Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại các trường Tiểu học thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của xã hội. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Các nước trên thế giới đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển và bền vững của mỗi quốc gia.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã xác định mục tiêu của đổi mới giáo dục là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân… Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; Có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập” [3].

Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [35]. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Như vậy chỉ có phát triển giáo dục thì mới mở ra tương lai tươi sáng cho đất nước. Bởi lẽ giáo dục nói chung, Giáo dục thể chất nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đó là những người lao động khỏe mạnh, có kỹ thuật, có tay nghề thành thạo, có khả năng thích ứng, khả năng giao tiếp – được đào tạo và bồi dưỡng bởi nền giáo dục tiên tiến gắn với khoa học công nghệ hiện đại. Mà muốn phát triển Giáo dục và Đào tạo thì cần phải chú ý ngay bậc học đầu tiên – bậc học nền tảng – bậc học Tiểu học. Đối với HS Tiểu học, Giáo dục thể chất rất quan trọng vì ở lứa tuổi này việc tham gia các hoạt động Giáo dục thể chất có hiệu quả sẽ hình thành bước đầu ở HS một cơ thể khỏe mạnh.

Hoạt động Giáo dục thể chất là một hoạt động giáo dục hết sức quan trọng, góp phần giáo dục và rèn luyện con người phát triển toàn diện. Hoạt động Giáo dục thể chất trong nhà trường gồm Giáo dục thể chất và hoạt động Thể dục thể thao ngoại khóa cho học sinh. Hoạt động Giáo dục thể chất ở các nhà trường nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh. Có thể nói vốn quí nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển được tốt hơn và ngược lại. Thể dục thể thao giúp học sinh có được sức khỏe tốt, từ đó học tập các môn học và tham gia các hoạt động ở nhà trường đạt hiệu quả cao hơn, chính là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, để các em trở thành những con người có ích cho xã hội. Hoạt động Thể dục thể thao giúp cho học sinh có tính kỉ luật cao, tinh thần trách nhiệm trước tập thể, tinh thần đoàn kết, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực. Tập luyện Thể dục thể thao thường xuyên và có kế hoạch giúp các em có một nếp sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học. Từ đó góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh. Như vậy để đào tạo những công dân tốt trong tương lai phải kết hợp chặt chẽ phải dạy kiến thức, dạy kỹ năng với giáo dục nâng cao thể chất cho HS.

Xác định được tầm quan trọng của công tác Giáo dục thể chất và hoạt động Thể dục thể thao, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập Thể dục trong đó Bác viết: “Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt. Một phần người dân mạnh khỏe, tức là làm cho cả nước mạnh khỏe. Vậy nên luyện tập Thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Lời dạy của Người như nhắc nhở động viên mọi người dân hăng hái tham gia luyện tập Thể dục thể thao và định hướng cho hoạt động Giáo dục thể chất trong các nhà trường phổ thông. Thể dục thể thao trường học ở nước ta là một bộ phận quan trọng cấu thành nền Thể dục thể thao toàn dân, là nơi giao nhau của hai lĩnh vực giáo dục và Thể dục thể thao. Thể dục thể thao trường học không chỉ là phương tiện nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất mà còn góp phần rèn luyện nhân cách, đạo đức, ý chí, kỷ luật và lối sống lành mạnh cho học sinh. Chính vì vậy, Thể dục thể thao trường học góp phần tích cực tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc đầu tư phát triển Thể dục thể thao trường học là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, việc làm này đòi hỏi trách nhiệm, sự quan tâm và phối hợp đồng bộ không phải của riêng ngành nghề nào, đơn vị nào mà là của mọi tầng lớp trong xã hội.

Giáo dục thể chất được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giúp Giáo dục và Đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người”. Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm. Giáo dục thể chất chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của Giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Giáo dục thể chất với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện các tố chất thể lực và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khỏe hình thành theo hệ thống và tiến hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kĩ năng và kĩ xảo quan trọng cho cuộc sống”. Đồng thời chương trình Giáo dục thể chất trong các trường phổ thông nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đó là: “Trang bị kiến thức, kĩ năng và rèn luyện thể lực cho học sinh”

Hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông giữ một vị trí trung tâm bởi nó chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm học; nó là nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường phổ thông; đồng thời, nó quyết định kết quả đào tạo của nhà trường. Chính vì thế, nhiệm vụ trọng tâm của Hiệu trưởng trường Tiểu học là phải quản lí tốt các họat động dạy học nói chung và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất nói riêng trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Tuy nhiên, trong trường phổ thông ở tỉnh Bình Dương nói chung trường TH trên địa bàn địa bàn TX Bến Cát nói riêng công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho HS chưa được coi trọng đúng mức. Còn tình trạng chỉ chú trọng dạy chữ chưa coi trọng hoạt động Giáo dục thể chất. HS có những thói quen xấu trong sinh hoạt như tư thế ngồi, tư thế đi, đứng, số HS bị cận thị, thừa cân, béo phì có xu hướng gia tăng.

Xuất phát từ những nguyên nhân trên là Tổ trưởng chuyên môn Giáo dục thể chất với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả quản lí hoạt động Giáo dục thể chất trong các trường Tiểu học thị xã Bến Cát cũng như việc Giáo dục thể chất cho các em lứa tuổi TH. Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại các trường Tiểu học thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương”.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Trên cơ sở lí luận về quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho HS trường TH, đề tài khảo sát thực trạng quản lí hoạt động Giáo dục thể chất trong các trường TH thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương. Từ đó, đề xuất một số biện pháp quản lí hoạt động Giáo dục thể chất, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh TH tại địa phương.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 3.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường TH.
  • 3.2. Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng về hoạt động Giáo dục thể chất và công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của các trường TH thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
  • 3.3. Đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường TH thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

4.1 Khách thể nghiên cứu 

Hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học.

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường Tiểu học thị xã Bến Cát.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Công tác Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của các trường TH tại TX Bến Cát đã đạt được những kết quả nhất định, làm cho chất lượng dạy và học được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình quản lí, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ còn có những điều chưa phù hợp và bất cập nhất định như: Quản lí giờ giấc, nề nếp của các em học sinh, cơ sở vật chất, công tác đảm bảo an toàn tập luyện, quản lí hồ sơ, kiểm tra – đánh giá, công tác huấn luyện chưa có thật sự chỉ đạo cụ thể, hợp lí… Nếu xây dựng được hệ thống lí luận về quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho HS tại trường TH và phân tích đánh giá được thực trạng quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho HS các trường Tiểu học TX Bến Cát tỉnh Bình Dương thì sẽ đề xuất được các biện pháp quản lí hoạt động này một cách cần thiết và khả thi, góp phần nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất cho HS Tiểu học tại địa phương.

6. Phạm vi nghiên cứu

  • Về nội dung nghiên cứu:

Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất Hiệu trưởng các trường TH trên đia bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

  • Về không gian (địa bàn) nghiên cứu: Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Đề tài được thực hiện ở thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, khảo sát tại 15 trường Tiểu học công lập và 1 trường tư thục trong thị xã.

  • Về thời gian nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu thực trạng hoạt động Giáo dục thể chất và quản lí Hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường Tiểu học thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương từ năm 2016 đến nay.

7. Phương pháp nghiên cứu

Kết hợp các nhóm nghiên cứu sau:

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Tìm hiểu và phân tích các quan điểm lý luận thể hiện trong các chuyên khảo, sách, bài báo, tổng hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu về lý thuyết và thực tiễn có liên quan đến công tác quản lí, quản lí hoạt động Giáo dục thể chất và các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

  • Phương pháp hồi cứu tư liệu: Phương pháp này sử dụng để thu thập dữ liệu từ thực tiễn hoạt động Giáo dục thể chất và thực tiễn quản lí hoạt động Giáo dục thể chất.
  • Phương pháp điều tra phiếu hỏi: Chúng tôi tiến hành xây dựng các phiếu điều tra bằng hệ thống câu hỏi để khảo sát các đối tượng: cán bộ quản lí cấp Phòng, cấp trường, tổ chuyên môn, giáo viên bộ môn Thể dục và một số đối tượng có liên quan.
  • Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm hoạt động Giáo dục thể chất của giáo viên trực tiếp giảng dạy, kinh nghiệm công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của cán bộ quản lí các cấp đặc biệt là những người đang trực tiếp làm quản lí ở các trường TH.

