Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quan Điểm Và Các Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Quan điểm về quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân Việt Nam

3.1.1.Quan điểm

Trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam, quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền quan trọng của con người. Vì vậy, quyền này khổng chỉ được bảo vệ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia là Hiến pháp mà còn được chi tiết hoá trong các văn bản luật của Việt Nam. Các bản Hiến pháp từ trước đến nay đền quy định cụ thể trách nhiệm của nhà nước trong việc phải tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân thực hiện các quyền con người cơ bản, trong đó có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí. Ngược lại, không ai được quyền lợi dụng các quyền này để xâm phạm đến lợi ích của nhà nước và nhân dân. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Bên cạnh quy định về các quyền tự do ngôn luận, pháp luật Việt Nam cũng quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của nhà nước cũng như của công dân, điều đó phù hợp với các quy định của luật quốc tế. Việc ghi nhận quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân trong pháp luật Việt Nam, một mặt thể hiện đòi hỏi nội tại về phát triển tự do của con người Việt nam, Mặt khác, thể hiện sự thực thi cam kết của đất nước ta khi gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền của con người, là giá trị mang tính phổ quát được thừa nhận chung và rộng rãi. Ý nghĩa tích cực của nó, cá nhân khi bày tỏ ý kiến của mình là mong muốn được người khác, được xã hội biết đến để cùng bàn luận, giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra.

Như vậy, quyền tự do ngôn luận nói chung, quyền tự do ngôn luận trên báo chí nói riêng là một quyền con người được pháp luật bảo vệ. Mặc dù nhà nước đã tạo các điều kiện để mọi công dân có thể được thụ hưởng quyền trên, tuy nhiên cần nhìn nhận một cách thực tế tại Việt nam, quyền tự do ngôn luận trên báo chí phần nào đã bị lạm dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích quốc gia, trật tự xã hội.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.1.2. Luật hoá quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân ở Việt Nam

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí theo quy định của pháp luật Việt Nam được thể hiện trên hai phương diện:

Thứ nhất, nhà nước đảm bảo để cá nhân công dân có quyền giữ quan điểm riêng của mình, các cơ quan, tổ chức của nhà nước có trách nhiệm phải lắng nghe và tôn trọng quan điểm của công dân.

Thứ hai, trong khi thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, công dân có trách nhiệm phải tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ, đạo đức xã hội.

Quyền này được quy định trong Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Xuất bản năm 2012, Luật Báo chí năm 1999 và nhiều văn bản dưới luật khác.

3.1.3. Nâng cao nhận thức của công dân về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Thực trạng về trình độ dân trí, cũng như các ý thức chủ quan của quần chúng nhân dân ở nước ta đang đặt ra yêu cầu rất lớn đối với Đảng và nhà nước ta không chỉ trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin mà còn trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Để xây dựng và phát triển các quyền này thì một yêu cầu quan trọng là phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao ý thức tham gia của nhân dân. Để triển khai công tác này giữa các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước phải có sự gắn kết chặt chẽ với nhau.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phát triển chất lượng dạy và học, đổi mới hình thức giảng dạy, áp dụng khoa học công nghệ trong giảng dạy. Việc xây dựng một chương trình giảng dạy về cách thức và nguyên tắc trong tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin… trong môi trường sư phạm là rất quan trọng, bởi vì các học sinh, sinh viên đang là những người tiếp cận tri thức, tìm hiểu những vấn đề mới mẻ trong xã hội, vì thế họ không những chỉ biết học mà cần có sự chủ động tìm hiểu, khai thác các kiến thức, thông tin về các kiến thức mà mình đang học. Điều này sẽ tạo ra cho học sinh, sinh viên có thói quen chủ động trong học tập, trong tiếp nhận thông tin, mai này khi họ ra trường và công tác thì họ có thể là người luôn chủ động trong mọi công việc của mình.

Tuy nhiên, việc phát triển giáo dục không chỉ tập trung ở các thành phố, vùng phát triển mà còn phải chú trọng đảm bảo sự phát triển giáo dục ở các vùng miền trong cả nước. Đối với các vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa phải tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp, đường xá, thiết bị dạy học. Tiến hành cải cách giáo dục, phổ cập giáo dục trong cả nước, thường xuyên tổ chức các buổi thực hành cho học sinh, sinh viên kết hợp học đi đôi với thực hành.

