Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Sứ mệnh xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ra đời cùng các văn bản pháp luật liên quan khác luôn chứa các quy định về lĩnh vực luật sư, từ những quy định nhỏ lẻ cho đến việc hình thành một mục riêng biệt cho thấy cách nhìn nhận vị trí và vai trò của hành nghề luật sư ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Có thể nói, luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu, rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở Việt Nam.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, trong hành nghề luật sư còn có mặt hạn chế và nhiều lỗ hổng cần được khắc phục. Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít những luật sư vi phạm các quy định pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp, làm phát sinh nhiều vụ việc khiến dư luận ngày càng mất lòng tin vào nền tư pháp nước nhà. Những hành vi sai phạm này không những làm thay đổi cái nhìn về giới luật sư từ phía người dân, mà còn làm phát sinh các tiêu cực trong chính các cơ quan nhà nước, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Với vị trí và vai trò của luật sư trong ngành Tư pháp và đời sống xã hội như đã nói ở trên, nghiên cứu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là công việc cần thiết để tìm được hướng khắc phục sai sót và hoàn thiện chất lượng ngành tư pháp nói riêng và hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhận thức được vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội và triển vọng của nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2005), Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”, do Nguyễn Văn Thảo làm Chủ nhiệm đề tài;
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời nghiên cứu thực trạng về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư qua đó đánh giá các mặt đạt và chưa đạt để hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về luật sư trong giai đoạn hòa nhập, đổi mới để tham gia đấu trường quốc tế của Việt Nam.
Nguyễn Thắng Lợi, Phó Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), bài viết “Nhiều điểm mới về xử phạt vi phạm hành chính góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp”, đăng trên website Bộ Tư Pháp, ngày 26/09/2013 – Hà Nội; Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Bài viết đi vào phân tích sơ bộ Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong 05 lĩnh vực, gồm: bổ trợ tư, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Đồng thời làm rõ các điểm mới của Nghị định này so với các Nghị định bị thay thế, cụ thể là Nghị định số 60/2009/NĐ-CP; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP. Bài viết được nhìn theo góc nhìn tổng quát, chủ yếu chỉ ra những điểm mới của Nghị định 110 chứ không đi sâu phân tích từng lĩnh vực mà Nghị định này quy định, trong đó có hành nghề luật sư.
Nguyễn Thành Vĩnh (2013), bài viết “Vai trò của luật sư trong tố tụng hành chính”, đăng trên website Sinhvienluatkhoa ngày 19/12/2013;
Nguyễn Văn Tuân (2013), Sách pháp luật “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư”, Nhà xuất bản Tư pháp – Hà Nội;
Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa một khía cạnh hay một cách khái quát về hành nghề luật sư ở Việt Nam. Chưa có đề tài nào đi sâu vào pháp luật về các hành vi và biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam. Đề tài “Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay” là một vấn đề mới cần nghiên cứu để bổ sung vào hệ thống tài liệu về Pháp luật hành chính để có những góc nhìn đa dạng và hoàn thiện toàn bộ hệ thống quy định pháp luật của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính, phân tích, đánh giá thực trạng về các hành vi, hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành nghề luật sư, cụ thể là những luật sư hành nghề với tư cách cá nhân ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Nhiệm vụ: Từ mục đích chung nêu trên, trong nội dung luận văn cần phải làm rõ một số vấn đề như sau:
Nghiên cứu nội hàm của khái niệm vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư, xem xét quá trình phát triển của chế định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tham khảo một số quy định của pháp luật quốc tế về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư.
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư và thực trạng thực thi các quy định này ở Việt Nam hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật, đảm bảo nâng cao hiệu quả thực thi các chế định về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là các quy định pháp luật hiện hành về hành vi vi phạm hành chính, hình thức và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các cá nhân hành nghề luật sư tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Quy định pháp luật về vi phạm hành chính của người hành nghề Luật sư với tư cách cá nhân trong phạm vi cả nước.
Phạm vi về thời gian: Thông qua lịch sử hình thành các quy định pháp luật đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam từ năm 1995 cho đến các lần sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp luật để rút ra những điểm kế thừa và điểm mới từ các văn bản pháp luật đang có hiệu lực hiện hành trong hành nghề Luật sư.