7.3. Phương pháp toán học thống kê

Đề tài sử dụng phần mềm Excel, để tiến hành xử lý các số liệu thu thập, đánh giá thực trạng qua phỏng vấn, kiểm tra đánh giá hiệu quả các biện pháp.

Dùng một số công thức toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.

8. Đóng góp của đề tài 

  • Phân tích thực trạng hoạt động Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của Hiệu trưởng các trường TH thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.
  • Đề xuất được các biện pháp quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của các trường TH thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày theo 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lí luận về Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở trường Tiểu học.
  • Chương 2: Thực trạng công tác Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất của các trường Tiểu học thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
  • Chương 3: Các biện pháp quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường Tiểu học thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT VÀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước

Ở những năm 50 của thế kỷ XX, trong hàng loạt những công trình nghiên cứu có tính hàn lâm của các nhà khoa học Liên Xô cũ, đã xuất hiện các đề tài về những khía cạnh khác nhau của QLGD. Năm 1956, lần đầu xuất hiện cuốn “QL trường học” (Skolovedenie) của tác giả A.Pôpốp, một nhà sư phạm và QLGD của Liên Xô cũ. Cuốn sách này, về thực chất, không phải là một công trình khoa học về QLGD, mà là cả một tập hợp khá hoàn chỉnh các chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn của những người làm công tác QLGD, đặc biệt là QL trường học, trong đó có QL hoạt động DH [34].

Quá trình phát triển GD Xô Viết (cũ), nhiều nhà nghiên cứu khoa học GD đã lần lượt cho ra đời những tài liệu vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn về QL hai quá trình sư phạm chủ yếu diễn ra trong nhà trường: QL quá trình DH (trong đó có QL hoạt động DH) và QL quá trình GD. Sự tập trung của những kiến giải đó được thể hiện cụ thể trong các tác phẩm xuất bản vào giữa những năm 70. Đặc biệt, M.I Kôndakốp, nhà lý luận và hoạt động thực tiễn xuất sắc của Liên Xô (cũ) đã dày công nghiên cứu những vấn đề về QLGD [25]. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Vào năm 1987, Viện QL và Kinh tế GD thuộc Viện Hàn lâm sư phạm (Liên Xô cũ) đã tổng kết những thành tựu nghiên cứu về QL trường học qua nhiều năm, trình bày những quan điểm mới nhất về QLGD nói chung và QL hoạt động DH nói riêng của các học giả Xô Viết (cũ) tính đến thời điểm đó [25].

Vì thế, trong những công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu QLGD Xô Viết cho rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ GV” [40].

Ngay từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời đã hình thành nên quan điểm con người phát triển toàn diện và được coi quá trình giáo dục là thể thống nhất gồm ba mặt hữu cơ không thể tách rời “Giáo dục trí tuệ – Giáo dục thể chất – Giáo dục kĩ thuật”, đã khẳng định sự kết hợp Giáo dục thể chất với các mặt khác không chỉ là một phương tiện để nâng cao sản xuất xã hội mà còn là phương thức duy nhất để tạo con người phát triển một cách toàn diện.

Chủ nghĩa Mác-Lênin coi Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ và không thể thiếu được của giáo dục toàn diện và đặt vị trí Giáo dục thể chất ngang hàng với các mặt giáo dục khác. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng tỏ ý nghĩa quan trọng của Giáo dục thể chất như là một phần không chỉ của giáo dục nói chung mà của toàn bộ quá trình phát triển của con người, trong đó có đào tạo giáo viên trong sự nghiệp đổi mới của mỗi quốc gia.

Liên Xô trước đây quan điểm GD con người toàn diện đã được V.T.Lênin quan tâm và phát triển, người ta vạch ra mối tương quan giữa GD và điều kiện vật chất xã hội đồng thời làm phong phú thêm cho tư tưởng Mác-Ăng ghen được áp dụng cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Lênin là người đầu tiên đưa Giáo dục thể chất là bộ phận quan trọng để tăng cường và củng cố sức khỏe cho toàn dân nhằm nâng cao hiệu quả năng suất lao động, sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ thành quả cách mạng của mình.

1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam

Trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam trước hết phải nói đến quan điểm phát triển giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969). Bằng việc kế thừa những tinh hoa của các tư tưởng giáo dục tiên tiến và việc vận dụng sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã để lại cho chúng ta nền tảng lý luận về vai trò của giáo dục, định hướng phát triển giáo dục, mục đích dạy học, các nguyên lý dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của quản lý và cán bộ quản lý giáo dục, phương pháp lãnh đạo và quản lý… Thực tiễn đã khẳng định rằng: Hệ thống các tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục có giá trị cao trong quá trình phát triển lý luận dạy học, lý luận giáo dục của nền giáo dục cách mạng Việt Nam.

Giáo dục và phát triển giáo dục trong nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người. Đồng thời góp phần nâng cao thể lực giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam, tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng cho đất nước.

Bác Hồ đã dạy: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công.

Trong suốt các chặng đường lãnh đạo của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có tri thức, đạo đức và hoàn thiện về thể chất. Quan điểm này của Đảng đã được thể hiện trong văn kiện các lần đại hội Đảng toàn quốc từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã nêu rõ: “… Con người là vốn quý nhất của chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và bồi dưỡng sức khỏe của con người là nghĩa vụ và mục tiêu cao quý của ngành y tế, Thể dục thể thao….

Năm 1961 trong nghị quyết TW8 khóa III, Đảng ta đã chỉ thị: “Bắt đầu đưa việc dạy Thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học

Tháng 6 năm 1975, khi miền Nam mới được giải phóng, Đảng ta đã ra chỉ thị 221 CT/TW về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng. Chỉ thị đã nêu rõ: “Nội dung giáo dục phổ thông phải toàn diện, bao gồm giáo dục chính trị và đạo đức cách mạng, giáo dục văn hóa khoa học, giáo dục kỹ thuật, giáo dục lao động và Giáo dục thể chất”.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976, tổng bí thư Lê Duẩn lại một lần nữa nhấn mạnh “… cần nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục, hiện đại hóa chương tình học tập khoa học và kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lí kinh tế. Coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mỹ, Thể dục thể thao và tập luyện quân sự”.

Năm 1986 trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa VI đã tiếp tục nhấn mạnh: “Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào Thể dục thể thao…nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất trong các trường học” .

Trong Văn kiện hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng khóa VII năm 1991, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “… cần coi trọng nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất trong các trường học” [14].

Trong văn kiện đại hội Đảng các khóa VIII, IX, Đảng ta đều tái khẳng định cần phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, cần đổi mới tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng và hiệu quả Giáo dục thể chất đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [15,16]. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Về phạm trù Giáo dục thể chất trong nhà trường, trong cuốn Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất, y tế trường học (Bộ GD&ĐT, NXB Thể dục thể thao năm 2006), đã công bố công trình nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực Giáo dục thể chất và y tế trường học. Trong số các nghiên cứu này có thể kể đến công trình của Ngũ Duy Anh và Vũ Đức Thu trong đề tài Định hướng chiến lược tăng cường Giáo dục thể chất, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe học sinh trong nhà trường phổ thông các cấp đến năm 2010. Đề tài này, các tác giả đã đưa ra mục tiêu định hướng lâu dài, mục tiêu trước mắt 2003 – 2010 và đồng thời đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra [2]. Trong nghiên cứu khoa học của tác giả Ngũ Duy Anh và Trần Văn Lam với nội dung Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao công tác Giáo dục thể chất trường học các tác giả đã đánh giá thực trạng về các hoạt động Giáo dục thể chất đồng thời vạch ra những khó khăn yếu kém và đề ra mục tiêu, giải pháp để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Phạm vi nghiên cứu đề tài này thực hiện trên các địa phương cả nước do đó nó thể hiện được bức tranh tổng thể công tác Giáo dục thể chất. Những hạn chế của nó là chưa thể hiện được sự khác biệt giữa các vùng miền, địa phương và các giải pháp tương ứng. Trong các đề tài tiếp theo có thể kể đến công trình nghiên cứu của tác giả Hoàng Công Dân với đề tài Nghiên cứu biện pháp phát triển thể chất cho học sinh các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú khu vực miền núi phía bắc. Đề tài đã đánh giá được thực trạng phát triển thể chất của học sinh các trường dân tộc nội trú và cũng đề ra các biện pháp nhằm tăng cường thể chất cho đối tượng học sinh này. Biện pháp chủ yếu là bám sát nội dung chương trình dạy học để tăng cường thể lực, trang bị kỹ năng cho học sinh tốt hơn.

