể trong cuộc sống hiện đại, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

Hiện nay với xu thế hội nhập toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, là xu hướng phù hợp với sự phát triển của quy luật tự nhiên. Cùng chung với xu thế đó, đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là những thực thể xã hội biệt lập và không thể thu hẹp những quy cách ứng xử của mình trong phạm vi luật tục của buôn làng. Đồng bào các dân tộc thiểu số phải cùng với 54 dân tộc anh em trong cả nước có cuộc sống trong cùng một hành lang pháp lý chung đó là pháp luật của nhà nước.

Tuy vậy, luật tục với những quy định mang tính chất tiến bộ, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành sẽ đóng vai trò tích cực trong việc cùng với pháp luật điều chỉnh thống nhất các mối quan hệ xã hội. Luật tục sẽ góp phần làm mềm dẻo các quy định được mặc định là có phần cứng nhắc của pháp luật, bổ sung, bù đắp những quy định có tính khái quát cao của pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt hơn nữa, luật tục sẽ chuyển đổi các ngôn ngữ hiện đại của pháp luật thành ngôn ngữ dân gian, gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó đưa pháp luật đi vào đời sống của đồng bào một cách tự nhiên và hiệu quả.

Bên cạnh đó, sự tiếp cận pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua đã có nhiều thay đổi đáng kể. Một số thủ tục lạc hậu như đánh đuổi người bị coi là ma lai ra khỏi buôn làng, con đã thành niên vi phạm luật tục nhưng buộc cha mẹ vẫn phải bổi thường … nay đã được loại bỏ. Hiện nay, sự tiếp cận pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số trên diện rộng hơn sẽ làm cho luật tục ngày càng được sàng lọc và hoàn thiện, trở thành những quy tắc ứng xử tiến bộ, hướng hành vi của đồng bào dân tộc thiểu số vừa đáp ứng những quy định chung của pháp luật nhà nước, vừa không làm trái những tập quán vốn có lâu đời được quy định trong luật tục của buôn làng.

1.2. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

1.2.1. Điểm tương đồng giữa pháp luật và luật tục

Pháp luật và luật tục đều là những phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội: Mỗi thực thể tồn tại trong xã hội đều có những nhu cầu, mục đích nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu lợi ích đó của mình, mỗi chủ thể lựa chọn những cách thức riêng. Trong mỗi điều kiện nhất định, có những chủ thể lại lựa chọn thực hiện những hành vi làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác, tổn hại lợi ích của cả cộng đồng xã hội. Để ngăn chặn tình trạng đó, xã hội cần phải có những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu định sẵn để các chủ thể có thể biết cách lựa chọn hành vi phù hợp đảm bảo cho lợi ích của bản thân mình và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác cũng như lợi ích chung của toàn xã hội.

Điều chỉnh các quan hệ xã hội là đưa ra những cách xử sự chung nhất cho các chủ thể để họ lựa chọn cách thức thực hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh vụ thể, hay chính là xác định cho các chủ thể những quyền, nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào những quan hệ xã hội cụ thể. Điều chỉnh quan hệ xã hội có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau trong đó có pháp luật và luật tục (nhưng luật tục chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng buôn làng người dân tộc thiểu số). Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục đều tác động vào nhận thức của chủ thể nhằm hình thành chủ thể ý thức lựa chọn cách thức xử sự phù hợp, kiềm chế không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm, đồng thời khuyến khích họ thực hiện những hành vi tích cực, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước hay của cộng đồng dân tộc mình.

Điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục đều mang tính quy phạm. Cả hai đều là những mô hình chuẩn mực cho hành vi của con người. Về bản chất, pháp luật và luật tục đều có sự thống nhất về mục đích điều chỉnh nhằm bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của xã hội, hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội không phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích chung của cả cộng đồng, đảm bảo cho xã hội phát triển trong ổn định và trật tự.

Khi điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục đều có sự đồng nhất về tính bắt buộc thực hiện đối với chủ thể bị điều chỉnh, nếu pháp luật có tính bắt buộc thực hiện đối với toàn xã hội thì luật tục chỉ có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các thành viên trong một cộng đồng nhất định. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Pháp luật và luật tục đều thuộc kiến trúc thượng tầng: Cả pháp luật và luật tục chỉ có thể tồn tại trên những cơ sở hạ tầng, những nền tảng kinh tế xã hội phù hợp nhưng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Pháp luật và luật tục đều là hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định. Luật tục truyền thống của các dân tộc thiểu số ở nước ta được hình thành trên nền tảng sản xuất có dáng dấp của kinh tế nguyên thủy, mang tính chất khép kín, tự cung, tự cấp với trình độ sản xuất lạc hậu, sự phân công lao động thấp. Cũng tương tự như vậy, tương ứng mỗi hình thái kinh tế – xã hội trong xã hội có giai cấp là một kiểu pháp luật, về cơ bản pháp luật quy định vấn đề gì, quy định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi, thì cả pháp luật và luật tục cũng sẽ bị biến đổi.