Phạm vi về đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về phạm hành chính trong hành nghề luật sư đối với đối tượng là cá nhân luật sư.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận của Luận văn được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
Cụ thể, phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc được sử dụng nhằm thu thập cơ sở lý thuyết, thành tựu lý thuyết đã đạt được, chủ trương và chính sách và số liệu thống kê liên quan đến nội dung của luận văn. Phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội nhằm xác định các đối tượng điều chỉnh của pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam, đồng thời là đối tượng hướng đến của luận văn. Phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật nhằm tổng hợp, sắp xếp, phân loại chính xác các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến đề tài, đi sâu nghiên cứu việc thực hiện pháp luật trên thực tiễn đời sống để đưa ra đánh giá và hướng hoàn thiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam; đưa ra các phân tích, đánh giá đối với thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư; từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những người đang học tập và nghiên cứu về chuyên ngành luật học, đặc biệt là nghiên cứu về các hành vi, thủ tục, thẩm quyền và cách thức xử phạt vi phạm hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam;
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1. Những khái niệm có liên quan đến pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
Theo quy định của pháp luật về luật sư của nhiều nước thì luật sư là người được một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư đa số là cơ quan Tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp), Tòa án Tối cao, Tòa án tiểu bang, Tòa án Liên bang. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Đa số các nước trên thế giới không có sự phân biệt về luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Trong khi đó, nước Anh và Úc thì vẫn còn đang phân chia luật sư thành hai loại là luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Luật sư ở Singapore, Pháp và Hoa Kỳ có mối liên hệ chặt chẽ với cơ quan Toà án, tồn tại song song hoặc trực thuộc các toà án.
Luật sư ở Singapore thuộc Toà án tối cao Singapore; các luật sư Pháp thành lập mỗi đoàn luật sư bên cạnh mỗi toà án thẩm quyền rộng. Luật sư ở Hoa Kỳ, ở Úc được công nhận và cho phép hành nghề theo lãnh thổ từng bang, trong phạm vi thẩm quyền tài phán của tòa án từng bang hoặc liên bang. Một luật sư có thể được phép hành nghề tại nhiều bang và phải tuân theo quy chế của từng bang đặt ra. Luật sư hành nghề tại tòa án tiểu bang cũng có thể xin công nhận và được phép hành nghề tại các Tòa án tối cao của liên bang.
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá nhân luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật phải được công nhận là luật sư. Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra khái niệm luật sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tùy theo quy định mỗi nước khác nhau về tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề luật sư mà xác định cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền công nhận một người là luật sư, cũng như thời điểm nào một người được công nhận là luật sư và giấy tờ gì chứng minh một người là luật sư ở mỗi nước là khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung, tiêu chuẩn phổ biến để được công nhận luật sư là: Là công dân ở nước sở tại; Có bằng cử nhân luật; Có phẩm chất đạo đức tốt. Ngoài các tiêu chuẩn trên, muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề, tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ cần đỗ kỳ thi quốc gia để được công nhận luật sư, điều đó còn phụ thuộc vào quy định pháp luật mỗi nước. Thẩm quyền công nhận có thể là Tòa án tối cao hay Bộ Tư pháp hoặc chỉ cần đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư.
Như vậy, ta có thể rút ra khái niệm luật sư như sau: Luật sư được hiểu là một chức danh bổ trợ tư pháp, có tư cách pháp lý độc lập, có đủ tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề luật chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng trước Tòa án, các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật.
Nghề luật là một khái niệm mang tính tương đối, được sử dụng để chỉ nghề nghiệp của những người có kiến thức pháp luật nhất định, đang thực hiện các công việc liên quan đến các mặt khác nhau của đời sống pháp lý tại tòa án, viện kiểm sát, văn phòng luật sư, cơ quan công an, cơ quan thi hành án, cơ quan công chứng và một số bộ phận trong các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước v.v… Do đó, nếu dùng cụm từ “nghề luật” thì theo cách biểu hiện của ngôn ngữ Việt là quá rộng, cụm từ này ý chỉ không phải chỉ là việc bào chữa, biện hộ trước Tòa án và làm tư vấn pháp luật (cung cấp dịch vụ pháp lý) của luật sư mà bao hàm toàn bộ hoạt động của ngành Tư pháp, của cả các chức danh tư pháp được Nhà nước trao quyền và cá nhân hoạt động tự do không phải là công chức, cán bộ Nhà nước.