Nói tóm lại, các tác giả Việt Nam cũng như nước ngoài nghiên cứu và đưa ra nhiều biện pháp quản lý hoạt động dạy học nói chung cũng như quản lý hoạt động Giáo dục thể chất nói riêng nhằm tăng cường thể chất cho học sinh ở trường phổ thông là rất quan trọng. Trên thực tế nghiên cứu hoạt động Giáo dục thể chất và quản lí hoạt động Giáo dục thể chất là chưa nhiều. Đặc biệt là trên địa bàn TX Bến Cát, tỉnh Bình Dương đó chính là lí do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu.

1.2. Một số khái niệm Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

1.2.1. Khái niệm quản lí

Trong xã hội quản lí là hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội. Nó ra đời khi xã hội cần có chỉ huy, điều hành, phân công, hợp tác, kiểm tra, chỉnh lý trong lao động tập thể trên một qui mô nào đó để đạt năng suất cao hơn, hiệu quả tốt hơn, đó là vai trò của người đứng đầu. Như vậy quản lí là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau, nên cũng đã trải qua nhiều hình thức quản lí khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lí trong sự ổn định và phát triển của xã hội.

Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lí là sự tác động của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí “hay là đối tượng quản lí” nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động của con người trong quá trình sản xuất – xã hội để đạt được mục đích đã định.

Còn trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lí, đặc biệt trong quá trình xây dựng lý luận về quản lí, khái niệm quản lí được nhiều nhà lý luận đưa ra nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động nghiên cứu của mỗi người.

Khi nói đến vai trò quản lí trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và Ken Blanc Heard trong cuốn Quản lí nguồn nhân lực cho rằng: “Quản lí là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lí với người bị quản lí, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt được mục tiêu của tổ chức” [33].

Theo các nhà xã hội học Kozlova.O.V và Kuznetsov.I.N thì “Quản lí là sự tác động có mục đích đến từng tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất” [24].

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã khẳng định: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần đến sự quản lí” [21].

Theo HaroldKoontz – 1994 trong tác phẩm “ Những vấn đề cốt yếu của quản lí” thì: “Quản lí là một hoạt động thiết yếu, nó đảm phối hợp những nổ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm” [20].

Còn quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về quản lí như sau:

Giáo trình “quản lí GD&ĐT” của trường Cán bộ quản lí GD&ĐT, nêu rằng:

  • Quản lí là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.
  • Quản lí là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các thông tin về trình trạng của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
  • Quản lí là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
  • Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí và khách thể quản lí, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
  • Ý kiến của GS. Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lí là một dạng hoạt động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy quản lí thành một chỉnh thể thống nhất điều hòa phối hợp các khâu và các cấp quản lí làm cho hoạt động nhẹ nhàng đưa đến hiệu quả” [23].

Giáo sư Hà Thế Ngữ và giáo sư Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lí là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lí một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [30].

Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn – 2000 thì: “Quản lí là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lí, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích con người” [37].

Từ các định nghĩa nêu trên, dưới gốc độ khác nhau, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát là: Quản lí một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học, địa phương,…) với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.

Như vậy khái niệm quản lí bao hàm những khía cạnh như sau:

“Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường”

Đối tượng tác động của quản lí là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể. Ví dụ: Một doanh nghiệp, một trường học, một cơ quan, một quốc gia,… Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

  • Hệ thống quản lí gồm có hai phân hệ: chủ thể quản lí và khách thể quản lí.
  • Tác động quản lí thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp khác nhau.
  • Quản lí là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định đúng quy luật và có hiệu quả quản lí nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định hướng đến mục tiêu.
  • Mục tiêu cuối cùng của quản lí là chất lượng sản phẩm, vì lợi ích phục vụ con người. Người quản lí tựu chung lại là nghiên cứu khoa học, nghệ thuật giải quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ giữa chủ thể và khách thể trong hệ thống mà còn có mối quan hệ tương tác với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình.

Hiện nay quản lí thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lí là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.

Các hoạt động kể trên cũng chính là các chức năng của quản lí. Nội dung cụ thể của từng chức năng có thể hiểu như sau:

  • Chức năng lập kế hoạch:

Là chức năng hạt nhân của quá trình quản lí. Bởi vì kế hoạch là tập hợp những mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với một chương trính hành động cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch được xây dựng xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của tổ chức và những mục tiêu đã định sẵn mà tổ chức có thể hướng tới và đạt được, dưới sự tác động có định hướng của người quản lí.

  • Chức năng tổ chức:

Là chức năng quan trọng của quá trình quản lí, đảm bảo tạo thành sức mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch đã đề ra. Tầm quan trọng này đã được Lênin khẳng định: “Tổ chức là nhân tố sinh ra hệ toàn vẹn, biến một tập hợp các thành tố rời rạc thành một thể thống nhất, người ta gọi là hiệu ứng tổ chức”.

Bởi vì chức năng này việc tiến hành sắp xếp, bố trí một cách khoa học và phù hợp những nguồn lực và hệ thống thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách hiệu quả nhất.

  • Chức năng chỉ đạo:

Đây là chức năng đặc thù của người quản lí, nó biểu hiện rất rõ nét năng lực của người quản lí. Đó là sự điều hành, điều chỉnh hành động của hệ thống nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra để đạt được mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi người quản lí phải luôn theo sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống và đưa ra những biện pháp để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sao cho hệ thống vận hành không làm thay đổi mục tiêu đã định của hệ thống.

  • Chức năng kiểm tra đánh giá: Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Người quản lí muốn hoàn thành trọng trách của mình một cách có hiệu quả nhất thì không bao giờ coi nhẹ chức năng này. Bởi vì chính chức năng này giúp cho người quản lí thu nhập được những thông tin ngược từ đối tượng quản lí trong quá trình vận hành của hệ thống. Nhờ đó mà đánh giá được trạng thái vận hành của hệ thống ra sao so với kế hoạch đã đề ra và như vậy sẽ đánh giá được kế hoạch khả thi đến mức độ nào? Nguyên nhân của sự thành công thất bại? Cần điều chỉnh, bổ sung những gì vào nội dung kế hoạch để đạt được mục tiêu. Và cũng nhờ có chức năng này người quản lí rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm để thực hiện các quá trình quản lí tiếp theo được hiệu quả hơn nữa.

Điều cần chú ý đối với người quản lí là thực hiện mỗi một chức năng là hoàn thành một giai đoạn chu kì quản lí. Tuy nhiên sự phân chia chu kì quản lí thành các giai đoạn chỉ có tính chất tương đối để giúp người quản lí định hướng cho hoạt động quản lí của mình. Còn trong thực tế, các giai đoạn này gối đầu lên nhau, bổ sung cho nhau, xâm nhập vào nhau và một yếu tố không thể thiếu được để người quản lí thực hiện được những chức năng trên là thông tin. Vì vậy, thông tin được coi như là một công cụ hoặc một chức năng đặc biệt trong quản lí.

1.2.2. Khái niệm quản lí giáo dục

Để tồn tại và phát triển, con người đã phải trải qua quá trình lao động. Chính trong lao động, con người nhận thức được thế giới xung quanh và dần dần tích lũy được những kinh nghiệm. Cũng từ đó, con người nảy sinh nhu cầu truyền đạt lại những kinh nghiệm đó cho nhau và cho thế hệ sau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh hiện tượng GD. Hiện tượng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với xã hội và đối với mỗi cá nhân. Nó giúp cho xã hội bảo tồn nền văn hóa nhân loại, đồng thời giúp cho cá nhân phát triển tâm lí, ý thức cũng như tiềm năng của bản thân. Tính đặc thù của quá trình giáo dục là tạo ra một sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách con người phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vì vậy:

Theo M.I.Konđacốp thì: “Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội của các thế hệ loài người. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên” [25].