Trong việc nâng cao trình độ dân trí, Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan gánh trọng trách nặng nề, vì thế để bảo đảm việc tiếp cận thông tin tốt, thông tin được công khai ở nước ta đạt hiệu quả thì trong giai đoạn tới Đảng và nhà nước cần tích cực đầu tư cho giáo dục.

Bộ Thông tin và Truyền thông cần có phương hướng tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào QLNN, đưa các dự án, chính sách pháp luật đi vào đời sống nhân dân, đặc biệt là trong những đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong những chương trình ban hành sửa đổi Hiến pháp và pháp luật, dự án kinh tế – Xã hội, khoa học công nghệ, y tế… như thế thì quần chúng nhân dân mới biết, hiểu được Đảng và nhà nước ta đang làm gì. Ở các vùng có điều kiện khó khăn, cần đẩy mạnh xây dựng hệ thống thông tin, điện lưới… đảm bảo phục vụ việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào quá trình tìm hiểu, học tập nâng cao trình độ, nhận thức của mình về các vấn đề chính trị, KT – VH – XH.

Bộ Lao động thương binh và Xã hội cần đề nghị Chính phủ ban hành các đề án nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, tuyên truyền về chính sách pháp luật của nhà nước cho người lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, Khu chế xuất… Thường xuyên vận động công nhân, người lao động tham gia thực hiện nghĩa vụ của mình như bầu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, góp ý với nhà nước về chính sách và pháp luật.

Các sở, phòng, ban ở cơ quan hành chính địa phương cần nghiêm túc thực hiện Chỉ thị của Chính phủ, Hướng dẫn của các bộ, ngành. Kết hợp nhuần nhuyễn về hoạt động QLNN giữa Trung ương và địa phương trong công tác bảo đảm thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Việc đổi mới tư duy nhận thức của công dân cần được thực hiện liên tục và thường xuyên, phát huy mọi nguồn lực giúp người dân có ý thức hơn trong việc tiếp cận thông tin và việc đảm bảo các quyền. Phải đảm bảo rằng thông tin là nhu cầu thiết yếu công dân, một khi nhân dân đã ý thức được vai trò của mình đối với hoạt động tiếp cận thông tin, đẩy mạnh công khai thông tin… thì điều đó sẽ làm xoay chuyển cục diện về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. Quan điểm, giải pháp là vậy, nhưng nếu nhà nước và xã hội không áp dụng thiết thực, hoàn thiện thì không bao giờ tiếp cận thông tin trở thành một văn hoá ở Việt Nam. Do vậy chúng ta cần phải sớm khắc phục tình trạng thực hiện qua loa, đại khái, chỉ cốt là che mắt thiên hạ dẫn tới công khai thông tin hình thức, cho qua, hoặc công khai thông tin không chính xác. Ngoài ra, trên cơ sở Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, nhà nước cần phải đưa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin vào nội quy, quy chế của từng bộ, từng ngành, từng cấp, từng cơ quan, đơn vị, đảm bảo ở tất cả mọi nơi, tạo nên một nền văn hoá chính trị đặc sắc và hiệu quả với mỗi công dân.

3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết thực hiện theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, nhà nước và chế độ XHCN. Dù vậy, những luận điệu này trở nên lu mờ trước thực tế sinh động về tự do ngôn luận, tự do báo chí Việt Nam, đặc biệt trong những thực tế ngày này.

3.2.1. Tăng cường bảo đảm trách nhiệm là thành viên Liên hợp quốc

Là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9/1/1946 đã hiến định tại Điều “công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.

3.2.2. Tăng cường các biện pháp giáo dục, tuyên truyền Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Trên thực tế, không riêng ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia tuy có cách tiếp cận không giống nhau về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng đều có một nguyên tắc cơ bản là việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải phù hợp với tình hình, điều kiện lịch sử, văn hóa, trình độ dân trí, thể chế chính trị của mỗi nước và không được phép lợi dụng quyền cơ bản này để xâm hại lợi ích quốc gia – Dân tộc, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác và ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, trật tự xã hội. Điều 11, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp đã quy định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người.