Bên cạnh đó, pháp luật và luật tục đều có tính độc lập tương đối và đều có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng theo những mức độ nhất định. Sự tác động này có thể diễn ra theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi pháp luật và luật tục phát triển theo đúng quy luật phát triển của đời sống xã hội, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội, phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế, xã hội thì chúng có tác động tích cực. Pháp luật và luật tục lúc này sẽ củng cố, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế, xã hội tồn tại và phát triển, theo đó, cả hai đều góp phần loại bỏ những quan hệ kinh tế, xã hội không phù hợp với xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của giai cấp thống trị và của cả cộng đồng.

Ngược lại, khi pháp luật và luật tục không phù hợp với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế chúng sẽ có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho đời sống xã hội mất ổn định. Sự tác động của pháp luật và luật tục đối với cơ sở hạ tầng là mạnh mẽ và rất dễ nhận thấy. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Pháp luật và luật tục vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản của pháp luật, các hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được tập trung thành ý chí của nhà nước và nâng lên thành pháp luật.

Luật tục được hình thành vào thời kỳ tiền giai cấp nhưng ít nhiều mang tính giai cấp. Nghiên cứu luật tục, chúng ta có thể thấy các tù trưởng nhà giàu, người đứng đầu mỗi cộng đồng đều được bảo vệ khắt khe hơn thường dân, những ông chủ vẫn được luật tục quy định bảo vệ cao hơn nô lệ. Tuy vậy, xuất phát từ đặc trưng lối sống cộng đồng mang tính huyết thống và những lợi ích đối lập nhau của đồng bào dân tộc thiểu số mà luật tục có tính xã hội cao hơn tính giai cấp. Luật tục còn là công trình luật tục tập thể, thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng người dân tộc thiểu số có sự phân hóa kinh tế thấp, nên sự hình thành của luật tục không thông qua nhà nước, không mang ý chí đại diện cho bất cứ giai cấp riêng biệt nào.

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, lợi ích của các giai cấp trên quan điểm là công bằng, nhưng thực tế vẫn chưa thống nhất, vẫn xuất hiện một số lực lượng chống đối. Với điều kiện đó, pháp luật vẫn được xác định là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ và củng cố các quyền, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Như vậy trong xã hội xã hội chủ nghĩa, pháp luật vẫn mang tính giai cấp.

Pháp luật và luật tục còn mang tính xã hội. Tính xã hội của pháp luật và luật tục thể hiện ở việc chúng đều là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Cả pháp luật và luật tục đều phản ánh rõ nét những điều kiện chung của xã hội như: điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền thống, điều kiện tự nhiên; do đó, cả hai đều là những chuẩn mực chung của xã hội. Cùng với đó, pháp luật và luật tục đều trải qua quá trình chọn lọc, chuyển giao qua nhiều thế hệ một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội để giữ lại cách xử sự hợp lý nhất, phù hợp với lợi ích chung của toàn thể xã hội, dân tộc.

1.2.2. Sự khác biệt giữa pháp luật và luật tục Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Bên cạnh những điểm tương đồng đã nêu, pháp luật và luật tục còn có những điểm khác biệt rõ ràng.

Khác biệt về con đường hình thành: Như chúng ta đã biết, pháp luật xuất hiện như một tất yếu khách quan và là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội tiền giai cấp, để tổ chức và quản lý đời sống xã hội thì những quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán và tín ngưỡng tôn giáo được sử dụng rất hiệu quả. Khi nền kinh tế có sự phân hóa cao, xã hội xuất hiện các giai cấp với những lợi ích khác nhau thì những quy phạm này đều đã trở lên lạc hậu. Lúc đó, nhà nước xuất hiện và thông qua nhà nước, một quy tắc xử sự mới được hình thành đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành từ ba con đường: thứ nhất, nhà nước thừa nhận những quy tắc xử sự đang tồn tại trong xã hộ còn phù hợp với xã hội, không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị và dùng quyền lực để đảm bảo cho nó được thực hiện trên thực tế. Thứ hai, nhà nước thừa nhận những cách giải quyết vụ việc trên thực tế của các cơ quan nhà nước, dùng nó làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có nội dung tương tự về sau. Thứ ba, nhà nước ban hành những văn bản chứa đựng những quy phạm pháp luật, là những văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đời là hoạt động tự giác và tư duy tích cực của nhà nước – tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội. Khi mới ra đời, pháp luật cũng có nhiều dạng tồn tại, mà chủ yếu là dạng không thành văn, cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật được hoàn thiện và tồn tại dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật.