Điều này càng khẳng định trong thời đại ngày nay, giáo dục đã trở thành động lực, là nhân tố quyết định thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Giáo dục đã trở thành mục tiêu phát triển hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì chỉ có giáo dục mới đào tạo được những người lao động mới – lao động có trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Chính do vị trí quan trọng như vậy của giáo dục nên các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra những khái niệm khác nhau về quản lí giáo dục.

Theo chuyên gia giáo dục Liên Xô M.I.Kônđacốp thì: “Quản lí giáo dục là tập hợp những biện pháp: tổ chức, phương pháp cán bộ, kế hoạch hóa,… nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng cũng như số lượng” [25].

Theo nhà lý luận Xô Viết P.V.Khuđôminxky thì: “Quản lí giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống (Từ Bộ đến trường), nhằm mục đích đảm bảo việc GD Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ”.

Theo quan niệm của giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí GD là một hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí GD của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [35]. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Theo quan niệm của giáo sư Phạm Minh Hạc: “Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh…” [18].

Tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm rằng: “Mục đích cuối cùng của quản lí giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu của bản thân và của xã hội” [41].

Và theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” [4].

Từ những quan điểm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lí giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến – lên trạng thái mới về chất.

Trong hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động. Con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lí. Mọi hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy con người là nhân tố quan trọng nhất trong quản lí giáo dục.

1.2.3. Khái niệm thể chất, Giáo dục thể chất, hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Hiểu theo nghĩa chung nhất thể chất là chất lượng của cơ thể bao gồm sức khỏe, khả năng vận động của cơ bắp, sự sẵn sàng được đánh giá bằng sức nhanh, sức bền.

Theo từ điển thể thao Nga Việt của Nguyễn Văn Hiếu chủ biên (1979) thì “GDTC được hiểu là một loại hình giáo dục lấy nhiệm vụ chủ yếu là phát triển thể lực tăng cường thể chất làm chính, thông qua tham gia các môn thể thao để thực hiện”.

Nôvicốp và Mátvêep thì cho rằng “GDTC là hoạt động cơ bản có định hướng Thể dục thể thao trong xã hội, là một quá trình tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của Thể dục thể thao trong hệ thống giáo dục, giáo dưỡng chung ở nhà trường các cấp” [26].

Còn các nhà lý luận Thể dục thể thao của Việt Nam như Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn thì cho rằng do bắt nguồn từ gốc Hán nên có người gọi tắt Giáo dục thể chất là Thể dục theo nghĩa tương đối hẹp vì theo nghĩa rộng của từ Hán cũ Thể dục còn có nghĩa là Thể dục thể thao. Bởi vậy theo hai tác giả trên thì Giáo dục thể chất là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của Thể dục thể thao trong xã hội, một quá trình có tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của Thể dục thể thao trong hệ thống giáo dục và giáo dưỡng chung (chủ yếu trong các nhà trường. Trong quá trình Giáo dục thể chất ngoài giáo dưỡng thể chất thì việc giáo dục phẩm chất đạo đức và phòng cách TDTC cho người học cũng hết sức quan trọng [39, tr 32].

Cũng theo hai tác giả trên thì đặc trưng cơ bản và chuyên biệt thứ nhất của giáo dưỡng thể chất là dạy học vận động và đặc trưng thứ hai là sự tác động có phát triển các kỹ năng vận động, các tố chất vận động và phát triển thể lực cho người học.

Giáo dục thể chất là một trong những nội dung GD toàn diện nhân cách người học trong các nhà trường nói chung và trường TH nói riêng, nó có thể được tiến hành bằng nhiều con đường, trong đó con đường dạy học môn Thể dục là con đường cơ bản và quan trọng nhất.

Giáo dục thể chất: Là quá trình sư phạm nhằm GD&ĐT thế hệ trẻ hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ. Giáo dục thể chất gắn liền với phát triển thể chất.

Phát triển thể chất: Là quá trình biến đổi hình thành các thuộc tính tự nhiên về mặt hình thái và chức năng của cơ thể con người trong quá trình cuộc sống Xã hội và cá nhân con người. Mức độ phát triển thể chất phụ thuộc phần lớn các yếu tố: GD, điều kiện sống, lao động, Xã hội. Các chỉ số đánh giá trình độ phát triển thể chất là chiều cao, cân nặng, lồng ngực, dung tích phổi…và đồng thời là mức độ phát triển các tố chất thể lực, năng lực và khả năng chức phận cơ thể.

GDTC bao gồm các nội dung giáo dục sức khỏe tâm lý, thể lực, vệ sinh. Giáo dục thể chất được thực hiện trong gia đình và được nối tiếp trong nhà trường. Giáo dục thể chất là một quá trình sư phạm với đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nó. Song Giáo dục thể chất khác với các nội dung giáo dục khác ở chỗ hướng tới việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động, phát triển các tố chất thể lực, hoàn thiện về hình thái và chức năng của cơ thể.

Như vậy Giáo dục thể chất là một quá trình GD tri thức, đạo đức, lao động, thẩm mỹ…

Dưới tác động của quá trình Giáo dục thể chất, cơ thể con người phát triển cân đối, khỏe mạnh, được rèn luyện, có khả năng chống lại những ảnh hưởng xấu của môi trường. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Học sinh TH là người học từ lớp 1 đến lớp 5. Tuổi của HS Tiểu học từ 6 đến 14 tuổi.

Hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học là quá trình hình thành kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động, phát triển các tố chất thể lực, hoàn thiện về hình thái và chức năng của cơ thể học sinh Tiểu học. Qua đó, học sinh Tiểu học bước đầu phát triển cân đối, khỏe mạnh.

1.2.4. Khái niệm quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh ở trường Tiểu học

Với cách tiếp cận quản lí Thể dục thể thao nói chung và quản lí Giáo dục thể chất nói riêng là một bộ phận không thể thiếu được của QL xã hội Xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội của Đảng và Nhà nước, các nhà quản lí của Liên Xô cũ và Trung Quốc như Nôvicốp, Mátvêep (Liên Xô cũ), Dụ Kế Anh – Chu Nghiêm Kiệt đã đi đến khái niệm về quản lí Thể dục thể thao trong đó có quản lí Thể dục thể thao trường học tức Giáo dục thể chất trường học như sau: “Quản lí Giáo dục thể chất là sự tác động liên tục mang tính mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí lên khách thể quản lí nhằm thực hiện các mục tiêu Giáo dục thể chất đã đề ra” [1; tr 27].

Còn các nhà nghiên cứu quản lí ở nước ta với cách tiếp cận quản lí Thể dục thể thao hướng vào hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người nhằm không ngừng phát triển sự nghiệp Thể dục thể thao và sự nghiệp Giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên trường học các cấp, góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.

Từ khái niệm về quản lí Giáo dục thể chất của các học giả trong và ngoài nước, ta có thể khái quát về quản lí Giáo dục thể chất như sau:

Quản lí Giáo dục thể chất là tổ chức điều hành phối hợp các lực lượng Giáo dục thể chất nhằm thúc đẩy công tác Giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ theo đúng nguyên lý giáo dục, đúng mục tiêu đào tạo và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.

Quản lí Giáo dục thể chất với đặc trưng cơ bản là quản lí con người nên đòi hỏi phải có tính khoa học, tính nghệ thuật, tính kỹ thuật cao. Trong quá trình quản lý hiệu quả Giáo dục thể chất được đo lường bằng kết quả thực hiện các mục tiêu quản lý, trong đó mục tiêu phát triển thể chất và kỹ năng vận động là cơ bản.

Với cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chọn khái niệm sau đây làm khái niệm công cụ: “Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất là sự tác động liên tục mang tính mục đích, tính kế hoạch của người quản lí (chủ thể quản lí) lên khách thể quản lí (chương trình, kế hoạch giảng dạy, quá trình dạy học của giáo viên, HS, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy) nhằm thúc đẩy và nâng cao chất lượng công tác Giáo dục thể chất cho HS theo đúng nguyên lý giáo dục, đúng mục tiêu đào tạo và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội”.

1.3. Lý luận về hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh ở trường Tiểu học Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi Tiểu học

Giáo dục là hoạt động có mục đích của nhà sư phạm nhằm hình thành những phẩm chất nhất định cho học sinh, căn cứ vào đặc điểm cá nhân, đặc điểm của nhóm theo lứa tuổi. Vì vậy, nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục phải căn cứ vào đặc điểm của lứa tuổi.