Thế giới từng có những bài học về việc báo chí đi quá giới hạn tự do cho phép, nên phải giá rất đắt. Tháng 9 – 2005, tờ báo Jyllands-Posten (Đan Mạch) đăng tải 12 bức tranh biếm họa về đấng tiên tri Muhammad của Hồi giáo. Sau đó, bức tranh biếm họa này tiếp tục xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Pháp, Na Uy, Hà Lan, Italy, Tây Ban Nha. Vụ việc đã gây nên một làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của những người theo đạo Hồi trên toàn thế giới dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Tháng 7 – 2011, tờ News of the World (tin tức thế giới) của nước Anh đã phải đình bản vĩnh viễn sau 168 năm hoạt động vì bị công chúng cáo buộc nhiều phóng viên bản báo này đã đột nhập điện thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin”. Nhắc lại hai ví dụ trên để thấy, trên thế giới không có quốc gia nào cho phép tự do báo chí, tự do ngôn luận “đứng trên, đứng ngoài” luật pháp và xâm hại đến an ninh quốc gia. Nếu vi phạm điều này, báo chí sẽ bị công chúng tẩy chay và bị những chế tài xử lý thích hợp.

3.2.3. Tăng cường các biện pháp bảo đảm giới hạn quyền tự do ngôn luận

Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định. Giới hạn này đặt ra để bảo đảm quyền tự do chính đáng cho số đông mọi người, luôn nói và viết chỉ vì động cơ cá nhân ích kỷ, thiên vị mà không vì sự ổn định, đồng thuận chung của xã hội, cộng đồng. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Như trong đợt đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam không chỉ đối mặt với loại virus nguy hiểm này, mà còn phải đối mặt với vấn nạn tin giả tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này xuất phát từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai trái, thất thiệt, tác động tiêu cực đến dư luận xã hội và an ninh truyền thông. Do đó, ngăn chặn, xử lý những đối tượng gây ra nạn “hoang tin” trên mạng xã hội chính là góp phần bảo đảm sự trong sạch của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thành công của Việt Nam trong công tác phòng, chống, kiểm soát đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, có một phần bắt nguồn từ việc Đảng, nhà nước Việt Nam và các cấp, các ngành đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân, đồng thời phát hiện, ngăn chặn kịp thời những thông tin sai trái về dịch bệnh trên mạng xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, nhà nước ta luôn xác định việc bảo đảm, thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng để khơi dậy, phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức mạnh tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn có tinh thần cầu thị, tích cực tiếp thu, học hỏi, tham khảo những kinh nghiệm tiến bộ của các quốc gia khác để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.

Để bảo đảm quyền lợi, tự do chính đáng cho số đông công dân, chúng ta cũng không chủ quan, lơ là, mà phải luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện, kiên quyết vạch trần, kịp thời bác bỏ mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị cố tình lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí nhằm đưa ra những thông tin sai trái, xuyên tạc, tác động tiêu cực dư luận xã hội, xâm hại an ninh truyền thông quốc gia, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam.

3.2.4 Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Trước những diễn biến mới trên mặt trận tư tưởng, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; tiếp đó, ngày 25/3/2018, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch số 14-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 35. Theo Kế hoạch 14, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35 cần gắn với việc tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng có liên quan. Riêng vấn đề chống lại việc lợi dụng quyền tự do ngôn luận, nhằm lôi kéo, kích động, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Một số giải pháp cơ bản:

Thứ nhất,sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NĐ/TW, đồng thời phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, trước hết là của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch… Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, qua điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW với kế hoạch trước mắt, lâu dài cùng lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học.

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW, Kế hoạch số 14-KH/TW một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn, giáo điều khó đi vào cuộc sống. Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14 đã được xác định rõ là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường lên CNXH ở nước ta trong tình hình mới; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, đồng thời các cấp, các ngành chức năng cần kịp thời cung cấp thông tin chính xác, khách quan để đấu tranh, phản bác, định hướng dư luận trước những thông tin trái với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, giúp cấp uỷ cơ sở có sự định hướng kịp thời.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt là về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội,… để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh vào công cuộc phát triển đất nước. Bên cạnh đó, cần phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế – xã hội những năm qua, để tạo đà cho những bứt phá tiếp theo với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa trong thúc đẩy đà tăng trưởng, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước.

Thứ tư, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương. Có thể khẳng định việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, khôi phục lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể nóng vội. mắc sai lầm, nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng bước”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Thứ năm, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước mọi thủ đoạn tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó và nhân danh “tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu khống đất nước bằng nhiều hình thức. Các cơ quan báo chí cần tăng cường thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tránh chỉ dồn việc này cho một số cơ quan báo chí vốn lâu nay chuyên đảm trách vấn đề này. Đồng thời, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp nhằm kịp thời, chủ động nhận diện,đấu tranh bài bản, khoa học, thuyết phục, hiệu quả, xác đáng trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lục thù địch, phản động.