Luật tục xuất hiện do nhu cầu điều chỉnh của đời sống cộng đồng người dân tộc thiểu số. Nó được hình thành qua con đường tự phát và không qua một thiết chế xã hôi nào và được cả cộng đồng người thừa nhận, tuân thủ thực hiện một cách tự giác. Luật tục là kết quả hoạt động nhận thức và sáng tạo thực tiễn của cả một cộng đồng. Như vậy, nó là sản phẩm kết tinh trí tuệ tập thể, ban đầu là những tập quán thông thường, sau một thời gian sàng lọc, kiểm nhiệm một số tập quán đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết cho việc bảo vệ lợi ích của một cộng đồng người đã trở thành luật tục. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Hình thức thể hiện, như trên đã nêu, luật tục hình thành theo con đường tự phát, chủ yếu tồn tại dưới dạng không thành văn, được truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng người dân tộc thiểu số. Ngôn ngữ được sử dụng trong luật tục rất gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Lời văn sử dụng trong luật tục mang đậm chất thi ca, có vẫn điệu dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu và dễ áp dụng. Chính điều này làm cho luật tục có sức sống trường tồn, từ người già đến người trẻ trong cộng đồng người dân tộc thiểu số đều có thể nắm được tinh thần luật tục của cộng đồng người mình đang sinh sống, dù không có một hình thức tồn tại chính xác nào như văn bản pháp luật.

Luật tục cũng không thể hiện rõ ràng dưới dạng luật nội dung và luật hình thức. Nó được bao hàm cả luật nội dung và tố tụng, nghĩa là trong luật tục, một quy phạm chứa đựng trong đó cả phần giả định, quy định và chế tài, đồng thời cả trình tự, thủ tục để xử lý người có tội. Cũng như vậy, luật tục không phân chia điều chỉnh các lĩnh vực xã hội riêng biệt như hình sự, dân sự… theo pháp luật mà trong một quy định của luật tục có thể áp dụng cho nhiều loại tội trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ như quy định “mất một đền ba” được áp dụng là cách xử lý trong nhiều lĩnh vực từ hôn nhân gia đình đến xâm phạm về tài sản.

Khác với luật tục, pháp luật được hình thành từ nhiều con đường khác nhau. Nhà nước thừa nhận những quy định xử sự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong xã hội. Hình thức chủ yếu của pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật. Tồn tại dưới dạng văn bản, pháp luật đã thể hiện ý chí cao nhất của nhà nước, cũng thể hiện rõ ràng tính minh bạch, chính xác của pháp luật trong vai trò là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý xã hội. Nói tới pháp luật đồng nghĩa với việc nói tới các quy phạm pháp luật. Chỉ trong một số trường hợp nhất định, thì những quan điểm, tư tưởng pháp luật mới được sử dụng để làm công cụ điều chỉnh những quan hệ xã hội.

Phạm vi điều chỉnh: Trong phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội đã tồn tại một cách khách quan trong đời sống xã hội, mang những đặc tính phổ biến, điển hình nhất trong đời sống xã hội. Như vậy, pháp luật không thể điều chỉnh được hết tất cả những quan hệ xã hội nảy sinh, nhất là những quan hệ xã hội mà các chủ thể thực hiện bị chi phối bởi tình cảm, tín ngưỡng, tôn giáo hay truyền thống đặc trưng của mỗi vùng, miền. Với vai trò là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý các mối quan hệ xã hội, pháp luật mang tính khái quát cao những tình huống, không thể đi vào cụ thể những chi tiết nhỏ phát sinh trong đời sống xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số có những điểm khác biệt và đặc trưng. Chính vì thế, luật tục ra đời như một công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đặc trưng, cụ thể này trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta. Luật tục ra đời chính trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của mỗi tộc người, nó bao quát được hầu hết các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống và đưa ra những cách thức điều chỉnh phù hợp với đời sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Trong một phạm vi cũng nhỏ hẹp, những quy định điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng đã kịp thời được áp dụng để xử lý những hành vi vi phạm lợi ích của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Đối với không gian điều chỉnh, pháp luật có hiệu lực rộng lớn trên lãnh thổ quốc gia. Trong một số trường hợp, pháp luật còn có hiệu lực vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia. Khác với pháp luật, luật tục chỉ có hiệu lực điều chỉnh đối với một cộng đồng người dân tộc thiểu số trên một vùng lãnh thổ nhất định. Luật tục chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội được phát sinh giữa các thành viên trong cộng đồng người nhất định. Nó không có giá trị điều chỉnh đối với thành viên của các dân tộc khác và được áp dụng như một bộ luật riêng, độc lập với những quy định của pháp luật. Như vậy không có nghĩa là đồng bào các dân tộc thiểu số là những cộng đồng sống độc lập, không có mối quan hệ gì với pháp luật chung của nhà nước ta, mà đây chỉ là một đặc trưng riêng biệt về sự điều chỉnh của phong tục truyền thống của cộng đồng. Trong những quy định của luật tục có những điểm tương đồng với những quy định của pháp luật được nhà nước ghi nhận và cần được nhà nước thừa nhận và có những quy định lạc hậu, trái với quy định của pháp luật cần được nhà nước có biện pháp để tuyên truyền, vận động loại bỏ trong tương lai.