Học sinh TH là lứa tuổi thiếu nhi (6 -11 tuổi) với đặc trưng nổi bật là sự nhảy vọt về sinh lí. Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Sự phát triển của hệ xương, chủ yếu là xương tay, xương chân rất nhanh. Sự thay đổi về chất của lứa tuổi học sinh TH đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các lứa tuổi khác. Tuy nhiên, lứa học sinh TH chưa thức được hạn chế về sức lực của mình. Do đó, nhà sư phạm cần chú ý đến đặc điểm của HS để có những tác động Giáo dục thể chất phù hợp.

Về chế độ trao đổi chất và năng lượng là quá trình đồng hóa chiếm ưu thế so với quá trình dị hóa, sự tiêu hao năng lượng trong hoạt động cũng phụ thuộc vào lứa tuổi. Trong cùng hoạt động, trẻ em tiêu hao nhiều năng lượng hơn so với người lớn.

Về hệ thống tuần hoàn, lứa tuổi TH, khối lượng máu tỷ lệ với trọng lượng cơ thể cao hơn ở người lớn. Kích thước tuyệt đối và tương đối của tim tăng dần theo lứa tuổi. Và nó chịu ảnh hưởng rất lớn của tập luyện Thể dục thể thao.

Hệ tim mạch sau hoạt động Thể dục thể thao nói chung phụ thuộc vào độ lớn của lượng vận động nhịp tim không ổn định. Dưới tác dụng của các yếu tố kích thích chúng thay đổi nhiều hơn so với người lớn. Khi hoạt động Thể dục thể thao tần số co bóp tim các em sẽ cao hơn. Sự hồi phục tim mạch sau hoạt động Thể dục thể thao nói chung phụ thuộc vào độ lớn của lượng vận động. Sau lượng vận động nhỏ cơ thể các em sẽ hồi phục nhanh hơn ở người lớn. Nhưng sau lượng vận động lớn cơ thể các em hồi phục chậm hơn.

Đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi nhi đồng có ảnh hưởng rõ rệt đối với chức năng hô hấp. Tần số hô hấp sẽ được giảm dần khi đến tuổi trưởng thành, ở trẻ em có đặc điểm thở nhanh và không ổn định thở nông và tỷ lệ thở ra – hít vào bằng nhau. Tần số hô hấp sẽ được giảm xuống dần khi đến tuổi trưởng thành 12 – 18 lần/ phút. Dung tích sống cũng nhỏ hơn người lớn. Tuy nhiên về dung tích sống trên trọng lượng cơ thể các em có chỉ số cao hơn người lớn. Các em 14 tuổi có dung tích sống tương đối; trung bình là 120,l/1kg trọng lượng trong khi người lớn là 80ml/1kg trọng lượng. Dung tích sống cũng như thông khí phổi tối đa ở các học sinh TH đều cao hơn ở các em không tập luyện thể thao cùng lứa tuổi. Trong hoạt động Thể dục thể thao thông khí phổi của trẻ em tăng lên chủ yếu là do tăng tần số hô hấp chứ không phải độ sâu của hô hấp, ở các em hấp thụ oxy trong các hoạt động Thể dục thể thao có thể tăng lên 10 lần so với mức chuyển hóa cơ sở trong khi người lớn có thể tăng hấp thụ oxy lên tới 15 – 16 lần. Hấp thụ oxy tối đa (VO2max) của các em thấp hơn của người lớn song vẫn cao hơn các em cùng lứa tuổi không tập luyện Thể dục thể thao. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Đặc điểm tâm lý ở tuổi TH những cấu tạo tâm sinh lý mới chủ yếu do hoạt động tập luyện mang lại và được hình thành dần dần với chính quá trình hình thành của quá trình hoạt động tập luyện Thể dục thể thao.

Sự phát triển của quá trình nhận thức:

Sự phát triển của tri giác: Trình độ tri giác phát triển nhờ vào những hành động học tập có mục đích, có kế hoạch. Ở lứa tuổi TH tính tổng thể của tri giác dần dần nhường chỗ cho tri giác chính xác.

Sự phát triển của sự tập trung: Các em còn biết phân phối chú ý với những dạng hoạt động khác nhau. Tính chủ định của chú ý, tri giác là những nét tâm lý mới của lứa tuổi này.

Sự phát triển của trí nhớ: Ghi nhớ có chủ định được hình thành và phát triển dần trong quá trình học tập và được hình thành rõ nét ở lứa tuổi. Hai hình thức ghi nhớ chủ định và ghi nhớ không chủ định tồn tại song song, chuyển hóa, bổ sung cho nhau. Ở những năm cuối của giai đoạn này, trí nhớ có sự tham gia tích cực của ngôn ngữ.

Sự phát triển của tưởng tượng: Chủ yếu là phát triển tưởng tượng tái tạo cụ thể như sau: bắt đầu hình dung được một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn với trạng thái trung gian của nó, tưởng tượng của trẻ phát triển theo xu hướng rút gọn và khái quát hơn. Đặc điểm này được phát triển song song với ghi nhớ có ý nghĩa. Tưởng tượng sáng tạo bắt đầu hình thành ở thời gian cuối của giai đoạn.

Sự phát triển của tư duy: Tư duy trực quan hình tượng, nắm được các mối quan hệ của khái niệm, những thao tác về tư duy như phân loại, phân hạng tính toán, không gian, thời gian… được hình thành và phát triển mạnh.

Sự phát triển nhân cách của lứa tuổi: Chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập và Thể dục thể thao. Các em tự điều khiển mình tuân theo những điều “cần phải” chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Nhờ có tính chủ định đối với mọi hành vi, dần dần nắm được những chuẩn mực đạo đức, những qui tắc hành vi. Nét đặc trưng của những mối quan hệ qua lại giữa các em là chúng dựa vào sự giống nhau về hoàn cảnh sống hay những hứng thú ngẫu nhiên, hành vi, lời đánh giá của bạn bè có ý nghĩa rất lớn trong việc nhìn nhận và đánh giá bản thân làm cơ sở cho tính tự đáng giá. Hình ảnh của người lớn đặc biệt là của GV có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục. Ảnh hưởng của hoạt động lao động, những công việc tự phục vụ bản thân và giúp đỡ gia đình đã làm hình thành những kỹ năng lao động, kỹ năng vạch kế hoạch, mục tiêu cho hành động và tạo điều kiện cho những rung cảm, tình cảm tốt đẹp đối với lao động.

Công tác giáo dục và tập luyện Thể dục thể thao ở tuổi Tiểu học rất phức tạp. Các giáo viên cần nắm vững đặc điểm lứa tuổi, để điều chỉnh khối lượng vận động, nhằm đảm bảo cho sự phát triển thể chất của các HS phát triển bình thường trước, trong và sau thời kỳ dậy thì. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Tóm lại, những đặc điểm về tâm sinh lí ,đặc điểm nhận thức, giao tiếp, học tập, tình bạn của học sinh Tiểu học là cơ sở quan trọng đối với lực lượng giáo dục. GD nhà trường cần chú ý đến những đặc điểm trên để tổ chức các Hoạt động Giáo dục thể chất cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi. Tổ chức các Hoạt động Giáo dục thể chất nếu không chú ý đến đặc điểm này sẽ không thể phát huy được tính tích cực chủ động của HS.

Nắm vững được những đặc điểm của học sinh TH, người cán bộ quản lí, người GV mới có thể chỉ đạo, tổ chức tốt các Hoạt động Giáo dục thể chất trong các nhà trường hiện nay.

1.3.2. Vị trí của hoạt động Giáo dục thể chất

Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, đảm nhiệm một trong bốn mặt giáo dục đức, trí, thể, mỹ.

Giáo dục thể chất trong trường học là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu Giáo dục và Đào tạo, đồng thời là một mặt giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm tạo ra một lớp người “Phát triển trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Những yêu cầu bức bách về sức khỏe, thể chất của thế hệ trẻ đòi hỏi công tác Giáo dục thể chất trong nhà trường có một vị xứng đáng.

Giáo dục thể chất góp phần hình thành các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh; đồng thời, thông qua việc trang bị kiến thức về sức khỏe, quản lý sức khỏe và rèn luyện, học sinh biết thích ứng với các điều kiện sống, lạc quan và chia sẻ với mọi người; có cuộc sống khỏe mạnh về thể lực và tinh thần.