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “đòi công lý cho nhân dân” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ,… trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau. Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài, có hệ thống để đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật.

Có như thế thì quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, tuỳ ý, vô lối nhằm lôi kéo, kích động gây mất an ninh trật tự, phá hoại đất nước, kêu gọi bạo loạn lật đổ… rồi dần dần, bằng sức mạnh đoàn kết của dân tộc, của nhân dân, những kể lợi dụng quyền tự do ngôn luận đó không còn khả năng tồn tại và bị triệt tiêu, trả lại môi trường lành mạnh cho quyền tự do ngôn luận chân chính, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

3.3. Điều kiện cần có để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí của công dân Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với báo chí, truyền thông và công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng Quyền tự do ngôn luận, Quyền tự do báo chí chống phá Việt Nam. Đồng thời giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan báo chí, truyền thông với cả bốn khâu: Định hướng phát triển; định hướng nội dung; công tác các bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát. Đặc biệt coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, lãnh đạo các cơ quan báo chí, truyền thông.

Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet, mạng xã hội; tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng trong công tác chỉ đạo, quản lý trong lĩnh vực này. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp; các chế tài xử lý vi phạm đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe những biểu hiện vi phạm.

Ba là, cán bộ làm công tác báo chí phảm làm tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Do đó, mỗi nhà báo cần không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng, thực hiện tốt Luật Báo chí và các quy định của pháp luật trên lĩnh vực báo chí; hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực báo chí, truyền thông. Qua đó, chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc ở các cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, nhà báo để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh.Đặc biệt, qua công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và đối ngoại, qua nhiều kênh và nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Qua đó quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần đấu tranh hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Như vậy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đối với chế độ xã hội và nhà nước là một điều kiện bảo đảm quyền con người. Hơn nữa, còn là một điều kiện quan trọng để phát triển xã hội về các mặt, từ tư tưởng, chính trị đến KT – VH – XH. Quyện tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam đã được hiến định bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật minh bạch. Mọi luận điệu xuyên tạc quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của Việt Nam cần phải bị bác bỏ, lên án.

3.4. Đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân trên nền báo chí cách mạng Việt Nam trong tình hình mới

95 năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện, trưởng thành, phát triển và có những đóng góp quan trọng trong quá trình chiến đấu, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, đòi hỏi mỗi cơ quan báo chí và những người làm báo cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm để thực hiện tốt sứ mệnh của mình trong tình hình mới.

3.4.1. Xây dựng và củng cố niềm tin

Kể từ khi ra đời, nền báo chí cách mạng Việt Nam do Hồ Chủ tịch sáng lập đã luôn đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng Việt Nam; làm tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trên mặt trận, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu, xây dựng, bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước. Cùng với những thành tựu to lớn, toàn diện của đất nước, báo chí nước ta đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Diện mạo, số lượng, chất lượng các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và công nghệ làm báo… đã đạt được những bước tiến lớn. Chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa, tính định hướng và kỹ thuật – nghiệp vụ của báo chí ngày càng được nâng cao. Đội ngũ những người làm báo tăng nhanh về số lượng, trình độ nghiệp vụ làm báo được nâng cao, làm chủ công nghệ làm báo hiện đại phù hợp với xu hướng mới của thế giới.

Theo đó, báo chí đã chủ động, tích cực tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; phản ánh kịp thời thực tiến, diễn biến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, góp phần định hướng, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng; quảng bá hình ảnh, uy tín của đất nước, con người Việt Nam. Báo chí tham gia tích cực, tiên phong trong công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ uy tín, vị thế của Đảng, nhà nước, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước cũng như đối với công cuộc đổi mới.

Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2020, trước những diễn biến phức tạp, thách thức chưa từng có của đại dịch Covid-19, hàng trăm nhà báo không ngại hiểm nguy đã có mặt trên tuyến đầu chống dịch, kịp thời thông tin diễn biến dịch bệnh, cổ vũ những việc làm cao đẹp của các lực lượng thầy thuốc, quân đội, công an… nêu gương những cá nhân, cộng đồng, phát huy truyền thống nhân ái, góp công, góp sức ủng hộ công cuộc ngăn chặn và đẩy lùi đại dịch và được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

3.4.2.Tiếp tục hoàn thành sứ mệnh lịch sử Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển và diễn biến khó lường; xu hướng bảo hộ, chủ nghĩa dân tuý, tư tưởng chính trị cực đoan, xung đột thương mại…và các tác động của cuộc các mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo và gần đây là tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19… càng tạo ra những luồng thông tin đa chiều, khó kiểm soát, thậm chí nhiễu loạn gây áp lực lên mọi quốc gia, nền kinh tế.

Những thành tựu của khoa học – công nghệ đã làm cho báo chí có bước phát triển vượt bậc, song, cũng tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của báo chí truyền thống, tạo ra sự “cạnh tranh” giữa báo chí truyền thống với mạng xã hội.

Những thành phần chống phá lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, internet lợi dụng cái mác “dân chủ, nhân quyền”, “lòng yêu nước”, “bảo vệ môi trường” hay một số vụ việc tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên để lôi kéo một nhóm người kém hiểu biết, ảo tưởng, bất mãn hay có lòng tham để lôi kéo, chống phá Đảng, nhà nước và sự bình yên của đất nước bằng nhiều công cụ, phương tiện, hình thức khác nhau, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền qua mạng xã hội.

Cụ thể, báo chí cần “thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân”. Để làm được điều này, mỗi nhà báo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiệt huyết và thái độ bình tĩnh trước mọi vấn đề; phải có tấm lòng trong sáng, không để tiêu cực chi phối, không bị tình cảm cá nhân lấn át, mất đi tính khách quan, trung thực của mỗi tác phẩm báo chí.

Báo chí phải tiếp tục là lực lượng xung kích trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, nhất là những thông tin sai trái trên internet, mạng xã hội. Kịp thời phát hiện cổ vũ, giới thiệu gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, góp phần xây dựng, củng cố, vun đắp bản lĩnh, trí tuệ, văn hóa, đạo đức, tinh thần, ý chí và khí phách con người Việt Nam…

Thiết nghĩ, trong tình hình mới, hơn lúc nào hết, các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người làm báo cần ý thức được vai trò trách nhiệm; phát huy những thành quả đạt được, kiên định đường lối chủ trương của Đảng, nhà nước; không ngừng cập nhật thông tin, học hỏi, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như chấp hành nghiêm các quy định đạo đức nghề nghiệp… để có cái nhìn toàn diện hơn về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội trong nước và thế giới từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ, sứ mệnh của mình, lan toả sự tốt đẹp, tính nhân văn của nền báo chí cách mạng Việt Nam, tiếp tục xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, nhà nước trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng toàn cầu.

Báo chí phải góp phần khơi dậy và nuôi dưỡng khát vọng Việt Nam hùng cường: Nhân dịp kỷ niệm 95 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2020), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có thư gửi tới các đại biểu tham dự hội nghị gặp mặt, tuyên dương người làm báo tiêu biểu nói riêng và toàn thể cán bộ, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, những người làm báo cả nước nói chung những tình cảm gắn bó thân thiết và những lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Thư Thủ tướng viết: Trong gần một thế kỷ qua, kể từ ngày báo Thanh niên – tờ báo khởi đầu của nền báo chí cách mạng Việt Nam, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, xuất bản số báo đầu tiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng báo chí cách mạng nước ta không ngừng lớn mạnh, khẳng định được vai trò quan trọng và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Trong những năm qua, báo chí đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, phản ánh sinh động mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội; tích cực tuyên truyền những giá trị tốt đẹp, nhân tố mới, mô hình, cách làm hay và tấm gương người tốt, việc tốt; đưa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thân thiện, hòa bình, hữu nghị đến với bạn bè năm châu, bốn biển.

Các nhà báo của chúng ta luôn đi đầu trên mặt trận đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; Tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phê phán những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội, là diễn đàn để đông đảo quần chúng nhân dân đóng góp ý kiến cũng như thực hiện quyền giám sát công tác điều hành của chính quyền các cấp từ Trung ương tới địa phương.