Về mặt cơ chế điều chỉnh: Cơ chế điều chỉnh pháp luật và cơ chế điều chỉnh luật tục khác nhau ở một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất: Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng các quy phạm pháp luật cụ thể. Trong các quy phạm pháp luật này có những quy định cụ thể cho các chủ thể những hành vi được phép làm và những hành vi bị ngăn cấm. Hay pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách quy định các quyền và nghĩa vụ cho chủ thể, kèm theo đó là những chế tài cho chủ thể biết được hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu khi lựa chọn thực hiện những hành vi mà pháp luật không cho phép. Đồng thời nhà nước cũng đưa ra những biện pháp bảo đảm thực hiện các chế tài này, buộc các chủ thể phải tuân thủ thực hiện. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Luật tục cũng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng người dân tộc thiểu số bằng các quy định trong luật tục chỉ cho mỗi chủ thể những điều được phép làm và không được phép làm; cũng như quy định cho chủ thể biết những yêu cầu buộc phải thực hiện khi vi phạm. Nhưng khác với pháp luật, luật tục điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người dân tộc thiểu số dựa trên một niềm tin được duy trì lâu đời trong ý chí tín ngưỡng của mỗi dân tộc mình chứ không dựa vào ý chí duy trì sự điều chỉnh xã hội của nhà nước như pháp luật. Đồng bào dân tộc thiểu số chấp nhận quy định của luật tục một cách tự nhiên và tự giác tuân thủ, thực hiện nó mà không cần bất cứ một cơ quan, hay biện pháp cưỡng chế nào để bắt buộc họ phải tuân thủ.

Thứ hai: Pháp luật muốn điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong đời sống thường ngày đều phải thông qua việc cá biệt hóa các quy phạm pháp luật. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra, các quy phạm pháp luật được cá biệt hóa thành những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể trong quan hệ pháp lý phát sinh đó. Đây là những quan hệ xã hội mà sự xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ, các biện pháp đảm bảo thực hiện của chủ thể bị chi phối bởi ý chí của nhà nước. Và việc quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể được thực hiện qua các văn bản cá biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Ngược lại, trong luật tục của các đồng bào dân tộc thiểu số, việc cụ thể hóa các quy định trong luật tục thành các nghĩa vụ cho chủ thể không được ghi nhận trong bất cứ hình thức văn bản nào. Với quan niệm, niềm tin vào tín ngưỡng, tôn giáo lâu đời được ghi nhận trong luật tục, người trong cộng đồng dân tộc thiểu số tự ý thức được việc mình được phép làm hay không được phép làm, mà chủ yếu họ ý thức được do sợ vi phạm vào niềm tin về tín ngưỡng, tôn giáo chung của cả tộc người cũng như của chính bản thân họ. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Thứ ba, Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, sau khi được cá biệt hóa các quyền và nghĩa vụ cụ thể, chủ thể bằng hành vi của mình tự thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp lý đã được xác định. Nếu chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình thì sẽ chịu sự cưỡng chế của nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các biện pháp buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý là những biện pháp tác động từ bên ngoài, chủ thể có thể phải chịu hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần, sự tự do và thậm chí bằng cả tính mạng của mình.