Ở Việt Nam lâu nay trên các bài báo và tạp chí chúng ta thường thấy người viết vẫn hay sử dụng các cụm từ “nghề luật sư”, “hành nghề luật sư”. Thực ra như vậy không hoàn toàn chính xác về mặt ngôn ngữ. Bởi vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một nghề. Vì vậy trong tiếng Anh người ta dùng “Lawyer” (luật sư) và “Practice law” (hành nghề luật). Tuy nhiên, theo chúng tôi việc sử dụng các cụm từ “nghề luật sư” và “hành nghề luật sư” là phù hợp với thực tiễn của nước ta, có thể chấp nhận được. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt nó trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị, chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội. Nghề Luật sư là một nghề xuất hiện từ xa xưa và đang ngày càng phát triển, trở thành nghề có phương thức hành nghề tự do, được các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định. Lịch sử nghề Luật sư ở mỗi nước gắn liền với chế độ chính trị ở nước đó và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị nước đó.
Cụm từ “hành nghề luật sư” phải hiểu là việc luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.
Nghề luật sư có đặc thù riêng của nó, đây là một nghề mang tính trí tuệ rất cao, đòi hỏi kiến thức luật, vốn sống, suy nghĩ độc lập, bản lĩnh, sự nhanh nhạy để tìm hiểu vụ việc, bảo vệ quyền lợi thân chủ và đấu trí với các đối tượng liên quan đến vụ việc. Bởi vậy, người hành nghề luật sư, nhờ các kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức pháp luật đã được đào tạo và công nhận bởi Bộ Tư pháp, họ là người am hiểu pháp luật và có khả năng “lách” luật, qua mắt các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý để kiếm lợi bất chính. Chính bởi đặc điểm này mà công tác xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư đặc biệt khó khăn trên thực tiễn, đây là vấn đề mà Nhà nước cần xem xét, tìm hiểu và khắc phục để bảo đảm luật sư thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình là đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tóm lại, hành nghề luật sư là một nghề mà trong đó luật sư – một chức danh bổ trợ tư pháp – có quyền tự do trong phương thức hành nghề của mình, cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức hành nghề là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư – được thực hiện bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Các luật sư hành nghề theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có hai hình thức hành nghề Luật sư được pháp luật Việt Nam công nhận và nêu rõ trong các văn bản pháp luật là: luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân và luật sư làm việc trong các tổ chức hành nghề Luật sư. Tổ chức hành nghề Luật sư hiện nay gồm hai hình thức là Văn phòng luật sư và Công ty luật Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân còn được gọi là luật sư nội bộ, hình thức này được hiểu là một hoặc một nhóm luật sư làm việc theo hợp đồng lao động cho các tổ chức, doanh nghiệp mà không làm việc cho các Công ty Luật hoặc Văn phòng Luật sư. Phạm vi hành nghề của luật sư nội bộ là giải quyết các vấn đề pháp lý theo nhu cầu của chính tổ chức, doanh nghiệp nơi mình làm việc. Đặc biệt, do chủ yếu hoạt động trong các Doanh nghiệp nên luật sư nội bộ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp, thương mại và các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan khác.
Luật sư hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (Công ty Luật, hoặc Văn phòng luật sư) thường chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo sự phân công của tổ chức hành nghề.
Có thể thấy rõ nếu so sánh hai hình thức hoạt động hành nghề trong lĩnh vực luật sư này thì luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân ngoài có mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng như luật sư hành nghề trong một tổ chức hành nghề Luật sư, thì họ còn tồn tại một mối quan hệ nữa là Người lao động với Người sử dụng lao động. Cũng vì vậy mà luật sư hành nghề trong một Văn phòng Luật sư hay Công ty Luật có tính độc lập về các tư vấn pháp lý của mình hơn so với luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân do còn bị rành buộc bởi các quy định về nghĩa vụ của người lao động.