Thông qua hoạt động Thể dục thể thao trong và ngoài nhà trường, học sinh có ý thức tự giác, sống có trách nhiệm, tự tin, trung thực, dũng cảm, có tinh thần hợp tác thân thiện, thể hiện khát khao vươn lên, từ đó có những định hướng cho tương lai phù hợp với năng lực, sở thích cá nhân, đáp ứng xu thế hội nhập toàn cầu.

1.3.3. Vai trò của hoạt động Giáo dục thể chất

Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm.

Giáo dục thể chất là một lĩnh vực Thể dục thể thao (TDTT) xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khỏe, hình thành theo hệ thống và tiến hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống”.

1.3.4. Nhiệm vụ của hoạt động Giáo dục thể chất Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Nhiệm vụ của hoạt động Giáo dục thể chất gồm:

Góp phần phát triển đúng đắn thể chất và củng cố sức khỏe. Giáo dục thể chất hướng vào việc hoàn thiện cơ thể học sinh về mặt hình thái và mặt chức năng, làm cho cơ thể vững vàng trước những ảnh hưởng không thuận lợi của môi trường bên ngoài, hướng vào việc phòng ngừa các bệnh tật và bảo vệ sức khỏe cho HS.

Phát triển các phẩm chất vận động. Năng lực vận động đa dạng của con người chỉ có được trên cơ sở tất cả các phẩm chất thể lực như sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sức khéo léo được hình thành mạnh mẽ và hài hoà.

Hình thành và hoàn thiện các kĩ năng, kĩ xảo vận động. Các kĩ năng vận động quan trọng đối với cuộc sống được hình thành trong quá trình thực hành như đi, đứng, chạy nhảy, ném, phóng…Những động tác vận động này giúp cho con người nắm được những kĩ xảo, có được kinh nghiệm vận động khiến họ tự tin khi thực hiện các động tác trong điều kiện thay đổi của HĐ lao động hàng ngày và hoạt động Thể dục thể thao.

Hình thành ham muốn và hài lòng có được trong quá trình luyện tập Thể dục dần dần chuyển thành thói quen mong muốn luyện tập một cách đều đặn, có hệ thống sau đó biến thành nhu cầu bền vững về tập luyện Thể dục và HĐTT.

Các nhiệm vụ này sẽ phát triển toàn diện các tố chất vận động và năng lực thể chất, hoàn thiện thể hình, tăng cường sức khỏe, phát triển duy trì vận động thể lực. Có thể nói nhiệm vụ hàng đầu của Giáo dục thể chất là đảm bảo phát triển tối ưu thể lực của cá nhân các tố chất vận động cơ bản cần thiết cho cuộc sống như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khả năng phối hợp vận động. Giáo dục thể chất giúp hoàn thiện kỹ năng vận động trong cuộc sống, kể cả kỹ năng thực dụng và thể thao. Tùy theo độ tuổi mà có những bài tập Thể dục khác nhau, phù hợp với cơ thể và kinh nghiệm, năng khiếu của mỗi học sinh để phát triển.

1.3.5. Các hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh tại trường Tiểu học

Trong trường Tiểu học, hoạt động Giáo dục thể chất cho HS được thực hiện qua các hoạt động sau:

  • Hoạt động giảng dạy môn Thể dục chính khóa;
  • Hoạt động vận động thể lực trong các môn học khác;
  • Hoạt động Thể dục buổi sáng và giữa giờ;
  • Hoạt động câu lạc bộ năng khiếu, rèn luyện Thể dục thể thao;
  • Hoạt động thi đấu Thể dục thể thao của HS;
  • Hoạt động tham quan, sinh hoạt ngoại khóa cho HS;
  • Hoạt động chuyên đề liên quan Giáo dục thể chất cho HS.

1.3.6. Đặc điểm của hoạt động Giáo dục thể chất Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Đặc điểm cơ bản của hoạt động này là học lí thuyết gắn liền với thực hành, biết lí thuyết để thực hành đúng và chính xác hơn, ngược lại qua thực hành sẽ làm cho HS hiểu lí thuyết được sâu, đầy đủ và chắc chắn hơn, từ đó hiệu quả học tập đạt chất lượng cao. Trong thực tế, phần thực hành chiếm tỉ trọng lớn, vì chỉ có thông qua thực hành tập luyện các bài tập Thể dục thể thao đúng phương pháp khoa học mới đem lại sức khỏe, thể lực, mà sức khỏe thể lực là mục tiêu cơ bản của Thể dục thể thao. Do đó, tập luyện là hình thức cơ bản thể hiện đặc trưng của môn học Thể dục. Thời lượng cần thiết để tập luyện, người hướng dẫn, sân tập, nhà thể chất, các thiết bị và vấn đề an toàn trong tập luyện …là những điều kiện quan trọng để môn học Thể dục thực hiện chức năng của mình và là yếu tố quyết định thực hiện mục tiêu môn học.

Nội dung  giảng dạy Giáo dục thể chất trong trường TH:

  • Lí thuyết chung
  • Đội hình đội ngũ.
  • Bài Thể dục phát triển chung.
  • Chạy, bật nhảy, ném, trò chơi, thể thao tự chọn.

1.4. Lí luận về quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh ở trường Tiểu học

1.4.1. Cơ sở pháp lý thực hiện quản lí hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh

Trong quá trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và Giáo dục thể chất nói riêng, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản pháp quy để chỉ đạo cho công tác giáo dục và Giáo dục thể chất.

Trước hết ta có thể nhận thấy tính chất pháp lý của hoạt động Giáo dục thể chất thể hiện qua điều 41 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi rõ: “Quy định chế độ Giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học các cấp”.

Tính chất pháp lý của hoạt động Giáo dục thể chất còn được thể hiện rất rõ ở các điều 22, 27, 33, 39 của Luật giáo dục ngày 4/6/2005. Các điều luật này đã xác định rõ mục tiêu phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho đối tượng giáo dục. Luật quy định: “Nhà nước coi trọng Thể dục thể thao trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh, thiếu niên nhi đồng. Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc với học sinh sinh viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học”. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Pháp lệnh Thể dục thể thao được Ủy ban thường vụ quốc hội khóa X thông qua ngày 25/9/2000 ở điều 14 chương III quy định “TDTT trường học bao gồm Giáo dục thể chất và hoạt động ngoại khóa cho người học”. “GDTC trong trường học là chế độ Giáo dục thể chất bắt buộc nhằm nâng cao sức khỏe phát triển thể chất, góp phần bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học. Nhà nước khuyến khích ngoại khóa trong nhà trường”.

Tính chất pháp lý của hoạt động Giáo dục thể chất còn thể hiện ở các thông tư, chỉ thị, các quy chế, quyết định về công tác Giáo dục thể chất của Bộ GD&ĐT, cụ thể các chỉ thị như sau: Chỉ thị 14/TDQS ngày 24/6/1971 của Bộ GD&ĐT về việc thực hiện chế độ rèn luyện thân thể theo lứa tuổi trường học các cấp.

Thông tư liên Bộ GD – Thể dục thể thao số 403 ngày 17/6/1975 ban hành tiêu chuẩn rèn luyện thân thể [5].

Ngày 10/ 01/ 1990 Thông tư liên Bộ GD&ĐT – Thể dục thể thao – Tài chính lao động thương binh xã hội số 01/TT đã quy định chế độ bồi dưỡng và trang phục thể thao.

Quyết định số 931/ RLTC ngày 29/ 4/ 1993 của Bộ GD&ĐT quy định về các yêu cầu được cấp chứng chỉ Thể dục thể thao để hoàn thành điều kiện cần và bắt buộc khi thi tốt nghiệp của học sinh sinh viên các trường đại học, cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp. [7tr.87].

Thông tư liên tịch số 04 – 93/ GD&ĐT – Thể dục thể thao ngày 17/ 6/ 1993 về việc xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải tiến công tác tổ chức quản lí Thể dục thể thao và Giáo dục thể chất trong trường học các cấp đến năm 2025 [8, tr.95].

Chỉ thị ngày 2/5/2004 của Bộ GD&ĐT và quyết định ngày 1/9/2004 của Bộ GD&ĐT nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT nói chung và Giáo dục thể chất nói riêng.