Trong cơ chế điều chỉnh của luật tục, các quy phạm luật tục được áp dụng với một chủ thể khi xuất hiện những hành vi vi phạm. Khi đó, chủ thể có hành vi vi phạm quy định của luật tục tự giác thực hiện với ý thức cao và niềm tin vào tín ngưỡng, tôn giáo nhất định đã được ăn sâu trong tiềm thức từ trước đó. Nó được diễn ra theo cơ chế tâm lý bên trong của chủ thể. Nếu chủ thể không tự giác thực hiện, cũng phải chịu những hậu quả bất lợi, nhưng chỉ là những hậu quả bất lợi về niềm tin, tinh thần hoặc vật chất, không có hậu quả bất lợi về sự tự do và tính mạng.

Biện pháp đảm bảo thực hiện: Giữa pháp luật và luật tục có điểm khác nhau trong biện pháp đảm bảo cho pháp luật hay luật tục được thực thi trong điều kiện thực tế.

Pháp luật do nhà nước ban hành nên được nhà nước đảm bảo thực hiện. Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tuyên truyển, giáo dục thuyết phục, biện pháp kinh tế và sau cùng là biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Qua hình thức giáo dục, tuyên truyền của nhà nước, mọi công dân nắm bắt được những quy định của pháp luật, từ đó họ có hướng lựa chọn, điều chỉnh hành vi của mình theo hướng pháp luật đã quy định. Với biện pháp kinh tế, nhà nước tạo ra cho chủ thể mối quan tâm về lợi ích vật chất của họ, từ đó họ có ý thức tự giác thực hiện những quy định của pháp luật. Không những thế, nhà nước còn thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện những quy định pháp luật của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, những hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có thể là rất nặng, như việc mất đi quyền được sống và sự tự do. Song những bất lợi đó là sự tác động từ bên ngoài tới chủ thể và được áp dụng trong một thời gian nhất định. Để thực hiện sự tác động này tới chủ thể, nhà nước có một bộ máy với đầy đủ sức mạnh thực hiện được tổ chức chặt chẽ từ trung ương tới địa phương.

Có thể thấy, pháp luật được đảm bảo thực hiện chủ yếu bằng sức mạnh của nhà nước. Bên cạnh đó còn là những biện pháp đảm bảo thực hiện pháp luật như sự giáo dục xã hội, ý thức tự giác của mỗi chủ thể… Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Khác với pháp luật, luật tục được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp phi nhà nước. Biện pháp đảm bảo thực hiện của luật tục trước hết ở sự giáo dục, thuyết phục. Khi một chủ thể thực hiện hành vi vi phạm luật tục, thì những người thân thiết trong gia đình họ thuyết phục họ tự nguyện chấp hành hình phạt, hay chính những người trong gia đình tự nộp phạt thay cho người phạm. Biện pháp giáo dục, thuyết phục là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện các quy định của luật tục. Hầu hết, những hành vi vi phạm của luật tục chỉ dừng lại ở biện pháp giáo dục thuyết phục trong gia đình hoặc cả cộng đồng vì ý thức chấp hành của cộng đồng người dân tộc thiểu số với luật tục rất cao. Trường hợp một số vụ vi phạm luật tục mà người phạm không tự mình chấp hành hình phạt, thì người bị vi phạm có quyền cưỡng chế người vi phạm dưới sự ủng hộ và áp lực chung của dư luận cộng đồng. Đặc biệt, những hậu quả mà người vi phạm phải chịu khi vi phạm luật tục chủ yếu đều là hậu quả vật chất, nếu không có vật chất để nộp phạt theo quy định, thì người vi phạm có thể phải thực hiện một số công việc để “trừ nợ”, như việc đi làm mà không được nhận công … Hậu quả pháp lý nặng nhất mà người vi phạm phải chịu là bị đuổi khỏi cộng đồng của mình, không còn được chấp nhận là người của buôn làng, không được sinh hoạt chung với cộng đồng.

1.3. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC

1.3.1. Sự tác động của luật tục đến pháp luật

Mặc dù luật tục chỉ có phạm vi điều chỉnh trong một cộng đồng người dân tộc thiểu số nhỏ hẹp nhất định, nhưng luật tục có những tác động nhất định liên quan đến việc hình thành các quy định của pháp luật. Hiện nay, một số quy định về phong tục, tập quán tốt đẹp, lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được nhà nước ta ghi nhận và thể chế hóa thành những quy định của pháp luật, như những quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng … Như vậy, luật tục có thể là môi trường tốt cho sự tồn tại và phát triển của pháp luật trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, là một trong những yếu tố góp phần xây dựng nên những quy định của pháp luật. Luật tục có thể làm cho hệ thống pháp luật trở nên phong phú, hoàn thiện hơn.