Dù có những điểm khác nhau nhưng mục đích chung của các luật sư dù hoạt động dưới hình thức nào cũng đều là đưa ra lời khuyên về mặt pháp lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì khái niệm vi phạm hành chính không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được đưa “lồng” vào trong khái niệm “xử lý vi phạm hành chính”, nếu trích dẫn từ định nghĩa về “xử lý vi phạm hành chính” được quy định tại khoản 2 Điều 1 LXLVPHC năm 2002 thì vi phạm hành chính được hiểu là “hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Đến nay, định nghĩa này được quy định tại Khoản 1 Điều 2 LXLVPHC 2012 như sau: “vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Về ngôn ngữ thể hiện, có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định nghĩa về vi phạm hành chính được quy định trong các Pháp lệnh về xử phạt/xử lý vi phạm hành chính 1989, 1995, 2002 và 2012; tuy nhiên về bản chất hành vi vi phạm hành chính thì các định nghĩa trong các văn bản pháp luật này, về cơ bản, không có gì khác nhau.
Theo đó, định nghĩa “vi phạm hành chính” có 04 dấu hiệu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm.
Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện (hành động hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” của vi phạm.
Thứ ba, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện, đây là dấu hiệu xác định“chủ thể” của vi phạm.
Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây có thể coi là dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không phải là tội phạm, tức là chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành chính. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Cho đến hiện nay, nhiều người vẫn hiểu sai về bản chất của hai cụm từ “Xử lý vi phạm hành chính” và “Xử phạt vi phạm hành chính”, để làm rõ hai khái niệm này, luận văn xin đưa ra một số phân tích để làm rõ như sau:
Trước tiên, cần hiểu bản chất của hoạt động “xử lý vi phạm hành chính” là việc áp dụng một số loại biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định. Cưỡng chế hành chính được xác định là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo thủ tục hành chính đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện công vụ vì lí do an ninh, quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.
Xử phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải tội phạm theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Theo đó, Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm các chế tài hành chính thông thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất), hình thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính) và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại.
Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng toàn bộ quá trình xử phạt vi phạm hành chính mà các cấp có thẩm quyền xử phạt phải tuân thủ nhằm bảo đảm cho công tác xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật.
Việc xử phạt vi phạm hành chính; áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và các biện pháp bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy định trong việc xử lý vi phạm hành chính.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần, mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể như sau:
Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Các biện pháp xử lý hành chính khác là những biện pháp hành chính có tính đặc thù và tính cưỡng chế cao hơn các hình thức xử phạt hành chính thông thường, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng; bao gồm giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Nhìn chung, xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác có thể hiểu chung là việc áp dụng các biện pháp, chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với chủ thể có hành vi vi phạm hành chính. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Qua phân tích các khái niệm nêu trên, có thể rút ra khái niệm pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư như sau: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý nhà nước về hành nghề luật sư và đối tượng hành nghề luật sư, khi các đối tượng đó vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước về hành nghề luật sư đến mức phải xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động của nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp. Các quy định về hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư luôn gắn liền với vai trò và sứ mạng của luật sư như đã nêu ở trên. Sự cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư là một trong những minh chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung đồng thời là đặc điểm của pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư nói riêng.
Công tác quản lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là công tác liên ngành, việc quản lý cần sự phối hợp giữa các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ quản lý lĩnh vực bổ trợ tư pháp nói chung và luật sư nói riêng, ngoài ra còn có các cơ quan nhà nước quản lý về xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn các tỉnh và cả nước. Các quy định về hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là sự kết hợp giữa các quy tắc đạo đức trong hành nghề luật sư và các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Các Đoàn luật sư, LĐLSVN hàng năm đều có báo cáo gửi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành nghề luật sư nói chung, trong đó có các số liệu và vụ việc về vi phạm hành chính của luật sư, từ đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động của luật sư trên cả nước nhằm tìm ra khó khăn trong thực tiễn áp dụng và hạn chế trong quy định pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp và hướng hoàn thiện hợp lý, kịp thời để điều chỉnh.