Nhiều phóng viên đã không quản gian khổ, hy sinh, sẵn sàng “vào sinh, ra tử” trong “mưa bom, bão đạn” của chiến tranh hoặc đối mặt với những “hiểm nguy”, kịp thời có mặt tại những “điểm nóng”, “ổ dịch bệnh nguy hiểm” để hoàn thành sứ mệnh cao cả của người làm báo.

Chính phủ kêu gọi báo chí cách mạng Việt Nam cần bám sát quan điểm chính trị, sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của nhà nước, diễn biến tình hình trong nước và quốc tế để phản ánh một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời về đời sống xã hội của đất nước, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Báo chí và các nhà báo phải thể hiện được chính nghĩa, phản ánh được “dòng chảy chính” của xã hội, của đất nước, phải “phò chính, diệt tà”. Mỗi bài viết, bản tin, hình ảnh đều phải lan tỏa những giá trị tốt đẹp và năng lượng tích cực, tạo niềm tin, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần khơi dậy và nuôi dưỡng khát vọng về một đất nước Việt Nam hùng cường, giàu mạnh”.

Trong bối cảnh truyền thông xã hội phát triển như vũ bão hiện nay, làm báo mang tới nhiều cơ hội nhưng cũng vô vàn thử thách, gian nan. Hơn lúc nào hết, đội ngũ người làm báo cần luôn trau dồi bản lĩnh, tính chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, giữ vững giá trị cốt lõi và khẳng định sứ mệnh vẻ vang của báo chí cách mạng Việt Nam.

Tiểu kết chương 3

Công khai quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin của người dân vào nhà nước, còn che giấu sẽ tạo hiệu ứng ngược lại. Niềm tin của nhân dân là yếu tố then chốt tạo ra sự ổn định chính trị, nên công khai thông tin và tự do nêu ý kiến trên các phương tiện thông tin đại chúng cần phải được coi là một ưu tiên của nhà nước, nhằm bảo đảm cho mọi người dân, tổ chức có thể bày tỏ quan điểm, tiếp cận thông tin một cách dễ dàng hơn, nhằm có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, mang lại rất nhiều lợi ích, khuyến khích sự tham gia của người dân vào quá trình QLNN một cách chủ động, thực chất và hiệu quả hơn…

Thông tin phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những chính sách, quyết định đúng đắn hơn, phù hợp với lòng dân hơn, tăng hiệu lực, hiệu quả trong QLNN.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Trước thực tế được phân tích trong Luận văn, cần tập trung thực hiện những giải pháp nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân, đồng thời tiếp tục đấu tranh có hiệu quả đối với các quan điểm xuyên tạc, vu cáo về quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam hiện nay.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy nhằm tổ chức thực hiện thiết thực, hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới trong toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội. Theo đó, quan điểm xuyên suốt là phải thật sự gắn kết biện chứng hai nội dung: Đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch là để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và ngược lại. Điều quan trọng trước tiên là phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 35 – NQ/TW, Văn phòng Ban chỉ đạo, các Tổ thư ký và giúp việc, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu và của Trưởng ban chỉ đạo. Có biện pháp thiết thực nhằm huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội vào việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW chứ không coi đó là công việc của cấp ủy, của Ban Tuyên giáo các cấp, của các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị và của các nhà khoa học.