Luật tục được hình thành ngay chính trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng người dân tộc thiểu số. Luật tục tồn tại và phát triển trên cơ sở tự thừa nhận của cộng đồng. Khi đã tự thừa nhận những quy định của luật tục, thì cộng đồng người thực hiện nó bằng niềm tin từ nội tâm của mình. Những quy định của luật tục đã trở thành thói quen ứng xử trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Khi cá nhân vi phạm luật tục, nếu không tự giác thực hiện sẽ bị chính cộng đồng mình lên án và người đứng đầu cộng đồng (Già làng, Trưởng bản) sẽ là người đại diện cho cả cộng đồng xử phạt người vi phạm. Như thế, các quy định của luật tục có tính điều chỉnh rất cao đối với cộng đồng người dân tộc thiểu số, thực tế là còn cao hơn cả sự điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, khi các quy phạm pháp luật điều chỉnh một vấn đề nào đó liên quan đến đời sống của cộng đồng người dân tộc thiểu số, nếu đó là những quy định được xây dựng tương đồng và phù hợp với những quy định của luật tục thì nó không những được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước mà còn được đảm bảo thực hiện bằng luật tục. Ngược lại, nếu pháp luật không được xây dựng trên cơ sở các phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số – mà trong đó có luật tục, không phù hợp với những quy định vốn có của luật tục thì pháp luật sẽ khó đi vào cuộc sống của những cộng đồng người này. Từ thực tế đó, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa những biện pháp điều chỉnh của pháp luật với những biện pháp điều chỉnh của luật tục; làm cho cộng đồng người dân tộc thiểu số có thể chống đối lại quy định của pháp luật, làm mất trật tự an ninh chung. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Sự tác động của luật tục trong việc hình thành các quy định của pháp luật tùy thuộc vào sự nhận thức của các nhà làm luật về vai trò của pháp luật cũng như vai trò của luật tục. Khi nhà làm luật nhận thức được vai trò quan trọng của pháp luật đối với xã hội nói chung và vai trò của luật tục đối với cộng đồng người dân tộc thiếu số nói riêng thì luật tục sẽ có những mặt tác động tới sự hình thành các quy định của pháp luật. Sự tác động của luật tục tới việc hình thành các quy định của pháp luật không phải ở chỗ buộc các nhà làm luật phải đưa những quy định của luật tục nâng lên thành luật; mà thể hiện ở việc nhà làm luật bằng những quy định của pháp luật thừa nhận một số phong tục, tập quán tiến bộ của người dân tộc thiểu số, cụ thể hóa thành luật. Hoặc thừa nhận cách giải quyết các vụ việc phát sinh ở các buôn làng do chính dân làng giải quyết để làm các tiền lệ trong việc áp dụng giải quyết các vụ việc phát sinh tương tự về sau.

Điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong xã hội bằng pháp luật, nhà nước ta luôn mong muốn sẽ tạo được một hành lang pháp lý an toàn cho mỗi chủ thể, tạo được thói quen ứng xử, hành động theo hiến pháp và pháp luật của nhà nước. Chính vì vậy, pháp luật cần phải được xây dựng trên cơ sở những đạo lý, truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta mà trong đó có truyền thống của cộng đồng người dân tộc thiểu số. Khi pháp luật được xây dựng phù hợp với những truyền thống của các dân tộc, không những nó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh trong cuộc sống mà còn góp phần to lớn trong công cuộc giữ gìn, phát huy những bản sắc vốn có của dân tộc theo định hướng của Đảng và Nhà nước ta.

Luật tục còn tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Không chỉ ảnh hưởng tới sự hình thành các quy phạm pháp luật, luật tục còn có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong cộng đồng người dân tộc thiểu số. Sự tác động của luật tục tới việc thực hiện pháp luật phụ thuộc vào yếu tố phù hợp của pháp luật đối với luật tục. Như phần trên đã nêu, nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với những giá trị truyền thống được quy định của luật tục thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bởi lẽ tuân thủ những quy định của pháp luật lúc này cũng tương tự như tuân thủ các quy định của luật tục.

Luật tục của cộng đồng người dân tộc thiểu số không tồn tại như một quy định xa vời với người dân, nó như một thói quen hiển hiện trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày. Người cao tuổi dẫn dắt luật tục qua các câu chuyện giáo dục con cháu thường ngày, người mẹ hát ru con bằng những hình ảnh ví von của luật tục. Qua những lời kể, lời ru ấy, luật tục đi vào tiềm thức của những thế hệ người dân tộc thiểu số một cách tự nhiên, tạo thành một lối mòn, một khuôn mẫu ứng xử được định sẵn trong mỗi người. Như vậy, những quy định tiến bộ của luật tục phù hợp với quy định của pháp luật được người dân tộc thiểu số thực hiện rất nghiêm túc. Những người có ý thức chấp hành tốt luật tục cũng là những người có ý thức chấp hành tốt pháp luật của nhà nước. Việc chấp hành tốt pháp luật hay luật tục cũng là ý thức chấp hành những quy tắc xử sự chung dược đặt ra cho cả một cộng đồng người trong xã hội. Thông thường những người có ý thức chấp hành, tuân thủ những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình thì cũng là những người có ý thức chấp hành những quy định pháp luật của nhà nước ban hành.