1.2. Nội dung của pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư Việt Nam Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
1.2.1. Hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại Việt Nam
Theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Chính phủ thì có 24 hành vi được gọi là hành vi vi phạm trong hành nghề luật sư tại Việt Nam; bổ sung thêm 12 loại hành vi so với Nghị định 60/2009 quy định về lĩnh vực này trước đó. Cụ thể các hành vi như sau:
Không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không thực hiện việc đăng ký hành nghề với cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp chuyển Đoàn luật sư.
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên; Thành lập hoặc tham gia thành lập từ hai tổ chức hành nghề luật sư trở lên.
Sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không đăng ký hành nghề tại cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không thực hiện việc đăng ký hành nghề với cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp chuyển Đoàn luật sư; Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam khi giấy phép hành nghề đã hết hạn; Cho người khác sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam để hành nghề luật sư.
Luật sư hành nghề khi chưa được cấp giấy đăng ký hành nghề luật sư; chưa được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam; Luật sư nước ngoài hoạt động không đúng hình thức, phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc sử dụng giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam của người khác để hành nghề luật sư; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa giả.
Làm giả chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; Mạo danh luật sư để hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào; Cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước; Sách nhiễu, lừa dối khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; Hành nghề luật sư khi không có chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chưa gia nhập Đoàn luật sư; Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam trong trường hợp không đủ điều kiện hành nghề.
Thực hiện dịch vụ pháp lý mà không ký hợp đồng bằng văn bản hoặc ký hợp đồng thiếu một trong các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 26 của Luật luật sư; Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ, việc; Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật; Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của pháp luật. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Như vậy, có thể thấy các hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam chủ yếu được chia thành 02 loại, gồm: thứ nhất là loại hành vi vi phạm liên quan đến chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; thứ hai là loại hành vi liên quan đến những nghĩa vụ cơ bản của luật sư trong hành nghề những nghĩa vụ cơ bản đồng thời là một nội dung quan trọng của quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, hay những hành vi xâm phạm đến bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.2.2. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại Việt Nam
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/06/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013, quy định các Hình thức xử phạt hành chính gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Trục xuất.
Hình thức xử phạt Cảnh cáo và Phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Những hình thức xử phạt còn lại có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính. Đối với mỗi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; nhưng có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính.
Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính, được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới tuổi thực hiện. Hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không được coi là có án tích và không bị ghi vào lí lịch tư pháp. Hình thức này được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và do người có thẩm quyền quyết định áp dụng, theo thủ tục đã được pháp luật quy định. Đây cũng chính là những đặc điểm để phân biệt hình thức xử phạt cảnh cáo với hình phạt cảnh cáo và hình thức kỉ luật cảnh cáo áp dụng đối với cán bộ, công chức. Đây là hình thức phạt truyền thống nhưng thực tiễn áp dụng hình thức phạt này rất ít so với hình thức phạt tiền, hơn nữa, dễ dẫn đến tiêu cực trong việc áp dụng, không đạt được mục đích của chế tài nên có ý kiến đề nghị đưa ra khỏi hệ thống chế tài xử phạt hành chính. Tuy nhiên, mục đích của xử phạt hành chính không phải nhằm mục tiêu chính là trừng trị đối với người vi phạm mà cái chính là nhắc nhở, giáo dục việc tôn trọng và chấp hành trật tự quản lí nhà nước. Cảnh cáo là hình thức xử phạt thích hợp đối với các vi phạm nhỏ, lần đầu. Việc áp dụng sẽ làm cho người vi phạm thấm thía thấy được sự nghiêm chỉnh cũng như sự độ lượng của pháp luật mà trở nên tự giác chấp hành pháp luật hơn. Nhiều trường hợp phạt cảnh cáo có hiệu quả hơn phạt tiền tràn lan. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Phạt tiền hiện nay là hình thức xử phạt chính áp dụng với hầu hết mọi hành vi vi phạm hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp – trong đó có hành nghề luật sư – là 50.000.000 đồng. Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người vi phạm phải trong khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đó. Mức tiền phạt cụ thể đồi với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể thấp hơn nhưng không giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Như vậy, nếu hành vi vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì mức tiền phạt đương nhiên được ấn định là mức giữa của khung và mức tối đa của khung chỉ được áp dụng khi hành vi có nhiều tình tiết tăng nặng.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc Đình chỉ hoạt động có thời hạn hay không có thời hạn là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính, áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính, nhằm nộp vào công quỹ nhà nước tiền, vật, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính. Đây là hình thức xử phạt bổ sung, nên không thể áp dụng độc lập mà phải đi kèm theo hình thức xử phạt chính.