Hai là, tiếp tục rà soát, điều chỉnh nhằm hoàn thiện thể chế, cơ chế đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Trước tiên, phải nhận thức đúng về tính chất của cuộc đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực tự do ngôn luận là công việc phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến quyền con người, đến hoạt động đối ngoại. Vì thế, cần mở rộng quan niệm về thể chế, cơ chế theo hướng coi đó là thể chế, cơ chế của toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội, nhưng trong đó, thể chế, cơ chế của nhà nước, của hệ thống chính trị phải giữ vai trò trung tâm, chủ đạo. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của nhà nước có liên quan đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí (nhất là Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng) theo hướng cụ thể hóa và cập nhật các điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong tình hình mới. Trong đó, các hành vi vi phạm phải được chỉ ra cụ thể, đầy đủ hơn, các chế tài xử lý đối với các hành vi đó phải đạt lý thấu tình hơn. Tiếp tục kiện toàn các cơ quan báo chí theo Quyết định số 362/QĐ – TTg ngày 30/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025. Có lộ trình thực tế để giải quyết các vấn đề phát sinh từ việc sử dụng mạng xã hội như hiện nay. Tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước về báo chí, nhất là gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng (hoặc để bị lợi dụng) quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhằm mục đích xấu hoặc những động cơ cá nhân gây bất lợi cho hoạt động quản lý nhà nước, cho việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, của ngành và chính quyền địa phương. Để có được sự xử lý công bằng, hợp lý cần phân biệt những hành vi “Sai trái” do hạn chế về nhận thức hoặc bất mãn, bị lừa gạt, lôi kéo với những hành vi “Thù địch”, có động cơ, mục đích chống phá chế độ, tiếp tay cho bọn phản động trong và ngoài nước. Cần kết hợp công tác kiểm tra, thanh tra thường xuyên với kiểm tra, thanh tra đột xuất theo vụ việc, lấy hiệu quả làm tiêu chí đánh giá. Đồng thời, có hình thức, phương pháp và cơ chế huy động sự tham gia tự giác của nhân dân vào việc giám sát thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở từng khu vực dân cư, cơ quan, đơn vị và địa phương. Nếu không như vậy, các cơ quan chức năng dẫu có “Ba đầu sáu tay” cũng không thể nào thực hiện nỗi nhiệm vụ của mình, nhất là trong điều kiện bùng nổ của cách mạng công nghệ, sự phức tạp và lan truyền nhanh chóng của thông tin hiện nay. phải dựa trên tiền đề vật chất. Trong quá trình sử dụng và thay đổi giới tự nhiên, trước tiên con người phải hoàn toàn tôn trọng giới tự nhiên và tuân theo quy luật vốn có của nó. Bên cạnh đó, con người phải biết phát huy tính năng động chủ quan của mình, đồng thời phải tôn trọng quy luật tự nhiên. Ngoài ra, phải thiết lập được chế độ XHCN, thúc đẩy sự phát triển hài hòa giữa con người với giới tự nhiên. Để cải thiện môi trường sinh thái toàn cầu, con người phải hết sức coi trọng đặc điểm của thời đại kết nối toàn cầu, thực hiện nhất quán ba nguyên tắc: Nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc tiến bộ khoa học và công nghệ, nguyên tắc quan hệ xã hội trong thực tiễn sinh thái của con người đương đại, đồng thời nỗ lực thúc đẩy giải quyết sớm vấn đề khủng hoảng sinh thái của loài người đương đại

Bốn là, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương cần tăng cường thông tin đối ngoại về thực tiễn bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, cần thông tin đầy đủ, khách quan việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xuyên tạc sự thật, vu cáo và chống phá chế độ chính trị, cản trở sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Trong đó, phải thông tin rõ ràng những dấu hiệu vi phạm và những căn cứ pháp lý để các cơ quan chức năng xử lý vi phạm đó. Không hiếm những trường hợp do thiếu thông tin mà một số tổ chức, cán nhân nước ngoài (kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài) đã không hiểu đúng sự thật, từ đó mà có những phản ứng gây bất lợi cho chúng ta. Thực tế cho thấy, bớt đi những áp lực từ bên ngoài sẽ giúp chúng ta có điều kiện để giải quyết tốt hơn các vấn đề đối nội, trong đó, có việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy, Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ tiếp cận luật học về quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam hiện nay. Luận văn phân tích những tiêu chuẩn quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong pháp luật của một số nước có ý nghĩa với Việt Nam, tính tương thích của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về quyền tự do ngôn luận nói chung và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân nói riêng. Từ đó luận văn góp phần làm rõ thực trạng bảo đảm quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam ta hiện nay:

  • Mô tả và đánh giá thực trạng chính sách và pháp luật về quyền tự do ngôn luận.
  • Thực trạng thiết chế bảo đảm quyền tự do ngôn luận.
  • Thực trạng tổ chức thực hiện quyền tự do ngôn luận của các cơ chế bảo đảm quyền tự do ngôn luận và thực trạng các điều kiện bảo đảm quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, đánh giá, phân tích luận văn các định các quan điểm định hướng, đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả bảo đảm quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Điển hình như, xây dựng môi trường thực sự dân chủ trong hệ thống các cơ quan Đảng, Chính phủ và các tổ chức xã hội; nâng cao nhận thức của công dân về quyền tự do ngôn luận; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý – tạo điều kiện bảo đảm quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam; nâng cao hiệu quả của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận trên báo chí hiện nay. Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí […]

trackback

[…] ===>>> Luận văn: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí […]

2
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993