Đối với các nhà chức trách, các già làng, trưởng bản người dân tộc thiểu số thì ý thức về luật tục của dân tộc họ có tác động quan trọng đến việc thực hiện pháp luật. Như các thành viên khác trong cộng đồng, họ cũng có ý thức thực hiện luật tục đã được ăn sâu trong suy nghĩ và chi phối hành vi của họ. Song là những người đứng đầu trong cộng đồng người, họ thường xuyên phải đứng ra thực hiện những hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan đến các tổ chức, cá nhân khác trong buôn làng mình. Khi đưa ra những quyết định để thực hiện pháp luật, họ đều phải tính đến cả sự phù hợp với các phong tục, tập quán của dân tộc nói chung và những quy định của luật tục nói riêng. Như vậy, pháp luật của nhà nước đã được thực hiện trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số qua những người đứng đầu này. Sự lồng ghép những quy định chung của pháp luật với những quy định riêng biệt của luật tục mỗi dân tộc sẽ được thực hiện và chấp nhận một cách hợp lý, nhanh chóng. Đồng nghĩa với đó là những tư tưởng chủ đạo của pháp luật sẽ được lồng ghép trong luật tục, loại bỏ dần những quy định lạc hậu, cản trở sự phát triển của xã hội trong luật tục. Đây chính là sự tác động mạnh mẽ của luật tục đối với việc thực hiện pháp luật trong cộng đồng người các dân tộc thiểu số.

1.3.2. Sự tác động của pháp luật đến luật tục Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Với vai trò là công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, pháp luật có tác động mạnh mẽ đến hầu hết các phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà trong đó có luật tục.

Pháp luật ghi nhận, củng cố và bảo vệ những quy định tiến bộ của luật tục.

Pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng bộ máy quyền lực được tổ chức chặt chẽ từ trung ương tới địa phương nên pháp luật có tác động mạnh mẽ tới luật tục. Pháp luật củng cố và bảo vệ những quy định tiến bộ của luật tục. Pháp luật được xây dựng dựa trên nền tảng là những phong tục, tập quán tốt đẹp của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó có những quy định của luật tục. Pháp luật góp phần hỗ trợ, đảm bảo cho các quy định tiến bộ của luật tục được thừa nhận và phổ biến rộng hơn trong toàn xã hội, đó là sự thừa nhận chính thức của nhà nước đối với những quy định của luật tục. Nhờ có sự thừa nhận này của nhà nước mà luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn trọng và bảo vệ bằng chính các biện pháp của nhà nước. Khi có hành vi vi phạm luật tục xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền không những áp dụng các biện pháp xử lý căn cứ theo quy định của luật tục mà còn áp dụng cả những biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Như vậy, luật tục đã được đảm bảo thực hiện tốt hơn, phát huy tối đa sự điều chỉnh của mình đối với các quan hệ xã hội nảy sinh trong cộng đồng.

Để củng cố và bảo vệ những quy định tốt đẹp mang tính tiến bộ trong luật tục, pháp luật ghi nhận các quy định đó và truyền bá rộng rãi trong xã hội, có những quy định nghiêm cấm những hành vi vi phạm những phong tục, tập quán tốt đẹp trong đó, thực hiện nghiêm túc trên thực tế. Khi các quy định của luật tục được truyền bá rộng rãi, khoảng cách sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được rút ngắn, hòa nhập với đời sống chung của cả cộng đồng. Như vậy, các dân tộc tôn trọng những phong tục, tập quán tốt đẹp của nhau, cùng lấy pháp luật làm khuôn mẫu xử sự chung cho hành vi của mình, khối đại đoàn kết dân tộc vì thế được củng cố. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Pháp luật góp phần loại trừ những phong tục, tập quán, những quy định lạc hậu của luật tục.