Trục xuất có thể áp dụng vừa với tư cách là hình thức xử phạt chính, vừa là hình thức xử phạt bổ sung đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật.
Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định về 04 biện pháp xử phạt đối với luật sư có hành vi vi phạm, gồm: Phạt tiền; Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư; Xử phạt bổ sung; Biện pháp khắc phục hậu quả. Cụ thể, việc áp dụng biện pháp xử phạt Phạt tiền có 05 mức phạt được phân chia trong khoảng từ 1.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.Việc áp dụng hình thức nào trong 04 hình thức nêu trên còn tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của luật sư. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP xác định rõ những tổ chức thuộc đối tượng bị xử phạt của Nghị định quy định trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, cụ thể trong hành nghề Luật sư là: Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Các cá nhân là đối tượng xử phạt của Nghị định này xác định là: luật sư Việt Nam hành nghề tại Việt Nam, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, luật sư Việt Nam hành nghề tại nước ngoài. Trong đó, cá nhân hành nghề luật sư tại Việt Nam là đối tượng mà luận văn hướng đến.
1.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại Việt Nam
Hành nghề luật sư ở Việt Nam là hoạt động thuộc quản lý nhà nước, luật sư Việt Nam chịu sự quản lý theo nguyên tắc kết hợp giữa Nhà nước, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp và Tổ chức hành nghề nơi luật sư đang làm việc. Các cơ quan nhà nước và tổ chức có trách nhiệm quản lý, giám sát, kiểm tra, tiến hành xử lý vi phạm trong hành nghề luật sư bao gồm: Chính phủ; Bộ Tư pháp; các Bộ, cơ quan ngang Bộ; Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Đoàn Luật sư; UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;…
Tùy từng trường hợp và mức độ vi phạm mà thẩm quyền xử phạt thuộc các chức vụ cụ thể ở các cơ quan nhà nước khác nhau, Theo quy định của LXLVPHC 2012 và Nghị định 110/2013/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP của Chính phủ, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp được xác định bao gồm có các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Các cán bộ cơ quan Thanh tra Tư pháp (thuộc Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp) gồm: Thanh tra viên Tư pháp đang thi hành công vụ, Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, và Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp, Người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của Cục Bổ trợ tư pháp, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Việt Nam. Chính phủ bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lãnh đạo công tác của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Theo quy định tại Điều 4, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì chỉ có Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính. Việc quy định Chính phủ là cơ quan duy nhất có quyền quy định hành vi vi phạm hành chính, xuất phát từ tình hình vi phạm hành chính thường phát sinh ở nhiều lĩnh vực, có nhiều loại, xâm hại đến nhiều loại khách thể khác nhau trong hoạt động quản lý nhà nước; trong khi hoạt động ban hành luật, pháp lệnh chưa thể đáp ứng được yêu cầu cấp bách của thực tiễn quản lý nhà nước đặt ra. Chính phủ là cơ quan ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định pháp luật cụ thể trong từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực Luật sư. Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 nêu rõ, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư.
Thẩm quyền của Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân, Sở Tư pháp thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý luật sư và hành nghề luật sư được quy định cụ thể như sau: Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Ủy ban nhân dân là một cơ quan hành chính nhà nước của hệ thống hành chính Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan thực thi pháp luật tại các cấp: tỉnh, huyện, xã. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình thức bỏ phiếu. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thường đồng thời là một Phó Bí thư Tỉnh ủy. Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn phòng Ủy ban Nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành nhiều khối, trong đó có Khối nội chính gồm: Sở Tư pháp, Thanh tra. Trong lĩnh vực hành nghề luật sư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hành nghề.