Qua quan điểm đường lối thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, ta có thể nhận thấy Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi trọng công tác Giáo dục thể chất trong trường học các cấp. Coi Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, là một nội dung không thể thiếu trong chương trình đào tạo ở các trường học. Tất cả các cơ sở về quan điểm và đường lối chỉ đạo công tác Giáo dục thể chất của Đảng và Nhà nước ta, các văn bản pháp quy, thông tư, chỉ thị, quy chế của Nhà nước và Bộ GD&ĐT là những cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường Tiểu học ở nước ta.

1.4.2. Nội dung quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở trường Tiểu học

Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất bao gồm quản lí các nội dung Giáo dục thể chất như đã trình bày ở mục 1.3.5, nghĩa là:

  • Quản lí hoạt động giảng dạy môn Thể dục chính khóa;
  • Quản lí hoạt động vận động thể lực trong các môn học khác;
  • Quản lí hoạt động Thể dục buổi sáng và giữa giờ;
  • Quản lí hoạt động câu lạc bộ năng khiếu, rèn luyện Thể dục thể thao;
  • Quản lí hoạt động thi đấu Thể dục thể thao của HS;
  • Quản lí hoạt động tham quan, sinh hoạt ngoại khóa cho HS;
  • Quản lí hoạt động chuyên đề liên quan Giáo dục thể chất cho HS.

Các hoạt động nói trên được thực hiện theo các chức năng quản lí: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.

1.4.2.1. Xây dựng kế hoạch Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học

Căn cứ vào chương trình giáo dục Tiểu học đối với môn TD, Hiệu trưởng nhà trường quản lí tốt chương trình dạy môn TD chặt chẽ, khoa học. Lập kế hoạch hoạt động giáo dục môn TD chính khóa được cụ thể hóa theo từng tuần, theo quy định hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với từng khối lớp. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Đối với HĐ vận động thể lực cho HS ở các môn học khác là hoạt động mang tính lâu dài, công tác quản lí cần xác định mục tiêu, quản lí những kế hoạch tích hợp vào các môn học.

  • Cần có kế hoạch thực hiện hoạt động TD buổi sáng và giữa giờ cho HS. Xác định rõ thời gian, địa điểm cụ thể.
  • Để nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất cho học sinh, Hiệu trưởng nhà

trường cần xây dựng kế hoạch hoạt động câu lạc bộ năng khiếu, rèn luyện Thể dục thể thao, các hoạt động thi đấu của HS. Ngoài ra, còn có kế hoạch tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, chuyên đề về Giáo dục thể chất cho học sinh.

1.4.2.2. Tổ chức hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học

Tổ chức là quá trình sắp xếp, bố trí một cách khoa học, phù hợp các nguồn lực để Giáo dục thể chất cho HS. Hiệu trưởng cần phân công giảng dạy môn TD một cách khoa học dựa trên năng lực và đảm bảo cơ sở pháp lý, đảm bảo giờ lao động theo quy định.

Đối với HĐ vận động thể lực cho HS ở các môn học khác, các hoạt động TD buổi sáng, giữa giờ và HĐ ngoại khóa khác cần sắp xếp bố trí nguồn học tập hợp lý, thiết lập cơ chế phối hợp đảm bảo các Hoạt động Giáo dục thể chất được nhịp nhàng, đúng mục tiêu đề ra. Đảm bảo thông tin thông suốt giữa cấp trên và cấp dưới hoặc ngược lại.

1.4.2.3. Chỉ đạo hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học

Hiệu trưởng chỉ đạo Giáo dục thể chất bao gồm các nội dung sau:

  • Triển khai hướng dẫn việc dạy và học môn Thể dục theo đúng quy định của chương trình.
  • Động viên, giúp đỡ GV thực hiện hoạt động Giáo dục thể chất trong và ngoài giờ lên lớp.
  • Chỉ đạo các giải hội thao, thao diễn Thể dục thể thao.
  • Chỉ đạo thực hiện các trò chơi, tham quan, thi đấu, sinh hoạt câu lạc bộ Thể dục thể thao .
  • Tổ chức chỉ đạo tự rèn luyện sức khỏe thể chất của học sinh.
  • Tổ chức vệ sinh an toàn tập luyện và thi đấu Thể dục thể thao trong trường học.
  • Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong hoạt động Giáo dục thể chất.
  • Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ Giáo dục thể chất (Sân bãi, dụng cụ tập luyện và thi đấu Thể dục thể thao,…).

1.4.2.4. Kiểm tra hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học

Các hoạt động kiểm tra Giáo dục thể chất bao gồm:

  • Ký duyệt giáo án giảng dạy bộ môn Thể dục theo quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ và chương trình giảm tải của Bộ GD&ĐT. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.
  • Dự giờ thăm lớp, đóng góp ý kiến xây dựng tiết dạy.
  • Kiểm tra hoạt động chuyên môn của các giáo viên về các hoạt động Giáo dục thể chất tích hợp qua các môn học.
  • Kiểm tra thực hiện các chuyên đề về hoạt động Giáo dục thể chất.
  • Kiểm tra hướng dẫn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ Giáo dục thể chất của giáo viên.

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở trường Tiểu học

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất như: Năng lực, phẩm chất đạo đức của người cán bộ quản lí, cơ sở vật chất, kế hoạch hoạt động… Kết quả quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường TH ngoài chịu ảnh hưởng chủ quan của chủ thể quản lý còn chịu tác động và ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố khách quan. Các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng tới kết quả quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường học nói chung và trường TH nói riêng.

1.5.1. Các yếu tố khách quan

Điều kiện cơ sở vật chất: Trong hoạt động Giáo dục thể chất, từ việc giảng dạy chính khóa trên lớp đến ngoại khóa cho học sinh, từ việc đổi mới phương pháp dạy học tới việc nghiên cứu khoa học của giáo viên… đều cần phải có đủ diện tích sân bãi và dụng cụ tập luyện đáp ứng cho học sinh tập luyện. Chính vì vậy, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho hoạt động Giáo dục thể chất có ý nghĩa và tầm quan trọng hết sức to lớn, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động Giáo dục thể chất trong nhà trường. Ở các nước phát triển, người ta quy định diện tích, số lượng dụng cụ… cho mỗi học sinh, trong khi đó ở nước ta, nhiều trường diện tích sân bãi tập luyện quá ít và công tác quản lí quá trình dạy học của các giáo viên Thể dục còn hạn chế.

Quản lí cơ sở vật chất: Điều 20 mục 5 của Điều lệ trường Tiểu học nêu nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng có nội dung: Quản lí hành chính; quản lí và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà trường. Đa số các trường đều được cung cấp trang thiết bị phục vụ hoạt động dạy và học theo danh mục tối thiểu do Bộ GD&ĐT quy định. Giáo viên có ý thức sử dụng thiết bị dạy học trong các giờ lên lớp và tự làm một số đồ dùng dạy học đáp ứng các yêu cầu dạy và học ở Tiểu học; Học sinh cần có ý thức sử dụng và bảo quản cẩn thận dụng cụ tập luyện; Ban Giám Hiệu các trường có tổ chức kiểm kê, sửa chữa, nâng cấp, bổ sung đồ dùng và thiết bị dạy học hàng năm. Tuy nhiên, vẫn còn các trang thiết bị chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho giáo viên và học sinh sử dụng trong dạy và học và chất lượng các trang thiết bị cũng không sử dụng lâu dài với nguồn kinh phí đầu tư còn hạn hẹp (thiết bị kém chất lượng); Việc quản lí các thiết bị chưa được quan tâm đúng mức. Một số cán bộ quản lí thiết bị không có chuyên môn sâu về Giáo dục thể chất nên việc bảo quản thiết bị không đúng cách cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng đồ dùng dạy học không sử dụng lâu dài được hoặc một số trường không đủ phòng bảo quản thiết bị nên các thiết bị không được bảo quản tốt. Do đó, người cán bộ quản lí cần hết sức quan tâm đến công tác đầu tư, sử dụng, bảo quản, kiểm tra thường xuyên các trang thiết bị phục vụ hoạt động dạy và học của các trường Tiểu học để nâng cao chất lượng giáo dục.

Nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động Giáo dục thể chất: Như chúng ta đã biết, muốn hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường TH đạt được chất lượng và hiệu quả cao thì cần phải có hệ thống cơ sở vật chất không những đầy đủ mà còn ngày càng được hoàn thiện theo hướng hiện đại hóa. Do đó, vấn đề đầu tư kinh phí cho công tác này từ các nguồn kinh phí khác nhau là việc làm hết sức cần thiết. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

 Cơ chế chính sách đối với đội ngũ giáo viên Thể dục: Giáo dục thể chất là một trong các nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên Thể dục, những người trực tiếp tiến hành hoạt động này phải chịu nhiều vất vả do đặc thù nghề nghiệp cũng như điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.

Chính vì thế, nếu có được các chính sách thỏa đáng đối với đội ngũ giáo viên Thể dục sẽ góp phần nâng cao được chất lượng và hiệu quả của hoạt động GDTC trong các nhà trường.

Sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục (nhà trường, gia đình và xã hội): Từ thực tiễn và lý luận giáo dục đã chỉ ra rằng, muốn tạo nên những thành quả giáo dục tốt nhất cho mỗi học sinh thì cần có sự phối kết hợp giữa 3 lực lượng giáo dục. Trong hoạt động Giáo dục thể chất cho học sinh cũng vậy, việc chăm sóc, bảo vệ và phát triển thể chất cho học sinh được thực hiện ở trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục sẽ góp phần nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất cho học sinh trong các nhà trường. Cán bộ quản lý các trường nên tích cực huy động các nguồn lực xã hội để hỗ trợ chăm lo cho học sinh nhằm góp phần phát triển giáo dục toàn diện cho trẻ tại địa phương.

Tính khoa học và tính tiếp cận hiện đại của chương trình môn học Giáo dục thể chất: Chất lượng công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất còn phụ thuộc vào việc đảm bảo tính khoa học và tính tiếp cận hiện đại của chương trình. Bởi lẽ chương trình và tài liệu môn học là một bản thiết kế cho trình độ phát triển thể chất của học sinh, trong đó mục tiêu yêu cầu đào tạo đã mô hình hóa các kiến thức và trình độ thể chất của học sinh sau khi hoàn thành môn học. Đồng thời chương trình cũng đã nêu lên các nội dung, phương pháp và phân bổ các nội dung và thời gian học tập trong các học kỳ, chỉ tiêu thi và kiểm tra… Chương trình và tài liệu mang tính khoa học tiếp cận hiện đại thì sẽ giúp cho các giáo viên thực hiện được các mô hình giáo dục, đảm bảo chất lượng Giáo dục thể chất. Ngược lại, nếu chương trình giáo dục lạc hậu sẽ ảnh hưởng xấu tới kết quả của công tác Giáo dục thể chất trong các nhà trường.

1.5.2. Các yếu tố chủ quan Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Hiệu quả quản lí hoạt động Giáo dục thể chất chịu sự ảnh hưởng rất lớn của yếu tố chủ quan của chủ thể quản lí. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lí Giáo dục thể chất bao gồm:

  • Nhận thức về tầm quan trọng của công tác Giáo dục thể chất đối với việc giáo dục toàn diện cho học sinh:

Nếu nhà quản lí nhận thức đúng và đầy đủ về công tác giáo dục sẽ có hành vi quản lí sâu sát và quan tâm đầy đủ tới sự chuẩn bị đầy đủ các yếu tố trong công tác Giáo dục thể chất như chương trình, giáo trình, sân bãi, phương tiện dạy học, quá trình dạy học của giáo viên và quá trình học tập của học sinh. Công tác bồi dưỡng giáo viên, công tác nghiên cứu khoa học, công tác kiểm tra đánh giá… Ngược lại, nếu nhận thức chưa đầy đủ hoặc có ý thức coi nhẹ công tác

Nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành và lãnh đạo địa phương đối với lợi ích, tác dụng và vai trò của Giáo dục thể chất trong giáo dục toàn diện cho học sinh chưa thực sự sâu sắc. Nếu hoạt động Giáo dục thể chất được cấp uỷ, chính quyền và lãnh đạo ngành giáo dục của địa phương coi trọng thì sẽ được đầu tư toàn diện cả nhân lực, vật lực, tài lực cho công tác Giáo dục thể chất, từ đó giúp cho hiệu quả quản lí công tác này tốt hơn; ngược lại sẽ làm cho công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng xấu tới hiệu quả quản lí.

Nhận thức của học sinh đối với hoạt động Giáo dục thể chất chưa thực sự đầy đủ. Nước ta là một nước đang phát triển, lịch sử nước ta trải qua nhiều năm dưới chế độ phong kiến nữa thuộc địa, bị chiến tranh tàn phá, bởi vậy hoạt động GDTC chưa có lịch sử phát triển lâu dài như các nước phát triển. Bên cạnh đó, kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa… nên điều kiện tham gia các hoạt động Giáo dục thể chất, hoạt động Thể dục thể thao cũng như điều kiện tìm hiểu về ý nghĩa, lợi ích tác dụng của hoạt động Giáo dục thể chất đối với sức khỏe con người còn hạn chế. Với điều kiện như vậy, việc chưa có được các nhận thức đúng đắn về Giáo dục thể chất để tạo ra được động cơ, tinh thần tự giác tích cực trong hoạt động Giáo dục thể chất cũng là điều hiển nhiên. Đây cũng chính là rào cản, là nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hiệu quả quản lí hoạt động Giáo dục thể chất trong các nhà trường.

  • Năng lực và kinh nghiệm quản lí của người quản lí các trường Tiểu học:

Năng lực quản lí là khả năng sử dụng đúng và kịp thời các công cụ quản lí và phương pháp quản lí tác động lên đối tượng quản lí nhằm giải quyết một công việc hoặc sự việc quản lí có hiệu quả.

  • Yếu tố trình độ năng lực của người thầy. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Trong quản lí hoạt động Giáo dục thể chất thì yếu tố trình độ năng lực của người thầy ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác quản lí hoạt động Giáo dục thể chất. Người thầy ngoài việc cần có phẩm chất đạo đức, tác phong gương mẫu, chuẩn mực thì cần phải có năng lực trình độ tốt, đáp ứng cho việc dạy tốt môn Giáo dục thể chất trong trường TH. Trình độ, năng lực của người thầy thể hiện ở trình độ học vấn, năng lực thực hành, năng lực sư phạm và năng lực tổ chức điều hành hoạt động dạy học, hoạt động thi đấu các môn thể thao trong trường học. Do khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, do phương pháp dạy học không ngừng cải tiến, người thầy cần phải thường xuyên được tiếp tục đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động Giáo dục thể chất và chất lượng quản lí hoạt động Giáo dục thể chất trong nhà trường.

Kết luận chương 1

Quản lí Hoạt động Giáo dục thể chất là sự tác động liên tục mang tính mục đích có kế hoạch của chủ thể QL lên khách thể QL nhằm thực hiện mục tiêu Giáo dục thể chất đã đề ra. QLGDTC có mục tiêu, chức năng và nguyên tắc riêng của mình.

Nghiên cứu quản lí Giáo dục thể chất ở trường TH là lĩnh vực còn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, quản lí giáo dục, tác giả đã làm sáng tỏ thêm một số khái niệm về quản lí Giáo dục thể chất, làm sáng tỏ những mục đích, nội dung Giáo dục thể chất đối với HS Tiểu học.Tác giả đã nêu được các nội dung quản lí Giáo dục thể chất cho HS trường TH thông qua việc thực hiện các chức năng quản lí: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và các nội dung cơ bản của hoạt động Giáo dục thể chất trong trường TH, cũng như nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm Giáo dục thể chất cho HS và vai trò của Giáo dục thể chất đối với học sinh TH. Làm sáng tỏ các điều kiện đảm bảo chất lượng Giáo dục thể chất ở TH về vấn đề con người (học sinh, cán bộ quản lí); về cơ sở vật chất cho Giáo dục thể chất; về trình độ, nắm vững các phương pháp và kỹ thuật dạy học, tập luyện Thể dục thể thao, về điều kiện kinh phí; về cơ chế quản lí. Luận văn: Quản lí hoạt động Giáo dục thể chất tại trường Tiểu học.

Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể quản lí, nội dung quản lý Giáo dục thể chất và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí Giáo dục thể chất cho học sinh TH… Đây là những căn cứ để đề tài đề xuất nội dung khảo sát thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc quản lí hoạt động Giáo dục thể chất ở các trường TH thị xã Bến Cát trong giai đoạn hiện nay.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lí Giáo dục thể chất ở trường Tiểu học

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993