Bên cạnh việc ghi nhận, bảo vệ những quy định tiến bộ trong luật tục, pháp luật còn có vai trò quan trọng trong việc loại trừ những phong tục, tập quán, những quy định lạc hậu, găn cản sự tiến bộ của cộng đồng người dân tộc thiểu số. Luật tục tồn tại trên cơ sở là hình thái ý thức xã hội, nó tồn tại lâu đời, được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã là thói quen của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong luật tục, có những quy định đã trở nên lạc hậu, làm cản trở sự phát triển tiến bộ của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng vẫn tồn tại và được người dân chấp nhận. Để loại bỏ những quy định lạc hậu này, pháp luật đóng vai trò quan trọng, bằng các quy định cụ thể pháp luật không cho phép hay cấm đoán việc thực hiện những hành vi, những phong tục lạc hậu, không có lợi cho sự phát triển của cộng đồng người dân tộc thiểu số; như việc không công nhận tục hôn nhân “nối nòi” của người Êđê. Kết hợp với đó, nhà nước ta có biện pháp tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số hiểu những quy định nào là lạc hậu, không còn phù hợp, vận động họ không thực hiện những hành vi đã lạc hậu theo quy định của luật tục. Nhà nước có những biện pháp khuyến khích và bắt buộc cộng đồng người dân tộc thiểu số thực hiện những hành vi tiến bộ, phù hợp với sự phát triển chung của cộng đồng, vì lợi ích của chính cộng đồng người dân tộc thiểu số.

Tuy vậy, để loại bỏ được những quy định đã lạc hậu trong luật tục cần được thực hiện một cách thận trọng, không thể áp dụng những quy định có phần cứng nhắc bắt buộc đồng bào các dân tộc thiểu số phải ngay lập tức từ bỏ những thói quen ăn sâu từ lâu đời. Làm tốt điều đó, nhà nước ta cần có những biện pháp cụ thể, nhất là việc duy trì, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

Pháp luật còn góp phần ngăn chặn việc hình thành những phong tục, tập quán, những quy định của luật tục trái với tiến bộ xã hội, trái với những quy định của pháp luật, góp phần hình thành những phong tục, tập quán tiến bộ mới.

Đồng bào người dân tộc thiểu số sinh sống ở những buôn làng xa xôi, hẻo hánh, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, điều kiện tiếp xúc với những thông tin tiến bộ, những quy định của pháp luật còn hạn chế. Chính vì thế, những quy định phản tiến bộ, lạc hậu vẫn tiếp tục được phát sinh trên cơ sở niềm tin vào thần linh, trời phật của người dân là không thể tránh khỏi. Cùng với đó là tình trạng một số phần tử xấu lợi dụng sự kém hiểu biết của đồng bào dân tộc thiểu số, niềm tin vào thần linh để tuyên truyền những luận điểm trái với quy định của pháp luật, đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của đồng bào, đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Để tình trạng này không tiếp tục phát sinh, pháp luật đóng vai trò quan trọng nhất. Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc cải thiện đời sống cho cộng đồng người dân tộc thiểu số, đồng thời tiến hành nhiều biện pháp để cho họ tiếp cận nhiều hơn với pháp luật, với những quy định tiến bộ của Đảng và nhà nước. Pháp luật từ đó cũng dần đi vào cuộc sống của người dân tộc thiểu số, góp phần đáng kể trong việc ngăn chặn những phong tục, tập quán, những quy định mới lạc hậu tiếp tục hình thành trong luật tục; ngăn chặn những luồng tư tưởng từ các phần tử xấu đi ngược lại quy định tốt đẹp của luật tục, phá hoại tinh thần đoàn kết của dân tộc ta.

Pháp luật còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các quy định mới của luật tục. Khi pháp luật đã được tuyên truyền, thực hiện trong cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều những quy định của pháp luật phù hợp với cuộc sống của họ, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng sẽ dễ dàng được người dân chấp nhận và tuân thủ. Trong trường hợp này, những quy định mới sẽ được bổ sung, hình thành trong luật tục. Như vậy, những quy định tiến bộ này được pháp luật ghi nhận và ủng hộ, củng cố thêm vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh mới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.

Tóm lại, giữa pháp luật và luật tục có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Khi phù hợp với nhau, chúng bổ sung cho nhau, tạo nên hiệu quả điều chỉnh mạnh mẽ đối với hành vi của con người, đặc biệt là với đồng bào các dân tộc thiểu số. Sự phù hợp giữa pháp luật và luật tục, sự bổ sung, điều chỉnh theo hướng tích cực cho nhau giữa chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, quan trọng nhất là sự nhận thức đúng đắn của Nhà nước ta về vai trò điều chỉnh xã hội của cả pháp luật và luật tục. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục Ở VN

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thực tiễn Pháp luật và luật tục ở Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993