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;…
Trong lĩnh vực luật sư, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, xử lý phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư; tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Cụ thể các chức danh có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc Bộ tư pháp trong hành nghề luật sư như sau:
Thanh tra viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà nước, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên Tư pháp đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 500.000 đồng.
Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 25.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hành nghề; Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 35.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hành nghề luật sư; Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hành nghề; Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Cục Bổ trợ tư pháp là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, được thành lập trên cơ sở Vụ Bổ trợ tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp lu ật về lĩnh vực bổ trợ tư pháp, bao gồm: luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật và phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cục làm nhiệm vụ theo dõi, quản lý, thẩm tra giấy tờ, hồ sơ và báo cáo tình hình hoạt động của luật sư , Liên đoàn luâṭ sư Viêṭ Nam, các đoàn luật sư, theo quy đinḥ của pháp luâṭ và phân cấp của Bô.̣
Người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của Cục Bổ trợ tư pháp đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 500.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; Tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hành nghề; Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
1.2.4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại Việt Nam Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Về trình tự, thủ tục để tiến hành xử phạt một hành vi vi phạm hành chính được thực hiện theo nội dung được ghi nhận trong các điều khoản thuộc Mục 1, Chương III, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012. Thủ tục xử lý vi phạm hành chính được chia thành hai loại như sau: Thủ tục đối với vi phạm không cần lập biên bản và thủ tục lập biên bản. Đây là cơ sở để áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có hành nghề luật sư.
Theo đó, bước đầu tiên đó là buộc chấm dứt hành vi vi phạm và sau đó có thể tiến hành việc xử phạt vi phạm hành chính mà không lập biên bản. Đối với các hành vi vi phạm hành chính buộc phải lập biên bản thì sau khi buộc chấm dứt hành vi vi phạm thì người có thẩm quyền xử phạt sẽ tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính, đồng thời thực hiện công việc xác minh tình tiết của vụ việc và xác minh giá trị tang vật. Tiếp đó, người có thẩm quyền xử phạt sẽ tiếp nhận việc giải trình của tổ chức, cá nhân vi phạm và chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm cho cơ quan cảnh sát điều tra, trong trường hợp không có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để xử phạt vi phạm hành chính để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính theo luật định.
Cụ thể, thủ tục xử phạt có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định có thể áp dụng mức phạt tiền đối với cá nhân từ 250.000 đồng trở lên và áp dụng mức phạt tiền đối với tổ chức từ 500.000 đồng trở lên, áp dụng hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính….
Người có thẩm quyền lập biên bản trong hoạt động luật sư tại Mục 1
Chương II được quy định trong Nghị định 110 gồm: Công chức, viên chức Sở Tư pháp, Công chức các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
Khi phát hiện ra hành vi vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Nếu xét thấy hành vi vi phạm chỉ dừng ở mức phạt cảnh cáo hay mức phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định xử phạt tại chỗ. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính được thực hiện bằng lời nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật. Quyết định xử phạt phạm hành chính tại chỗ phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và tình tiết liên quan đến việc giải quyết vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định xử phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng. Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt.Việc xử phạt tại chỗ không phải lập biên bản, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kĩ thuật nghiệp vụ.
Nếu mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trên 250.000 đồng đối với cá nhân thì người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục. Hồ sơ phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.
Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không ký được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức phạm hành chính 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt.
Bước tiếp theo, khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh có hay không có vi phạm hành chính xảy ra trên thực tế; chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, lỗi, nhân thân của cá nhân vi phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; tính chất, mức độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc xem xét, quyết định xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt cũng có thể trưng cầu giám định và việc giám định phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về giám định. Quá trình xác minh phải được thể hiện bằng văn bản để bảo đảm tính khách quan, tính chính xác của các tình tiết của vụ việc vi phạm.
Trong trường hợp cần xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải xác định giá trị tang vật và phải chịu trách nhiệm về việc xác định đó. Tùy theo loại tang vật cụ thể, việc xác định giá trị dựa trên một trong các căn cứ theo thứ tự ưu tiên
Trường hợp không thể áp dụng được căn cứ quy định để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc có thể ra quyết định tạm giữ tang vật vi phạm và thành lập Hội đồng định giá. Hội đồng định giá gồm có người ra quyết định tạm giữ tang vật vi phạm hành chính là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp và đại diện cơ quan chuyên môn có liên quan là thành viên.
Thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị không quá 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ, trong trường hợp thật cần thiết thì thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 24 giờ. Mọi chi phí liên quan đến việc tạm giữ, định giá và thiệt hại do việc tạm giữ gây ra do cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ chi trả. Thủ tục, biên bản tạm giữ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Căn cứ để xác định giá trị và các tài liệu liên quan đến việc xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính phải thể hiện trong hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Giải trình bằng văn bản là việc cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Giải trình trực tiếp là việc cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính gửi văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và trực tiếp tham gia phiên giải trình do người có thẩm quyền xử phạt tổ chức để đưa ra ý kiến, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trước khi ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp cá nhân, tổ chức không có yêu cầu giải trình trong thời hạn quy định.
Đối với trường hợp giải trình bằng văn bản, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn không quá 05 ngày, kể từ ngày lập biên bản phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính tự mình hoặc uỷ quyền cho người đại diện hợp pháp của mình thực hiện việc giải trình bằng văn bản. Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền có thể gia hạn thêm không quá 05 ngày theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người vi phạm.
Người có thẩm quyền xử phạt tổ chức phiên giải trình trực tiếp và có trách nhiệm nêu căn cứ pháp lý và tình tiết, chứng cứ liên quan đến hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả dự kiến áp dụng đối với hành vi vi phạm. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, người đại diện hợp pháp của họ có quyền tham gia phiên giải trình và đưa ra ý kiến, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải trình trực tiếp được lập thành biên bản và phải có chữ ký của các bên liên quan; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ thì các bên phải ký vào từng tờ biên bản. Biên bản này phải được lưu trong hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính và giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm hoặc người đại diện hợp pháp của họ 01 bản.
Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi phạm được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm xem xét, kết luận vụ việc và trả lời kết quả giải quyết bằng văn bản cho người có thẩm quyền đã chuyển hồ sơ trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; trường hợp không khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải trả hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến. Trong trường hợp này, nếu cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có quyết định khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển toàn bộ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tài liệu về việc thi hành quyết định xử phạt cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Việc chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự phải được thông báo bằng văn bản cho cá nhân vi phạm.
Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển các quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến.Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 30 ngày, kể từ ngày nhận được các quyết định kèm theo hồ sơ vụ vi phạm. Trong trường hợp cần xác minh thêm thì thời hạn tối đa không quá 45 ngày.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó. Trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 15 của Luật này. Việc khiếu nại, khởi kiện được giải quyết theo quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương.
Tiểu kết chương 1
Trước yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới là đưa ra những định hướng quan trọng nhằm phát triển đội ngũ luật sư có năng lực và trách nhiệm, phát huy hơn nữa vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư và nâng cao chức năng quản lý của Bộ Tư pháp. Trước nhiệm vụ đề ra, việc nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, các yêu cầu đối với pháp luật hành chính nói chung và pháp luật về phạm hành chính trong hành nghề Luật sư nói riêng. Điều đó tạo cơ sở cho việc xem xét, đánh giá pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành ở nước ta và cũng như kiến nghị các giải pháp hoàn chỉnh pháp luật về quản lý luật sư nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận và cải thiện bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp nói riêng và quản lý về xử phạt vi phạm hành chính nói chung. Muốn làm được điều này, Nhà nước cần tiếp cận và kiểm tra, theo dõi sát sao thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Chương tiếp theo xin đi vào thực trạng về hành vi vi phạm hành chính và trinh tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các quy định pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư trên cả nước. Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật vi phạm hành chính nghề luật sư
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư […]
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về vi phạm hành chính trong nghề luật sư […]